Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người khmer ở tịnh biên an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
--------------------

Nguyễn Tơn Thanh Ngun

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NGHỀ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI
KHMER Ở TỊNH BIÊN – AN GIANG
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HUỲNH QUỐC THẮNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2007

LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu, kết quả
được trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Tôn Thanh Nguyên.


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam là cộng đồng gồm 54 tộc người. Nghiên cứu tộc người nói chung,
nghiên cứu ngành nghề truyền thống của tộc người nói riêng đều có ý nghĩa lý luận khoa
học và ý nghĩa thực tiễn cao trong nghiên cứu lịch sử dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Người Khmer là một trong 54 tộc người của cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, chủ
yếu sống tập trung ở các tỉnh đồng bằng sơng Cửu Long. Trong đó, tỉnh An Giang là một
trong những địa phương của vùng đồng bằng có người Khmer định cư lâu đời, phân bố tập
trung ở hai huyện miền núi Tịnh Biên và Tri Tôn. Người Khmer ở huyện Tịnh Biên, tỉnh An
Giang chiếm một số lượng khá lớn (30% dân số huyện) có lịch sử - văn hóa lâu đời và có
nhiều nghề truyền thống độc đáo. Vì vậy, nghiên cứu nghề truyền thống của người Khmer ở
Tịnh Biên – An Giang vừa góp phần tìm hiểu sâu sắc hơn lịch sử - văn hóa của người
Khmer ở huyện Tịnh Biên nói riêng, ở đồng bằng sơng Cửu Long nói chung, vừa góp phần
tìm hiểu lịch sử - văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong các quá trình giao tiếp
văn hóa khác nhau từ trước đến nay.
Nghiên cứu về nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang là một đề
tài hấp dẫn mang tính địa phương, nhưng từ trước đến nay chưa được tiến hành nghiên cứu
chuyên sâu. Người Khmer và nghề truyền thống của dân tộc này có được một số nhà khoa
học đề cập đến nhưng cũng chỉ dừng lại ở sự mô tả, giới thiệu. Tuy nhiên, trong xu thế giao
lưu và hoà nhập hiện nay, nhiều giá trị truyền thống của Việt Nam đang có nguy cơ bị mai
một, trong đó có các nghề truyền thống của người Khmer. Do vậy, làm thế nào để “khơi lại
mầm sống” cho chúng ? đây đang là vấn đề cần được quan tâm và giải quyết.
Là một người dân sinh trưởng tại địa phương, tác giả luận văn có điều kiện thường
xuyên tiếp xúc trực tiếp với người Khmer và tìm hiểu những giá trị truyền thống tốt đẹp của
họ. Nhưng đồng thời, tác giả cũng thấy được những giá trị này đang bị mai một mà người
dân địa phương cũng như người dân cả nước ít chú ý và biết đến, nhất là các nghề mang yếu
tố truyền thống. Nhằm hướng tới mục tiêu tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu về một vấn đề
mang tính cấp bách của địa phương về một dân tộc có lịch sử phát triển lâu đời trong vùng,
chúng tơi chọn đề tài Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người
khmer ở Tịnh Biên – An Giang để làm nội dung nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao
học của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề


Tịnh Biên là một trong những huyện của tỉnh An Giang, nguồn thư tịch cổ viết về
vùng đất An Giang khá phong phú, được dịch và tái bản nhiều lần. Trong đó, tác giả luận
văn chú ý đến những tác phẩm như Gia Định thành thơng chí của Trịnh Hồi Đức, Đại Nam
nhất thống chí, Đại Nam thực lục do Đào Duy Anh (h.đ). Ngồi ra, để có thêm tài liệu viết
về người Khmer ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung, tác giả cịn tập trung thu
thập những bài viết có liên quan, có thể điểm qua những chặng đường cơ bản sau :
Từ năm 1945 đến những năm 1990, người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã
được một số tác giả nghiên cứu và đề cập trong các tác phẩm của mình, tiêu biểu như :
“Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang là công trình nghiên cứu về cuộc Nam
tiến của dân tộc Việt Nam, quá trình khai hoang lập ấp của người Việt, người Hoa và người
Khmer, …cùng với triều đình nhà Nguyễn ; nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa của người
dân sau khi đã làm chủ vùng đất này, trong đó có vùng Tây Nam Bộ, một cương vực không
kém phần quan trọng trong lãnh thổ Việt Nam.
Các tác phẩm “Người Việt gốc Miên”, “Chợ trời biên giới Việt Nam – Cao Miên”
của Lê Hương giới thiệu sâu hơn về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, về lịch sử,
đời sống kinh tế - xã hội, nét sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, tơn giáo cũng như những hoạt
động buôn bán của người Khmer ở vùng biên giới.
Mạc Đường qua các tác phẩm “Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu
Long trong thời cổ đại”, “Quá trình phát triển dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu
Long từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX”, “Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu
Long vào những năm đầu của thế kỷ XX”, … có đề cập đến q trình hình thành tộc người
Khmer ở đồng bằng sơng Cửu Long, trong đó có q trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, kinh
tế, mối liên hệ lịch sử giữa họ với các dân tộc anh em trong vùng, …
Một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí như “Người Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long là thành viên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam” của Ngô Đức Thịnh, nghiên
cứu lịch sử (3/1984) ; “Nghiên cứu về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long” của tác
giả Phan An trong tạp chí Dân tộc học (3/1985), ... Đáng chú ý là bài của Ngô Đức Thịnh,

tác giả đã đưa ra sự so sánh giữa người Khmer đồng bằng sông Cửu Long với người Khmer
Campuchia, lịch sử hình thành người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long và đi đến khẳng
định : người khmer ở đồng bằng sông Cửu Long là thành viên của cộng đồng 54 dân tộc
Việt Nam.
Tuy nhiên, các tác phẩm trên chỉ được các tác giả mô tả, khái quát chung về người
Khmer ở đồng bằng sơng Cửu Long, giới thiệu nhiều phương diện văn hóa, đời sống kinh tế
- xã hội của họ, song, chưa đi sâu về một lĩnh vực cụ thể hay một địa phương cụ thể.


Từ những năm 1990 đến nay : Các cơng trình, bài viết đã khá phong phú, đi sâu hơn
về nhiều vấn đề.
Lịch sử An Giang của tác giả Sơn Nam viết khá chi tiết về con người, đất đai, kinh tế,
... An Giang, từ khi mới hòa nhập vào lãnh thổ nước ta đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
cứu nước.
Các tác giả Thạch Voi với “Khái quát về người Khmer đồng bằng sông Cửu Long”,
“Phong tục tập quán của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long” ; “Một số vấn đề
kinh tế xã hội của vùng nông thôn Khmer đồng bằng sông Cửu Long, “Những vấn đề dân
tộc – tôn giáo ở miền Nam”, ... của Phan An ; Phan Thị Yến Tuyết, Tôn Nữ Quỳnh Trân
qua các tác phẩm “Văn hóa vật chất của các dân tộc ở đồng bằng sơng Cửu Long”, “Xóm
nghề và nghề thủ công truyền thống Nam Bộ”, “Nghề dệt Chăm truyền thống” … cho thấy
có những nghiên cứu khá chi tiết về người Khmer, về đời sống vật chất, đời sống kinh tế xã hội, nghề truyền thống của người Khmer ở đồng bằng sơng Cửu Long. Ví dụ như Tơn
Nữ Quỳnh trân trong cơng trình nghiên cứu của bà về dệt thổ cẩm của người Chăm đã có sự
so sánh với dệt thổ cẩm của người Khmer. Hoặc các tác giả chuyên nghiên cứu về An Giang
như Mai Văn Tạo, Nguyễn Hữu Hiệp, … với những bài viết về vùng đất An Giang, trong đó
có đề cập đến những nghề truyền thống của người Khmer như làm đường thốt nốt, dệt.
Gần đây, những năm của thập niên đầu thế kỷ XXI, vấn đề dân tộc của cả nước nói
chung, của từng vùng, từng địa phương nói riêng đang được Nhà nước quan tâm, thu hút
nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học của Trung ương cũng như địa phương tập trung nghiên
cứu trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Nhất là trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa như hiện nay, việc bảo tồn và phát huy những yếu tố truyền thống của mỗi dân
tộc không chỉ dừng lại ở việc hiểu rõ về lịch sử, về văn hóa truyền thống của dân tộc đó mà

cịn lan ra ở cả lĩnh vực kinh tế và các lĩnh vực khác của toàn địa phương, toàn vùng.
Mặc dù vậy, nguời Khmer, nghề truyền thống của người Khmer trong các cơng trình
nghiên cứu của các tác giả như đã nêu chỉ mang tính chung nhất của cả đồng bằng sơng Cửu
Long và phần lớn được đề cập dưới cái nhìn chung, từ góc độ dân tộc học, kinh tế học,...
chưa đi sâu vào khía cạnh lịch sử, vào những giá trị của các nghề, cũng như chúng đã góp
phần như thế nào vào tiến trình phát triển chung của địa phương. Trên cơ sở phát huy thành
quả nghiên cứu của những người đi trước, đề tài này sẽ hệ thống lại, cố gắng làm rõ hơn về
lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở một địa phương cụ
thể, đó là huyện Tịnh Biên thuộc tỉnh An Giang - một trong những huyện có đơng đồng bào
dân tộc Khmer sinh sống ở đồng bằng sông Cửu Long.
3. Mục đích nghiên cứu


Dân tộc Khmer là dân tộc có lịch sử định cư lâu đời tại khu vực Tây Nam Bộ. Ở Tịnh
Biên, họ là cư dân bản địa, có nền văn hóa và nghệ thuật đặc sắc. Vì vậy, mục đích nghiên
cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề cơ bản sau :
Lịch sử các nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang, tập trung
vào những nghề nổi bật nhất, gắn với lịch sử định cư, khai phá của người Khmer ở nơi đây,
những nghề mà hiện nay họ vẫn còn lưu giữ, chủ yếu là nghề dệt thổ cẩm và nghề làm
đường thốt nốt.
Trên cơ sở giới thiệu và mô tả các nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên –
An Giang, tác giả luận văn làm rõ những giá trị và ý nghĩa lịch sử - văn hố của nghề, qua
đó rút ra khái niệm chung về nghề truyền thống. Đồng thời, tác giả còn đưa ra một số
phương hướng cụ thể nhằm tiếp tục bảo tồn và phát huy các nghề truyền thống Khmer trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghề truyền thống là biểu hiện của một quá trình lưu giữ những giá trị tốt đẹp, trải qua
những bước thăng trầm của lịch sử mà vẫn giữ được những yếu tố cổ truyền của dân tộc.
Nghiên cứu nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang chính là một
hình thức tiếp cận nghiên cứu về bản thân cộng đồng dân tộc, về lịch sử định cư của dân tộc

Khmer ở vùng đất Tịnh Biên, trực tiếp là về lịch sử hình thành và phát triển các nghề có tính
truyền thống của họ. Trong quá trình cộng cư với các dân tộc khác, những người thợ thủ
cơng Khmer đã giữ lại được những gì, phát huy được những gì cho nghề truyền thống của
mình. Đặc biệt, trong bối cảnh đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, Nhà nước
và người dân Khmer của huyện Tịnh Biên sẽ phải làm gì để những nghề truyền thống độc
đáo mang sắc thái riêng của vùng khơng bị mai một đi. Theo hướng đó, nội dung đề tài sẽ
tập trung đi sâu nghiên cứu về :
- Nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên, trọng tâm là nghề dệt thổ cẩm và
làm đường thốt nốt.
- Giá trị và ý nghĩa lịch sử - văn hóa của các nghề truyền thống này (thơng qua lịch sử
hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer Tịnh Biên – An Giang, …).
- Phương hướng bảo tồn và phát huy nghề truyền thống của người Khmer trong thời
gian tới.
Dựa vào thực tế, về mặt không gian : đề tài sẽ tiến hành tập trung khảo sát ở một số địa
bàn xã có đơng đảo người Khmer sinh sống tại huyện Tịnh Biên như An Hảo, Tân Lợi, Vĩnh
Trung, Văn Giáo, An Cư, … nhằm làm nổi rõ lên những điểm chung nhất về nghề truyền
thống của người khmer ở Tịnh Biên – An Giang.


Cũng dựa vào thực tế và do điều kiện tài liệu có được, về mặt thời gian : đề tài này chỉ
tập trung nhiều đến sự tồn tại và phát triển của nghề truyền thống Khmer tại Tịnh Biên từ
năm 1975 đến nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn sẽ lần lượt đi sâu tìm hiểu, giải quyết các
vấn đề :
- Lịch sử hình thành và phát triển huyện Tịnh Biên qua nghiên cứu về địa lý tự nhiên,
cộng đồng dân cư trong huyện và những đặc điểm chung về kinh tế - xã hội của địa phương.
- Đồng thời, tác giả luận văn tập trung nghiên cứu hai nghề truyền thống điển hình của
người Khmer ở địa phương là nghề dệt và làm đường thốt nốt. Trên cơ sở đó, nội dung luận
văn hướng đến mục tiêu tìm hiểu về lịch sử hình thành, phát triển của nghề truyền thống

Khmer ở huyện và các khía cạnh lịch sử - văn hóa khác liên quan đến đề tài.
- Thông qua nghiên cứu về giá trị và ý nghĩa lịch sử - văn hóa của các nghề truyền
thống ấy, tác giả luận văn cố gắng đưa ra một số phương hướng, ý kiến đề xuất nhằm góp
phần bảo tồn và phát huy tốt hơn nữa các nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên –
An Giang.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã vận dụng những phương pháp nghiên
cứu sau :
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic : là phương pháp nghiên cứu của ngành
học, đồng thời cũng là phương pháp chính được vận dụng trong luận văn.
Ngồi ra, tác giả cịn kết hợp với phương pháp phân tích và so sánh để tìm mối quan
hệ giữa các sự kiện, các vấn đề, nhằm nêu bật lên nội dung cốt lõi của sự việc và cố gắng
trình bày lại chúng như đã từng diễn ra trong tiến trình lịch sử.
Phương pháp hệ thống hóa : Trên cơ sở các vấn đề có liên quan được viết tản mạn, rãi
rác trong các tài liệu, từ nhiều nguồn khác nhau, tác giả luận văn tổng hợp, hệ thống chúng
lại, đặt chúng vào bối cảnh chung của lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương để trình bày.
Phương pháp điền dã : Tác giả luận văn tiến hành đến những làng nghề dệt thổ cẩm và
làm đường thốt nốt, sưu tầm thêm tư liệu, trao đổi với người dân, tiếp xúc với sư sãi các
chùa ở Tịnh Biên, ... để hiểu thêm về phong tục tập quán, sự tồn tại, tiến triển của nghề
truyền thống của người Khmer trong huyện và những chính sách của địa phương đối với
nghề và đồng bào Khmer Tịnh Biên.


Đồng thời, tác giả luận văn còn vận dụng các phương pháp liên ngành như dân tộc học,
văn hóa học, kinh tế học, … để tiếp cận với đối tượng nghiên cứu trong quá trình thực hiện
đề tài.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 138 trang. Trong đó gồm phần mở đầu 8 trang, kết luận 4 trang, tài liệu
tham khảo 7 trang, phần phụ lục 21 trang, phần nội dung chính là 94 trang. Luận văn được
bố cục làm 3 chương :

Chương 1 : Tổng quan về huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Chương 2 : Nghề truyền thống, một nét đặc trưng văn hóa của người Khmer ở Tịnh
Biên – An Giang.
Chương 3 : Giá trị và ý nghĩa lịch sử - văn hóa nghề truyền thống của người Khmer ở
Tịnh Biên, An Giang - Phương hướng bảo tồn và phát huy.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG.
1.1. Địa lý tự nhiên và lịch sử - hành chính
Tịnh Biên, một huyện biên giới của tỉnh An Giang với nhiều dân tộc, di tích lịch sử và
có nhiều đồi núi lớn, nhỏ. Từ Tịnh Biên đến thành phố Long Xuyên (trung tâm của tỉnh An
Giang), tính theo đường chim bay dài 54,5 km. Huyện có diện tích tự nhiên 337,74 km2,
phía Đơng Bắc giáp thị xã Châu Đốc, Đông giáp huyện Châu Phú, Nam giáp huyện Tri tôn,
Đông Nam giáp huyện Châu Thành, Tây Bắc giáp Campuchia,.
Về hành chính, Tịnh Biên gồm 3 thị trấn và 11 xã. Tồn huyện có 45 tuyến địa giáp
cấp xã, trong đó có 4 tuyến trùng với biên giới quốc gia, 18 tuyến trùng với tuyến huyện,
được xác định bằng 41 mốc địa giới hành chính (18 mốc huyện và 29 mốc xã). Huyện có
13/14 xã, thị trấn (trừ xã Tân Lập) được Ủy ban dân tộc Miền núi công nhận là xã vùng núi,
3 xã An Nông, An Phú, Nhơn Hưng và một thị trấn là thị trấn Tịnh Biên có đường biên giới
với Campuchia
Huyện Tịnh Biên có hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ khá tốt. Các tuyến
đường bộ xuyên qua là : Quốc lộ 91 (bắt nguồn từ Cần Thơ đi đến cửa khẩu biên giới Tịnh
Biên), tỉnh lộ 948 (từ thị trấn Nhà Bàng đi huyện Tri Tôn) và tỉnh lộ 55A (từ Xuân Tô (năm
2006 là thị trấn Tịnh Biên) sang xã Lạc Quới (huyện Tri Tôn) đi qua cả thị trấn Kiên Lương


của tỉnh Kiên Giang) ; Về đường thủy, huyện có hệ thống nhiều kênh rạch : kênh Vĩnh Tế
(từ Châu Đốc đến giáp Hà Tiên), kênh Xáng Cụt, kênh Trà Sư, kênh Tri Tôn, …
Địa lý tự nhiên của huyện phân thành 3 vùng rõ rệt :
- Vùng đồi núi chiếm khoảng 13% diện tích, có tiềm năng khống sản, vật liệu xây
dựng, du lịch. Rừng tự nhiên nơi đây thuộc rừng ẩm nhiệt đới với nhiều loại động thực vật

quý hiếm.
- Vùng bán sơn địa chiếm khoảng 21% diện tích, bao gồm đất thổ cư, đất trồng cây ăn
trái và đồng cỏ chăn nuôi.
- Vùng đồng bằng chiếm khoảng 66% diện tích, chủ yếu trồng lúa hai vụ (hè thu và
đơng xn) và một ít trồng tràm.
Tịnh Biên vốn là vùng núi cổ, dưới thời Pháp thuộc, người dân địa phương phát hiện có
dấu vết bờ thành cổ xây bằng gạch nung bao quanh mặt Đông núi Két và các núi liên kết từ
Nhơn Hưng bao bọc xã Thới Sơn, đến tỉnh lộ Châu Đốc đi Tri Tôn (1). Hiện nay bờ thành đã
phẳng lỳ ngang dưới mặt ruộng, nhưng qua nghiên cứu của các nhà khảo cổ, đã tìm thấy rất
nhiều gạch, đất nung tương ứng với thời kỳ tồn tại của vương quốc Phù Nam (thế kỷ thứ II
đến thế kỷ thứ VI). Đến cuối thế kỷ XVIII, Tịnh Biên còn là vùng rừng núi hoang vu, là nơi
trú ẩn và sinh sống của nhiều loài chim muông, thú dữ. Song, kể từ khi vùng đất này được
hình thành với tư cách là một đơn vị hành chính, cho đến nay Tịnh Biên có nhiều thay đổi
về mặt địa danh và địa giới.
Năm 1832, vua Minh Mạng đổi “Ngũ trấn”

(2)

thành “Lục tỉnh”

(3)

(từ “Nam Kỳ Lục

tỉnh” bắt đầu có từ đây). Tỉnh An Giang chính thức được thành lập từ trấn Vĩnh Thanh

(4)

,


có địa giới rất rộng, chạy dài từ biên giới (Tân Châu, Bảy Núi), xuống Cái Tàu Hạ (giữa
sông Tiền và sông Hậu) đến tận Cần Thơ, Sóc Trăng và một phần Giá Rai. Tỉnh gồm hai
phủ Tuy Biên, Tân Thành với bốn huyện : Tây Xuyên (Long Xuyên ngày nay), Phong Phú
(sau này là Cần Thơ), Đông Xuyên (Cái Vừng) và Vĩnh An (sau là Sa Đéc), lỵ sở đặt tại
Châu Đốc – nơi Tổng đốc An Hà trú đóng cai quản hai tỉnh An Giang và Hà Tiên. Có sự
quan tâm, khuyến khích của triều đình nên cuộc khẩn hoang, lập ấp ở An Giang liên tục
được đẩy mạnh. Chỉ riêng hai huyện Tây Xuyên và Đông Xuyên đã lập được 7 tổng, 91
làng. Lúc bấy giờ Tịnh Biên là một phủ của tỉnh Hà Tiên. Năm 1839, hai huyện Hà Âm và
Hà Dương tỉnh Hà Tiên nhập vào phủ Tịnh Biên, phủ lũy đặt ở Hà Dương.
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), phủ Tịnh Biên và huyện Hà Dương của tỉnh Hà Tiên được
cắt ra để sáp nhập vào tỉnh An Giang. Năm 1844, lại lấy huyện Hà Âm cải thuộc phủ hạt
Tịnh Biên. Sau đó, đến năm Tự Đức thứ 3 (1850) có sự sửa đổi, bỏ phủ Tịnh Biên, huyện
Hà Âm quy về Hà Dương và huyện Phong Thạnh, Vĩnh Định do phủ An Xuyên kiêm nhiếp.
Ngày 01/09/1858, Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tấn công Đà Nẵng, mở đầu công cuộc
xâm lược Việt Nam. Đến tháng 06 năm Đinh Mão (1867), tức năm Tự Đức thứ 20, sau ba


tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hịa) thì ba tỉnh miền Tây (An
Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên) tiếp tục rơi vào tay Pháp. Từ đó, Nam Kỳ Lục tỉnh trở thành
thuộc địa của Pháp. Đến năm 1871, tỉnh An Giang bị chia nhỏ thành nhiều tỉnh là Long
Xuyên, Châu Đốc, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ và Sa Đéc. Lúc này Tịnh Biên là một
huyện của tỉnh Châu Đốc, gồm 2 tổng và 17 thôn (tổng Quy Đức có 6 thơn và tổng Thành
Tín có 11 thôn).
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, để cho phù hợp với địa bàn kháng
chiến chống Pháp, rồi sau đó là chống Mỹ, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc được tách,
nhập nhiều lần, đơn vị hành chính của huyện Tịnh Biên vì thế cũng thay đổi theo rất nhiều
lần.
Ngày 06/03/1948, Ủy Ban hành chính kháng chiến Nam Bộ, chia Châu Đốc – Long
Xuyên ra thành hai tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hậu, Tịnh Biên thuộc tỉnh Long
Châu Hậu. Cuối năm 1950, Long Châu Tiền nhập thêm Sa Đéc thành tỉnh Long Châu Sa

còn Long Châu Hậu nhập thêm Hà Tiên thành tỉnh Long Châu Hà (gồm 8 huyện : Châu
Thành, Châu Phú, Thoại Sơn, Tri Tôn, Châu Giang, Hà Tiên, Phú Quốc, Tịnh Biên và 2 thị
xã là Châu Đốc và Long Xuyên). Vậy, thời gian này Tịnh Biên thuộc tỉnh Long Châu Hà.
Tháng 07 năm 1951, huyện Tịnh Biên và huyện Tri Tôn được nhập lại làm một. Đến tháng
10 năm 1954 lại tách ra làm hai huyện như cũ, lúc này An Giang và Châu Đốc là hai tỉnh
riêng biệt và Tịnh Biên thuộc tỉnh Châu Đốc.
Từ năm 1956 – 1957, lại lập địa giới hành chính như địa giới hành chính của chính
quyền Sài Gịn (tỉnh Châu Đốc sáp nhập vào tỉnh An Giang, do sắc lệnh 143/NV ngày
22/10/1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa), gồm hai thị xã là Châu Đốc, Long Xuyên
và 9 huyện : Thốt Nốt, Chợ Mới, Núi Sập, Châu Thành, Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Tri
Tôn, Tịnh Biên. Vậy, Tịnh Biên lại thuộc tỉnh An Giang.
Ngày 01/10/1964, do sắc lệnh số 246/NV ngày 08/09/1964 của Thủ tướng chính phủ
Việt Nam Cộng hịa, tỉnh Châu Đốc tái lập làm một tỉnh riêng. Nhưng từ năm 1971 – 1974,
Phú Quốc, Châu Thành (Rạch Giá) nhập vào An Giang và chia thành hai tỉnh An Giang và
Châu Hà, Tịnh Biên thuộc tỉnh Châu Hà (5). Đầu năm 1974, An Giang, Châu Hà nhận thêm
một phần tỉnh Kiến Phong và chia ra thành hai tỉnh, lấy lại tên gọi như năm 1950 là Long
Châu Tiền và Long Châu Hà

(6)

theo sự phân chia của Trung ương cục vào tháng 05 năm

1974. Huyện Tịnh Biên thuộc tỉnh Long Châu Hà cho đến năm 1975. Nhìn chung, những
thay đổi về địa giới vào thời gian này đều bắt nguồn từ chính sách an ninh, quốc phịng của
cả hai phía : chính quyền Sài Gịn và chính quyền Cách mạng.
Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, thống nhất đất nước, những tháng đầu là
thời kỳ quân quản. Đến ngày 20/12/1975, với Nghị quyết số 19/NQ-TW của Bộ chính trị,
tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà giải thể, hai tỉnh Long Xuyên (cũ) và Châu Đốc (cũ)



nhập lại thành tỉnh An Giang (trừ huyện Thốt Nốt). Tịnh Biên là một trong những huyện
biên giới của tỉnh. Tháng 02 năm 1976, Nghị định của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam giải thể khu hợp nhất tỉnh, bỏ danh xưng “quận” có từ thời Pháp
và lấy lại danh xưng “huyện”, “quận” và “phường” chỉ dành để gọi các đơn vị tương xứng
với huyện và xã khi đã đơ thị hóa.
Ngày 11/03/1977, theo Quyết định số 56/CP của Hội đồng Chính phủ, Tịnh Biên – Tri
Tôn hợp nhất lại thành huyện Bảy Núi trực thuộc tỉnh An Giang. Huyện gồm 21 đơn vị
hành chính xã, thị trấn : Trác Quan, Tri Tôn, Tà Đãnh, Châu Lăng, Tú Tề, Vĩnh Trung, Văn
Giáo, An Tức, Cô Tơ, Ơ Lâm, Vĩnh Gia, Lạc Quới, Ba Chúc, Thới Sơn, Nhơn Hưng, Xuân
Tô, An Nông, An Phú, Lương Phi, An Cư, Lê Trì. Đến ngày 23/08/1979, Hội đồng Chính
phủ ra quyết định số 300/CP, huyện Bảy Núi lại tách ra thành hai huyện Tri Tôn và Tịnh
Biên như cũ. Sau khi điều chỉnh địa giới của Bảy Núi, Tịnh Biên có 11 xã, 1 thị trấn, huyện
lỵ đặt tại thị trấn Chi Lăng. Từ năm 2006, huyện Tịnh Biên có 11 xã là Vĩnh Trung, Văn
Giáo, Thới Sơn, Nhơn Hưng, An Phú, An Nông, An Hảo, Tân Lập, Núi Voi, Tân Lợi, An
Cư và ba thị trấn là Nhà Bàng, Tịnh Biên và Chi Lăng. Thị trấn Nhà Bàng là huyện lỵ

(7)

.

Địa giới lúc này chính thức ổn định đến nay, điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái được
phân định rõ ràng, cụ thể hơn.
Tịnh Biên có nhiều đồi núi lớn, nhỏ nằm rãi rác khắp huyện. Nơi đây trước kia từng là
hậu phương vững chắc của lực lượng cách mạng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ cứu nước. Ngày nay, Tịnh Biên là khu du lịch đang được Nhà nước tập trung đầu
tư phát triển, với một quần thể đa dạng gồm các danh lam thắng cảnh, di tích văn hóa, lịch
sử. Rừng tràm Trà Sư là căn cứ kháng chiến bí mật trong những năm 1960 được phục chế
lại thành điểm tham quan sinh thái đặc sắc. Tịnh Biên cịn là huyện có cửa khẩu quốc tế và
có chợ biên giới Xn Tơ (chợ biên giới Tịnh Biên).
Những lợi thế về kinh tế, du lịch, thương mại cửa khẩu đang giúp Tịnh Biên phát triển

nhanh và đầy triển vọng trong tương lai.
1.2. Cộng đồng cư dân huyện Tịnh Biên và lịch sử - văn hóa
An Giang sau khi trở thành nơi cai quản của nhà Nguyễn, do đặc điểm địa hình là vùng
xa xôi, hẻo lánh nên sau ba thập kỷ kể từ khi có được vùng đất này, hầu như chưa thấy có
việc tổ chức khai hoang lập ấp của nhà cầm quyền. Chính vì vậy mà sau này, khi người dân
khơng cịn chịu nổi ách thống trị hà khắc của chính quyền đương đại và của bọn xâm lược,
nơi đây trở thành vùng đất hội tụ nhiều lớp cư dân thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Trong đó,
người Việt là lớp cư dân giữ vai trò chủ chốt trong suốt tiền trình đấu tranh chinh phục tự
nhiên và chống ngoại xâm


Ở Tịnh Biên, ngồi người Việt, huyện cịn là nơi cư ngụ của người Khmer và người
Hoa, họ sống tập trung và xen kẻ nhau, cùng chịu chi phối bởi những biến động theo tiến
trình lịch sử của địa phương và của vùng.

1.2.1. Giai đoạn định cư, khai phá (trước và sau thế kỷ XV đến giữa

thế kỷ

XIX)
Trong suốt quá trình định cư và khai phá của những lưu dân ở vùng đất Nam Bộ nói
chung, người Khmer chính là lớp cư dân bản địa. Bởi vào thế kỷ XV, rãi rác trên các giồng
đất, gò cao ở đồng bằng sơng Cửu Long đã có người Khmer sinh sống.
Vùng đất đồng bằng sông Cửu Long ngày nay, vốn xưa kia là địa phận của vương quốc
Phù Nam, với nền văn hóa Ĩc Eo nổi tiếng. Một trong những nước chư hầu của Phù Nam là
Chân Lạp ở phía Bắc, sau khi thoát khỏi sự phụ thuộc của Phù Nam (thế kỷ VI) đã tiến công
và thống trị được Phù Nam, biến vùng đất thấp mới chiếm được này thành Thủy Chân Lạp.
Người Khmer di cư từ phía Bắc đi về phía Nam và có mặt ở vùng hạ lưu sơng Cửu Long.
Từ thế kỷ X trở đi, đế chế Angkor của người Khmer đang ở giai đoạn phát triển, nhiều cơng
trình kiến trúc, đền, chùa được xây dựng nên đã vắt kiệt sức người dân lao động. Những con

người này tìm cách thốt khỏi sự hà khắc và nạn lao dịch nặng nề của giai cấp thống trị, đã
tìm đến vùng châu thổ sông Cửu Long ngày một đông, bởi họ thấy nơi đây đất đai dễ trồng
trọt, có thể lao động tự ni sống mình mà lại khơng phải chịu một sự kiểm sốt nào của
chính quyền.
Sang thế kỷ XII – XIV, những cuộc tranh giành quyền bính trong triều đình, những
cuộc chiến tranh chống ngoại xâm làm cho Angkor khơng cịn hưng thịnh, dẫn đến một đợt
di dân khác đi tìm đất sống mới của người Khmer xuống miền Nam. Từ thế kỷ XV (1434)
trở đi, sau khi đế chế Angkor sụp đổ, dưới sự thống trị của ngoại tộc Xiêm, cuộc sống của
người dân càng cơ cực hơn, nhất là người dân nghèo, từ đó tạo nên một làn sóng di cư mới
của những nơng dân Khmer xi theo dịng Mê Kơng, xuống các tỉnh của đồng bằng sơng
Cửu Long. Đợt di dân lần này xuống phía Nam của người Khmer khơng chỉ có người nơng
dân nghèo muốn trốn chạy đói khổ, loạn lạc mà cịn có cả những người giàu có, sư sãi, trí
thức, quan lại và những người trong hồng tộc khơng muốn sống trong cảnh đất nước có
chiến tranh. Từ trong sự biến thiên của lịch sử, lớp cư dân Khmer ở miền Nam Việt Nam
đến đây tự do khai phá, đã hội nhập một cách tự nhiên vào cộng đồng dân tộc Việt Nam. Do
đặc điểm cư trú và sự phân bố dân cư vừa tập trung, vừa xen kẽ với các dân tộc khác, đã tạo
cho người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long có mối quan hệ giao lưu rộng rãi, gắn bó
chặt chẽ với các dân tộc Việt, Hoa, Chăm. Cũng chính các điều kiện của mơi trường đó đã


tạo nên sự khác biệt về mặt kỹ thuật canh tác, tổ chức xã hội truyền thống so với người
Campuchia [2, tr.23].
Từ cuối thế kỷ XVI, An Giang và các vùng phụ cận đã là nơi sinh sống của những
nông dân Khmer, họ tập trung đông ở hai huyện Tịnh Biên và Tri Tơn. Tại Tịnh Biên, vì
người Khmer là dân bản địa lâu đời, được sinh ra và lớn lên ở Việt Nam nên lớp cư dân này
thường được gọi là người Việt gốc Khmer (người Việt gốc Miên). Song, phong tục và tiếng
nói của họ khơng khác mấy với người Khmer ở Campuchia. Họ theo Phật giáo Tiển thừa và
sống ở những phum, srok nhỏ riêng biệt hoặc xen kẻ với các ấp của người Việt và người
Hoa.
Cùng thời gian này, tức cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, do những biến động của

triều đình phong kiến Đại Việt, một lớp cư dân mới cùng với một nền văn hóa mới từ phía
Bắc vào chung sống với họ ở vùng này, đó là những đồn di dân người việt, tạo nên bước
ngoặt quyết định cho lịch sử mở mang bờ cõi nơi đây.
Thời điểm người Việt chính thức đến Tịnh Biên chưa có tài liệu nào khẳng định rõ,
nhưng theo Nguyễn Văn Hầu thì sau khi Tầm Phong Long chính thức nằm dưới sự cai quản
của chúa Nguyễn, tức vào năm 1757, vùng đất Tịnh Biên được hình thành cùng thời điểm
đó (nhưng chưa có cơ sở hành chính), từ đó đã có rãi rác những dân lưu tán người Việt đến
đây sinh sống. Các tài liệu khác còn cho biết, từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, qua
những chính sách khuyến khích khai hoang, mở mang bờ cõi về phương Nam của các chúa
Nguyễn, cư dân người Việt có mặt ở các vùng đất mới ngày càng nhiều. Dù theo hình thức
tự do hay được triều đình chiêu mộ, họ đều đi thành từng nhóm, trong đó có cả gia đình, cha
mẹ và vợ con.
Vào đầu thế kỷ XVII, các khu vực cao ráo thuộc chợ Châu Đốc, Mỹ Đức, Cái Dầu
(huyện Châu Phú ngày nay), … đã có dân đến ở khá đơng. Đặc biệt, khu vực Chợ Thủ là
một điểm dân cư tập trung bên cạnh điểm dân cư Cù Lao Giêng (đều thuộc huyện Chợ
Mới). Tại những khu vực này, dân cư đông đảo, nhà cửa khang trang, chùa, miếu được xây
dựng để làm nơi cầu nguyện, thờ phụng. Từ những nơi này, từng lớp lưu dân Việt sau khi
đã ổn định, lập làng, họ bắt đầu phân tán sang các vùng lân cận thuộc Long Xuyên, Châu
Đốc, Tân Châu ngày nay, … Nhưng mãi đến năm 1819, khi Thoại Ngọc Hầu nhận lệnh
triều đình cho đốc suất đào kinh Vĩnh Tế, rồi đến năm 1821, khi thấy con kinh về cơ bản đã
được đào xong, để khuyến khích người dân tiếp tục khai phá những nơi cịn rậm rạp, ơng
tiến hành cho đắp con đường từ Châu Đốc đến Núi Sam (sử cũ gọi là Thổ Yên), dựng bia
“Châu Đốc Tân lộ kiều lương” (1828) (8). Nhờ có cơng trình bộ lộ mới này mà ngựa xe qua
lại dễ dàng, dân cư di dần từ Châu Đốc vào núi Sam khẩn ruộng, khai phá tận vùng hoang
hiểm trở thuộc huyện Tịnh Biên.


Tịnh Biên là vùng có nhiều sương lam chướng khí, rừng núi hoang vu, đất khó canh tác
nên thời này, dân đến lập làng còn thưa thớt. Song thiết nghĩ, người Việt đã có mặt ở Tịnh
Biên từ trước đó, thậm chí từ trước khi Tầm Phong Long trở thành đất thuộc quyền cai quản

của chúa Nguyễn. Về sau, bên cạnh việc khuyến khích, mộ dân lập ấp, đồn điền, triều đình
Nguyễn cịn quan tâm đến vấn đề củng cố an ninh biên cương, nhất là vùng đất mới phía
Tây Nam. Tịnh Biên vừa là vùng biên giới Việt – Chân Lạp, vừa là vùng có nhiều người
Khmer sinh sống nên được triều đình đặc biệt chú ý và đưa ra nhiều biện pháp khá toàn diện
về kinh tế, văn hóa kết hợp với quốc phịng, ... để ổn định nơi đây. Trong lời tâu năm 1852
của kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương “Tỉnh An Giang tiếp giáp với cõi nước Miên, đất bỏ
hoang còn nhiều, xin từ nay trở đi – phàm những tên can phạm trộm cắp, cướp vặt và các
tên du côn không rõ lai lịch ở 6 tỉnh Nam kỳ mà tội chỉ man đồ (đồ 3 năm) trở xuống đều
phát giao cho các đồn bảo An Giang sai phái” [38, tr.54], là một trong những cách triều đình
góp phần bảo vệ quốc phịng các vùng biên thùy của tỉnh An Giang. Kinh Vĩnh Tế lúc này
một mặt là cơng trình thuỷ lợi lớn, quan trọng về giao thơng và an ninh phịng thủ, mặt khác
cịn là đường thâm nhập vào những khu xa bờ sông Hậu, về phía biển Tây, giúp cho người
Việt đến định cư, khai phá nhanh chóng hơn và những lưu dân mới thuận lợi đến với vùng
đất hoang vu Tịnh Biên để sinh sống nhiều hơn, hàng loạt các làng xóm như Vĩnh Thơng,
Vĩnh Lạc, An Nơng, Phú Cường, Nhơn Hịa (Nhơn Hưng), An Thạnh, Xuân Phú (An Phú),
mọc lên dọc theo bờ kinh Vĩnh Tế, tạo nên khơng khí sinh động cho vùng đất mới thêm
nhộn nhịp.
Bên cạnh hình thức khai hoang do chính quyền tổ chức hay do người dân tự tiến hành
thì những cuộc khẩn hoang do những nhóm tín đồ tơn giáo thực hiện là đáng chú ý hơn cả,
nó góp phần tích cực tạo nên những yếu tố riêng biệt, đa dạng thêm cho vùng đất Tịnh Biên
này. Có thể gọi đây là những cuộc tị nạn của các nhóm tơn giáo trước sự khủng bố của triều
Nguyễn, cũng có thể là những nhóm khai hoang tự túc, điển hình là nhóm Phật giáo Bửu
Sơn Kỳ Hương.
Từ sau năm Kỷ Dậu (1849), Đoàn Minh Huyên, vị sáng lập dòng Phật giáo Bửu Sơn
Kỳ Hương, đồng thời cũng là người có chủ trương mở cuộc khai hoang có đường lối và có
tổ chức hẳn hoi ở những vùng đất hoang sơ của đất An Giang. Ông vốn là người tu hành, trở
về chữa bệnh cho dân chúng và truyền bá đạo. Ông đi hết nơi này đến nơi khác, từ Tịng
Sơn đến Trà Bư, Xẻo Mơn rồi đến Kiến Thạnh (thuộc huyện Đông Xuyên – An Giang), nơi
nào dân chúng cũng theo ơng rất đơng. Vì vậy, ông bị nhà cầm quyền An Giang buộc tội là
gian đạo sĩ, bắt đem về câu lưu tại tỉnh lỵ An Giang và chỉ định ông vào tu tại chùa Tây An

(thuộc núi Sam ngày nay nên được tín đồ suy tôn là Phật thầy Tây An). Nhưng để đạo của
mình khơng thuộc quyền kiểm sốt của chính quyền nhà nước, các tín đồ của ơng Đồn
Minh Hun chia nhau thành nhiều nhóm đi đến khai hoang các vùng xa xôi, hẻo lánh.


Ngồi các tín đồ, đồn cịn huy động được thêm hàng ngàn nhân lực theo họ cùng lao động
giành lấy cuộc sống, chiếm giữ đất đai, thành lập trại ruộng. Riêng vùng Tịnh Biên (Thất
Sơn), bên chân núi Két, nhóm tín đồ của Đồn Minh Hun (do Bùi Văn Thân và Bùi Văn
Tây chỉ huy) đã lần lượt được lập nên các nông trại Hưng Thới và Xuân Sơn.
Vào nửa sau thế kỷ XVII, thêm một lớp cư dân khác có mặt tại đồng bằng sơng Cửu
Long, là những nhóm cư dân miền Nam Trung Hoa dưới sự chỉ huy của Dương Ngạn Địch,
Trần Thượng Xuyên và Hoàng Tiến - những di thần nhà Minh không tuân phục nhà Thanh sang xin thần phục chúa Nguyễn.
Bước sang thế kỷ XVIII, lại thêm một đợt di dân nữa của người dân Nam Trung Hoa.
Theo chân Mạc Cửu họ đã chọn vùng đất Hà Tiên ngày nay để sinh sống, tránh sự truy sát
của quân Mãn Thanh, chờ cơ hội quay về Trung Hoa khơi phục lại vương triều Minh. Nhóm
di dân lần này bao gồm nhiều tầng lớp khác nhau, ngoài người dân nghèo cịn có các quan
lại, các tri thức và có cả thương nhân, … ở các vùng Quảng Châu, Triều Châu, Phúc Kiến di
cư về đây. Nhưng rồi tình hình chính trị ở Trung Quốc ngày càng trở nên bất lợi cho các lực
lượng “Phản thanh, phục Minh” đang trú ở Việt Nam, họ không thể trở về đất nước của
mình như dự định ban đầu. Về sau, những di dân người Hoa này lần lượt dựng vợ, gả chồng
với người bản xứ (người Việt và Khmer, ...), trở thành một tộc người trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam. Trong quá trình chung sống, họ đã cùng với các dân tộc anh em biến vùng đất
mới (Nam Bộ) thành nơi tấp nập, sầm uất, trong đó, đáng chú ý nhất là Hà Tiên.
Khi con kinh Vĩnh tế được đào xong, nó đã góp phần là chiếc cầu nối giao thương
giữa nhân dân các vùng, nhất là những vùng biên giới như Châu Phú, Tân Châu, Tịnh Biên,
Tri Tôn, từ các nơi này đi Campuchia, Châu Đốc đi Hà Tiên và ngược lại. Vào mùa nước
nổi, tàu ghe của các thương nhân có thể đi lại bn bán dễ dàng. Có những thương nhân
Hoa ở Campuchia, ở Hà Tiên, … sau nhiều lần qua lại buôn bán với người dân Tịnh Biên,
đã cưới vợ, sinh con và lưu lại làm ăn sinh sống nơi này. Thế là người Hoa có mặt ngày một
trở nên đơng đúc hơn ở Tịnh Biên.

Như vậy trải qua thời gian, sau người Việt, người Hoa đã có mặt rãi rác khắp đồng
bằng sơng Cửu Long, trong đó có vùng đất Tịnh Biên.
Tựu trung lại, thời khẩn hoang, mở mang bờ cõi, theo nhiều hình thức khác nhau, mà
cư dân của nhiều dân tộc có mặt ở Tịnh Biên. Họ sống chan hòa, cùng nhau chung lưng góp
sức biến vùng núi hoang vu Tịnh Biên thành những khu làng, ngôi chợ nhộn nhịp. Và nếu
như dưới thời Nguyễn, thiên tai, chiến họa là trở ngại cho việc định cư, khai phá vùng đất
này thì sang đến thời thuộc Pháp, chống Mỹ tình hình khơng n ổn hơn, khi có nhiều nghĩa
quân tụ họp về đây lập căn cứ ngày càng nhiều, địch càng tổ chức nhiều cuộc càn qt,
nhiều chính sách để đối phó với Cách mạng hơn. Chính vì thế mà nơi đây có thêm nhiều
thành phần dân cư mới đến với Tịnh Biên.


1.2.2. Giai đoạn chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (từ giữa thế kỷ XIX đến năm
1975)
Ở An Giang, thời thuộc Pháp, có thêm hai lượt di dân nữa của người Hoa sang Việt
Nam, đó là vào thời điểm thế kỷ XIX, Pháp mở cửa Việt Nam cho người Trung Quốc di cư
vào và thời điểm Đảng cộng sản Trung Quốc giành được thắng lợi. Một số phần tử của
Quốc dân đảng cùng bọn phản động tư sản mại bản Trung Quốc chạy hàng loạt sang ẩn nấp
ở Việt Nam. Thành phần của hai lượt di dân này khá phức tạp, có phần tử phản động (sau
giải phóng đã sang định cư ở nước ngồi), cũng có cả thương nhân, dân nghèo, … đến Việt
nam để tìm đường làm ăn sinh sống. Trong số đó có một số người đi thẳng đến định cư ở
Tịnh Biên (đông nhất là vào đầu thế kỷ XX), làm cho sắc dân nơi đây đa dạng và đông đảo
thêm. Người Hoa ở Tịnh Biên chủ yếu là người Quảng Đông và người Hẹ

(8)

. “Chùa Bà

nước Hẹ” hay còn gọi là “Miếu Bà Thiên hậu Thánh mẫu” ở Tân Lợi (Tịnh Biên) được xây
dựng cách nay hơn một trăm năm là một chứng tích cho sự có mặt của người Hoa ở Tịnh

Biên, đặc biệt là người Hẹ. Người Hoa ở Tịnh Biên chủ yếu sống tập trung ở các chợ. Nếu
là người Quảng, nghề nghiệp của họ là mua bán (bán tạp hóa), nếu là người Hẹ, họ thường
làm rẫy, ngoài ra họ cịn làm thêm nghề bốc thuốc Bắc, tiểu thủ cơng (làm thợ kim hoàn) và
phần lớn theo Phật giáo Đại thừa.
Cùng thời điểm này, năm 1876, sau khi thực dân Pháp chiếm tồn bộ Nam Kỳ, Đức
Bổn sư Ngơ Lợi, người khai sáng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, dẫn tín đồ vào khai hoang vùng
núi Tượng (Ba Chúc) quận Tịnh Biên (nay thuộc huyện Tri Tôn). Thực chất là lập căn cứ
kháng Pháp. Mặt khác, trong những năm kháng chiến chống Pháp, trước sự đàn áp dã man
của thực dân, một bộ phận cư dân, đặc biệt là những người hoạt động cách mạng đã bỏ vùng
tạm chiến kéo vô vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, rừng núi tiếp tục thực hiện ý chí cứu
dân cứu nước của mình. Vì vậy, dân cư Tịnh Biên tăng lên.
Bước sang thời chống Mỹ, tình hình trái ngược lại. Dân cư ở miền núi Tịnh Biên giảm
xuống rõ rệt cùng với cường độ mở rộng các khu trù mật, các ấp chiến lược, chủ trương
dùng bom pháo “tát dân” ở các vùng nông thôn, biên giới và các vùng căn cứ kháng chiến
của Mỹ. Người dân sống co cụm lại để đùm bọc, bảo vệ nhau. Rãi rác quanh các chân núi
và cánh đồng gần núi chủ yếu là người Khmer sinh sống theo hình thức phum, srok. Dù vậy,
thời này Tịnh Biên có thêm cư dân là những tín đồ Thiên Chúa giáo
Nhóm con chiên Thiên Chúa giáo trước đây để tránh sự tàn sát, bắt bớ của triều đình đã
tiến hành cuộc tị nạn Nam tiến để tìm đất sống và duy trì tín ngưỡng của mình, tích cực phá
vỡ các rừng lau, bãi sậy để làm ruộng, mở ấp, lập làng ở một số nơi của tỉnh An Giang (cũ)
như Cái Đôi, Koh Teng (Bãi Dinh hay Cù Lao Giêng), Bị Ĩt, … Tuy nhiên, thời điểm các
giáo dân tập trung đông nhất ở Tịnh Biên bắt đầu từ giữa năm 1955, khi chính quyền Sài


Gịn mở rộng đồn bót mà trước đó do lính biệt kích (Commando) người Khmer đóng giữ
(đồn này do Pháp lập nên vào năm 1954), thành hậu cứ của trung đoàn 131 chủ lực ngụy ở
Vĩnh Trung. Đến năm 1957 đồn trở thành hậu cứ quân sự, năm 1959 là trung tâm huấn
luyện Thất Sơn và từ năm 1963 là trung tâm huấn luyện Chi Lăng. Lúc cao nhất trung tâm
có đến gần 10.000 binh lính các loại, họ được phép mang cả gia đình, vợ con đến đây sinh
sống, trong đó có những thành phần từ miền Bắc, miền Trung di cư vào Nam, có những

thành phần từ các tỉnh khác thuộc Nam Bộ đến. Căn cứ quân sự này càng phát triển mạnh,
dân di cư được quy khu, tập trung về Tịnh Biên ngày càng nhiều, họ phần lớn là những giáo
dân Công giáo (Thiên Chúa giáo).
1.2.3. Giai đoạn thống nhất đất nước (sau ngày 30/04/1975)
Sau ngày miền Nam giải phóng, nhân dân trở về q cũ khơi phục lại những thiệt hại
của chiến tranh. Song, chiến tranh hầu như chưa kết thúc hẳn ở Tịnh Biên, vì cùng thời gian
(chiều 01/05/1975), lính Pol Pot dùng súng cối các loại, pháo 105 ly bắn hàng trăm quả vào
thị trấn Tịnh Biên, xã Lạc Quới, An Phú và An Nơng [4, tr.215]. Chỉ là hình thức thăm dị
tình hình của địch nhưng đã gây căng thẳng và mất ổn định cho nội địa huyện. Ngày 06,
07/05/1975, địch tiếp tục pháo kích và tổ chức những tốn lực lượng vượt biên giới từ 300
đến 400m đào công sự rồi rút. Từ năm 1975 đến 1977, chúng cứ liên tục tổ chức nhiều trận
tập kích thăm dị, đuổi hàng ngàn Việt kiều, Hoa kiều về Việt Nam qua cửa khẩu Tịnh Biên.
Đến rạng sáng ngày 11/01/1978, quân Pol Pot Ieng Sari chính thức dùng một tiểu đồn chia
làm ba mũi tấn công vào huyện Bảy Núi (lúc này Tri Tôn và Tịnh Biên nhập lại làm huyện
Bảy Núi). Trong đó, mũi thứ hai đánh vào thị trấn Tịnh Biên, mũi thứ ba đánh vào đầu núi
Phú Cường. Đi tới đâu chúng đốt phá nhà cửa, giết hại dân thường tới đó. Bị lực lượng quân
đội của huyện phản công, trên đường rút về, chúng còn tiến hành lùa dân Khmer qua bên kia
biên giới, gầy dựng thêm lực lượng hòng âm mưu quay trở lại, quyết tâm chiếm cho được
Bảy Núi.
Mặc dù lực về phía huyện đã có sự chống trả quyết liệt, nhưng vẫn không ngăn nổi bản
chất hung tàn của bọn Pol Pot, chúng tàn sát dân vô số kể với những thủ đoạn man rợ nhất.
Hơn 3000 đồng bào trong huyện, phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em bị chúng giết chết,
đau thương nhất là cuộc thảm sát ở chùa Phi Lai (Ba Chúc). Mãi đến ngày 01/01/1979, diệt
chủng Pol Pot mới bị đẩy ra khỏi biên giới Việt Nam, kết thúc chiến tranh, giúp đưa trên
mười ngàn đồng bào Khmer bị chúng lùa sang Campuchia (năm 1978) trở về đồn tụ gia
đình mình ở Tịnh Biên.
Đến thời điểm này, Tịnh Biên mới thật sự được n bình. Trong bối cảnh mới, chính
quyền Nhà nước huyện đề ra nhiều chính sách , chủ trương cụ thể về kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, giáo dục, … để khắc phục hậu quả sau chiến tranh. Song song đó, vì có hàng



ngàn hecta đất cập theo biên giới còn vướng bom mìn, lựu đạn bị Pol Pot gài lại trước đó
nên chưa dám cho dân sản xuất buộc phải bỏ hoang, huyện đã cho thực hiện chính sách dãn
dân bằng việc đưa những đồng bào (đông nhất là người Khmer) ở các xã Vĩnh Trung, Văn
Giáo, An Cư, An Nông, … đi làm kinh tế mới ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh. Sau khi
tình hình xã hội Tịnh Biên ổn định, đất canh tác được phép cày cấy trở lại, họ trở về bắt tay
vào làm ăn sinh sống trong niềm hân hoan mới.
Mặt khác, tỉnh cịn bố trí lại dân cư ở thành thị về quê. Vì vậy, vùng núi Tịnh Biên dân
về sống nhiều hơn, xóm làng được dựng mới thêm, ổn định hơn. Bên cạnh đó, Tịnh Biên
cịn đón nhận thêm những cư dân “hồi hương” từ Campuchia về. Cuộc sống mới, người dân
trở nên hồ hởi, gia đình được sum vầy, dựng vợ, gả chồng nhiều, tốc độ dân số những năm
đầu sau giải phóng tăng lên đáng kể.
Nhìn chung, do hồn cảnh lịch sử đã đưa những người dân Việt, Khmer, Hoa đến vùng
đất Tịnh Biên khai phá. Trải qua hàng trăm năm cộng cư, các lưu dân đã khơng quản ngại
gian khó, bằng bàn tay khối óc, xương máu của mình, họ đã biến vùng đất hoang hóa, chịu
nhiều chiến họa thành đồng ruộng phì nhiêu, phố phường đơng đúc.
Hiện nay, dân số tồn huyện có 122.309 người, trong đó :
- Người Việt chiếm : 86.542 người.
- Người Khmer chiếm : 35.135 người.
- Người Hoa chiếm : 632 người (10).
Đại bộ phận cư dân sống bằng nghề nông : làm ruộng, làm rẫy, chăn ni. Số cịn lại
làm nghề thủ cơng và bn bán.
1.3. Đặc điểm chung về kinh tế - xã hội của Tịnh Biên
Ngoài một số hoạt động thương mại nhỏ lẻ, An Giang chủ yếu là vùng đất nông
nghiệp, với hệ thống sơng ngịi chằng chịt, đến mùa nước lên lại xuống đã bồi cho đất đai
nơi đây thêm màu mỡ, phì nhiêu. An Giang cịn có thời tiết mưa thuận, gió hịa, ánh sáng,
nhiệt độ đầy đủ, nguồn nước dồi dào, … nên đã trở thành một trong những vựa lúa và thực
phẩm dồi dào không chỉ của riêng đồng bằng sơng Cửu Long mà cịn cho cả nước. Huyện
Tịnh Biên là huyện miền núi của An Giang, đại đa số đất thuộc loại đất cát pha lẫn một ít
chất hữu cơ, có nhiều phân thổ (cây lá mục nát thành phân), thích hợp cho cây lúa, hoa màu

và cây ăn trái. Vì vậy, ở Tịnh Biên từ lâu người dân đã có tập quán làm ruộng và làm rẫy.
Nơi đây cịn là mơi trường sinh thái khá đặc biệt cho chăn ni gia súc (trâu, bị, heo) và
chăn ni gia cầm (gà, vịt). Ngồi ra, Tịnh Biên cịn có nhiều nghề thủ cơng truyền thống,
đó là nghề đươn đệm bàng, dệt thổ cẩm và làm đường thốt nốt. Những hoạt động kinh tế
này một mặt tạo nên tính chất điển hình cho huyện, mặt khác đã có tác động khơng nhỏ đến
tình hình xã hội của địa phương này.


1.3.1. Trồng trọt
Thời khẩn hoang, người lưu dân đến với vùng đất mới này với nơng nghiệp là nghề
chính, nên họ đã sử dụng phần lớn diện tích khai khẩn được để trồng lúa, một số hoa màu và
cây ăn trái.
Con kinh Vĩnh Tế hoàn thành đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh công cuộc
mở rộng đất hoang, trong đó có vùng đất Tịnh Biên. Là vùng đất đặc biệt, rừng rú hoang sơ,
có nhiều đồi núi và cũng có nhiều sơng ngịi, kênh rạch, nên khi đến với Tịnh Biên, người
dân đã rất dũng cảm, đổ nhiều mồ hơi, sức lực mới có được những cánh đồng bát ngát để
trồng trọt. Tuy nhiên, kỹ thuật trồng lúa lúc này còn rất đơn sơ, rất lạc hậu, việc canh tác
chủ yếu dựa vào thiên nhiên, có mưa thì được nhờ, cây lúa tốt tươi, thu hoạch đem lại năng
suất cao, ngược lại, năm nào hạn hán, lụt lội thì ruộng đất bị bỏ hoang. Các cơng trình thủy
lợi như kinh Vĩnh Tế lúc này chưa đủ khả năng đảm đương cơng tác tưới tiêu cho đồng
ruộng. Cịn người dân, do trình độ nhận thức chưa cao nên chỉ biết cầu đảo mong mưa
xuống tưới ruộng. Ban đầu, lưu dân chỉ biết trồng lúa cấy ở phần đất cao. Để khắc phục nạn
lũ lụt, ngừơi nông dân đã du nhập thêm cho mình cây lúa sạ (cịn gọi là lúa nổi) có khả năng
tồn tại trên mặt nước trong mùa nước lụt ngập sâu hàng năm ở những vùng trũng về phía Tứ
giác Long Xuyên (9).
Thời thuộc Pháp, thực dân rất quan tâm đến khai thác đất hoang để sản xuất lúa gạo
nên diện tích canh tác lúa ở Tịnh Biên – An Giang nói riêng, Nam Bộ nói chung tăng lên rõ
rệt. Điểm đặc biệt đáng chú ý của Tịnh Biên như trên đã nói là vừa có núi, vừa có sơng, rạch
nên đất trồng lúa cũng được chia làm hai loại là ruộng trên và ruộng dưới.
Ruộng trên là nơi đất cao, không bị ngập vào mùa nước nổi nên áp dụng kỹ thuật cấy

lúa như các tỉnh khác (gieo mạ, khi mạ đúng tuổi thì nhổ lên cấy lại cho đều). Lúa ruộng
trên (còn gọi là lúa nước trời), thường có nhiều ở vùng Bảy Núi thuộc hai huyện Tri Tôn và
Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Phần lớn các giống lúa ruộng trên có nguồn gốc từ Campuchia,
có khả năng chịu hạn tốt. Lúa canh tác hầu như không tưới, chỉ sử dụng nước tự nhiên nên
thường được gieo vào đầu mùa mưa, khoảng tháng 5, 6 dương lịch và cấy vào tháng 7, 8
dương lịch. Ở Tịnh Biên, phần lớn người Khmer trồng lúa ruộng trên và có tập qn dùng
phân bị để cải tạo độ phì nhiêu của đất, ít sử dụng phân hóa học. Giống lúa chủ lực của
vùng là nàng nhen, ba thiệt, nàng già (nếp), nhiêu lư, so thum, ăng lưa, col trây cho năng
suất cao và ổn định.
Ruộng dưới thì khác, do ở địa hình thấp, thường xuyên bị ngập lụt vào mùa nước nổi
nên áp dụng kỹ thuật sạ lúa phổ biến ở những vùng trũng, đặc biệt là An Giang (gieo thẳng
hạt giống xuống đất mà không cần phải cấy lại). Khi gặt, gốc rạ bỏ cho khô, sau đốt thành
tro, cày bừa trộn lấp lại trở thành phân tro. Cây lúa trồng ở đây là giống lúa nổi (còn gọi là


cây lúa sạ), cũng được du nhập từ Campuchia sang (năm 1891). Trồng cây lúa nổi ít tốn
cơng, chi phí thấp, chỉ cần cày qua một lượt (có nơi khơng cần làm đất), sau đó đem giống
sạ rồi bừa lắp vào đầu mùa mưa, khơng sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, ...
Nhìn chung, sản lượng lúa trong suốt thời kỳ cai trị của thực dân Pháp, sản lượng lúa
có tăng do mở rộng diện tích khai hoang, cịn năng suất lúa thì khơng có gì thay đổi. Kỹ
thuật canh tác của người nông dân thời kỳ này cũng không thay đổi so với trước đó, vẫn đơn
sơ, vẫn dựa vào nguồn nước mưa. Năm nào lụt lớn thì rơi vào cảnh mất mùa, năm nào hạn
hán kéo dài thì cũng như trước đây, ruộng đồng bỏ hoang vô số, vì vậy, người dân Tịnh
Biên rơi vào cảnh nghèo đói thường xuyên.
Hơn hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ tiếp theo, đặc trưng của nông nghiệp trồng
lúa huyện Tịnh Biên và các nơi khác của tỉnh An Giang vẫn là độc canh cây lúa. Cũng trong
giai đoạn này, với âm mưu đưa nông thôn vào quỹ đạo chung của chế độ thực dân mới,
chính quyền Sài Gịn đã rất coi trọng vấn đề ruộng đất. Nhiều chính sách, chủ trương được
ban hành như chính sách “Cải cách điền địa” của Ngơ Đình Diệm với các dụ : Dụ số 2
(08/01/1955), Dụ số 7 (05/02/1955) và Dụ số 57 (22/10/1956) quy định mối quan hệ giữa

địa chủ và tá điền và giới hạn số ruộng đất địa chủ sở hữu được ở mức vừa phải ; Luật
“Người cày có ruộng” của Nguyễn Văn Thiệu (26/03/1970), cấp “chứng khoán” xác nhận
quyền sở hữu ruộng đất của nơng dân, cạnh đó cho du nhập thêm các loại máy móc, phân
bón, đầu tư cơ sở vật chất vào nơng nghiệp. Nhìn chung, các chính sách của chính quyền Sài
Gịn ban ra nhằm phục vụ cho chủ trương “Bình định nơng thơn” và lơi kéo nông dân xa rời
cách mạng nên qua các dụ ta thấy, ruộng đất phần lớn vẫn còn nằm trong tay của địa chủ
lớn, địa chủ vừa và nhỏ, chỉ có ruộng của nông dân (tá điền) là bị giới hạn, có một ít nơng
dân là có đất để cày cấy. “Người cày có ruộng” đâu khơng thấy, chỉ thấy số ruộng mà cách
mạng cấp cho nông dân bị xáo trộn, gây mất đồn kết trong dân. Hay nói cách khác, những
thành quả ruộng đất của nơng dân do chính quyền cách mạng cấp, đến đây bị chính quyền
Sài Gịn cướp đi thơng qua hình thức khác như là một cách “hợp thức hóa” ruộng đất cho
nơng dân mà thơi.
Khác với chính sách của chính quyền Sài Gịn, chính sách ruộng đất của Đảng ta trong
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước lại đi đến mục tiêu tăng cường đoàn kết nội bộ
nơng dân lao động, đảm bảo hài hịa lợi ích của các tầng lớp nơng dân (bần, cố và trung
nông), … đánh bại được âm mưu của kẻ thù trong việc cướp đất của dân. Cụ thể, năm 1971,
tại tỉnh Châu Hà, 300 nơng dân có lực lượng vũ trang hỗ trợ đã làm thất bại âm mưu của
địch cho quân tiến đến vùng Bảy Núi định chuyển dân địa phương đi nơi khác nhằm muốn
chiếm 4500 ha ruộng của vùng này giao cho nông dân ở nơi khác đến [69, tr.23].
Ở An Giang, từ năm 1967, những giống lúa thần nông cao sản ngắn ngày của Viện
nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI du nhập vào, hai giống đầu tiên là thần nông 8 (IR8 hay TN8)


và thần nông 5 (IR5 hay TN5), phương pháp chủ yếu là cấy (không phải sạ như trước). Ở
Tịnh Biên, cây lúa thần nơng chiếm một diện tích đáng kể Tuy nhiên, do tình hình xã hội bất
ổn, dẫn đến cơ cấu ruộng đất cũng thay đổi theo. Đất công thổ có 602,76 ha, đất cơng điền
bị bỏ hoang là 195,59 ha, cộng với điều kiện địa hình, thổ nhưỡng, chưa có sự tác động
nhiều của khoa học kỹ thuật, công việc trồng lúa của người nông dân trở nên bấp bênh và
thiếu ổn định. Đời sống người dân lúc bấy giờ phụ thuộc nhiều vào cây lúa nên vì thế trở
nên cơ cực hơn.

Sau ngày giải phóng, dưới chế độ mới, người nông dân Tịnh Biên vẫn chưa được yên
ổn trên mảnh đất của mình bởi cuộc chiến tranh Tây Nam. Nó tàn phá khơng ít những của
cải vật chất, ruộng vườn của người dân nơi đây, không những thế, sự ảnh hưởng tâm lý của
nông dân Tịnh Biên từ sau cuộc chiến này đã tác động rất lớn đến công ăn, việc làm của họ,
lúc nào họ cũng ở tình trạng nơm nớp lo sợ sự quay trở lại của bọn Pol Pot Ieng Sari. Đến
năm 1988, người dân ở các huyện của tỉnh An Giang mới thật sự có được niềm vui. An
Giang chủ trương tiến hành giao đất ổn định và lâu dài cho nông dân, để họ được tùy nghi
sử dụng, chuyển nhượng cũng được, kế thừa cũng được, có thể tự cải tạo kỹ thuật canh tác
nông nghiệp, bởi phần đất Nhà nước giao cho họ đã được ban cấp giấy chứng nhận rõ ràng.
Từ đó, nghề trồng lúa, nghề cổ truyền vốn có từ thời dựng nước được người nông dân Tịnh
Biên tiếp tục phát huy bằng khoa học của thời đại. Tuy nhiên, đối với lúa ruộng trên, do
chưa được đầu tư thâm canh đúng mức nên kỹ thuật canh tác không khác trước, lúa chủ yếu
vẫn dựa vào nước trời, năm nào hạn hán hay gieo trễ thời vụ thì lúa cũng bị ảnh hưởng
nặng, thậm chí mất trắng.
Ngồi làm ruộng, trồng lúa, dân Tịnh Biên còn làm rẫy trồng hoa màu và trồng cây ăn
trái. Địa hình triền núi, đất cát của Tịnh Biên rất thích hợp cho việc lập vườn trồng cây ăn
trái, tránh tình trạng bị ngập úng do lụt hàng năm. Đồng thời, sau khi thu hoạch lúa, người
dân biết tận dụng mảnh ruộng bỏ không (thường là ruộng trên) để trồng thêm hoa màu như
bí, các loại đậu, bắp, dưa hấu, khoai mì hay rau cải. Đây cịn là một hình thức dùng để cải
tạo đất, vừa nhằm tăng thêm độ màu mỡ cho đất, vừa có thêm thu nhập cho gia đình, lại có
thể khắc phục tình trạng độc canh cây lúa.
Cây ăn trái ở Tịnh Biên bao gồm cả cây nhiệt đới lẫn ôn đới, nhiều nhất là xoài, mãng
cầu ta, chuối xiêm, điều (đào lộn hột), sầu riêng, mít, nhãn, lựu, bơ, ... Trong huyện, trồng
nhiều nhất là điều, thập niên 80 chính là thời kỳ hồng kim của nó, hạt (hột) điều thường
dùng để xuất khẩu. Năm 1987, có khoảng 3.706 ha diện tích trồng điều, tập trung ở hai
huyện Tri Tơn và Tịnh Biên, nhưng hiện nay, chỉ còn khoảng 640 ha ở Tịnh Biên, tập trung
ở Thới Sơn, An Phú, An Hảo, An Cư. Các loại cây ăn trái ở Tịnh Biên là loại cây thích hợp
với đất cát và chịu khơ hạn tốt. Vì vậy, chúng thường trổ hoa và cho thu trái chậm hơn các



vùng khác, chẳng hạn như xoài núi thu hoạch chậm hơn xoài đồng bằng khoảng một tháng
(trổ tháng 1 - 2, thu hoạch tháng 5 – 6) hoặc sầu riêng thu hoạch cũng hơi muộn hơn các
tỉnh khác (tháng 8, 9), ...
Tịnh Biên có một loại cây khá đặc biệt là cây thốt nốt, loại cây lâu năm chịu hạn rất tốt.
Thốt nốt có tuổi thọ rất cao (có khi lên đến vài trăm tuổi) và là loại cây hữu dụng. Vừa là
cây ăn trái, vừa là cây dùng cho sản xuất cơng nghiệp và tiểu thủ cơng nghiệp, vì từ trái,
bơng, lá đến thân cây, tất cả đều có thể đem lại nguồn thu nhập cho người nông dân.
Phần lớn các loại cây này (cây hoa màu và cây ăn trái) chưa được đầu tư chăm sóc hợp
lý, chúng chỉ được bón bằng các loại phân tự nhiên (phân chuồng) nên năng suất đưa đến
chưa cao. Đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến hiệu quả kinh tế của địa phương.
Nhìn chung, do đặc điểm về mặt địa hình có độ dốc cao nên Tịnh Biên có tập quán làm
lúa ruộng trên và thuận lợi cho việc lập vườn trồng hoa màu và cây ăn trái. Cũng chính đặc
điểm này, cộng thêm thời tiết thường bị khô hạn, điều kiện chăm sóc kém (chủ yếu theo
kinh nghiệm của người đi trước), ít sử dụng phân hóa học bón cho cây nên năng suất cho ra
rất thấp. Những năm gần đây, người nông dân được hướng dẫn áp dụng nhiều tiến bộ khoa
học kỹ thuật gắn với mơ hình VRAC (Vườn - Ruộng - Ao - Chuồng), kỹ thuật chăm sóc bón
phân, phòng ngừa sâu bệnh, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng. Như vậy,
bên cạnh việc kế tục nghề truyền thống của ông cha, từ đây người dân Tịnh Biên cịn biết
phát huy nó lên bằng cách kịp thời nắm bắt kiến thức về khoa học kỹ thuật nơng nghiệp.
Đây là cách thức mà họ đóng góp vào việc làm giàu cho bản thân và cho địa phương thông
qua nghề trồng trọt.
1.3.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi là một nghề truyền thống của huyện Tịnh Biên, cũng là một trong những thế
mạnh của huyện. So với các huyện khác của tỉnh An Giang, nghề chăn nuôi tại đây chủ yếu
mang tính chất gia đình. Gia súc, gia cầm chủ yếu được ni bằng thức ăn có sẵn, khơng
phải là loại thức ăn chế biến và ít có chuồng trại kiên cố.
Tịnh Biên nói riêng, Bảy Núi nói chung có nhiều loại cỏ tuy mọc tự nhiên nhưng lại là
loại dùng chăn ni gia súc có chất lượng tốt như : cỏ mật, cỏ voi, cỏ đuôi phụng, cỏ lông
tây, ... chiếm ưu thế là cỏ ống và cỏ chỉ. Đồng thời, ruộng trên vùng núi Tịnh Biên chỉ có
thể cày cấy được một vụ vào mùa mưa, mùa còn lại chúng trở thành những bãi cỏ rộng để

chăn thả trâu bị. Chính vì vậy, Tịnh Biên từng nổi tiếng là nơi trao đổi, bn bán trâu, bị,
nhất là ở vùng biên giới Việt Nam – Campuchia. Xuất phát từ đây mà có câu nói truyền
miệng quen thuộc “Lụa Tân Châu, Trâu Nhà Bàng”. Bởi trước đây, cứ mỗi tháng ba lần vào
các ngày 10, 20 và 30, tại Châu Đốc có phiên chợ trâu, bị dưới chân núi Sam. Phiên chợ là
nơi tập trung nhiều giống trâu, bò ở khắp nơi tập trung về đây, trong đó, nhiều nhất là giống


trâu, bò của huyện biên giới Tịnh Biên. Lê Hương trong quyển “Chợ trời biên giới Việt
Nam – Cao Miên” có nói là từ thời “thượng cổ”, nhu cầu cày cấy đã đưa người dân ở hai
bên đường biên giới Việt – Campuchia đến với nhau trong việc trao đổi, mua bán loại hàng
sống là trâu và bò và nghề này “phát triển mạnh nhất trong thời Pháp cai trị Đông Dương”
[33, tr.78]. Song, để tiếp tục giải quyết nạn khan hiếm sức kéo và thịt, phiên chợ lại chính
thức đi vào hoạt động vào ngày 01/01/1953 (chấm dứt hoạt động vào tháng 06 năm 1959)
qua Nghị quyết số 2774/CAB/KT ngày 19/12/1952 do Thủ hiến Nam phần Việt Nam ký (12).
Tuy nhiên, trong phiên chợ, các nơi khác đến Tịnh biên mua trâu, bò nhiều hơn là bán và ở
đây, bị được ni nhiều hơn trâu. Điều này xuất phát từ địa hình của địa phương là vùng
sơn địa và bán sơn địa, rất thích hợp cho việc chăn ni bò, trong khi trâu chỉ sống nhiều ở
những nơi trũng, nhiều đầm lầy.
Người Việt ở Tịnh Biên ni bị khơng nhiều như người Khmer nên thường nhờ họ
ni, vì cho rằng họ có “tay ni”, hình thức này gọi là “ni rẻ”. Người Khmer lập chuồng
trại và ni bị ngay trong nhà (tập quán này đến nay vẫn còn), giống chủ yếu là bò ta vàng
địa phương và thức ăn cung cấp cho chúng ln có sẵn trong tự nhiên như rơm rạ, thân cây
bắp, lõi bắp, ... Từ năm 1988, ngành chăn nuôi của huyện được quan tâm phát triển hơn,
trong đó, đàn bị tăng bình qn 19% một năm. Theo số liệu thống kê năm 1997, đàn bò ở
hai huyện miền núi Tri Tôn và Tịnh Biên chiếm đến 2/3 số bị của tỉnh, Tri Tơn có 13.261
con, cịn ở Tịnh Biên có đến 13.820 con (nhiều nhất tỉnh).
Vài năm gần đây (những năm của thập niên 90 thế kỷ XX), An Giang có thử nghiệm
ni lai Sind hóa

(13)


đàn bị sinh sản hoặc vỗ béo. Giống bị này có khả năng chịu đựng

kham khổ tốt nên Tịnh Biên đã và đang được khuyến khích thực hiện chương trình Sind hóa
đàn bị song song với chương trình xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là cho đồng bào dân tộc
Khmer của huyện. Ngày nay, xu hướng cơ giới hóa xâm nhập vào nông thôn ngày càng
nhanh, nông dân nơi đây cũng bị chi phối, chuyển từ chăn ni bị cày kéo sang chăn ni
bị lấy thịt ngày càng nhiều và hiệu quả mang lại cho nghề chăn nuôi này khá cao, một đơi
bị thịt sau một năm có thể thu lãi hơn hai triệu đồng.
Tập qn ni heo nói chung đã có từ lâu đời. Ở Tịnh Biên, kỹ thuật nuôi heo trong
nhân dân không khác mấy các vùng lân cận. Nhưng điểm nổi bật lên là từ xưa đến nay họ
vẫn giữ được tập quán nuôi heo trong nhà và kỹ thuật chăm sóc, ni dưỡng vẫn là sử dụng
cám, gạo nấu trộn với các loại thức ăn thừa, hoặc trộn với thân cây chuối, rau muống, rau
lang xắt nhỏ, khác nữa là các loại cua, ốc, cá vụn băm nhuyễn nấu lên. Con heo ở Tịnh Biên
phần lớn là heo thịt.
Thời thuộc Pháp, người dân Tịnh Biên thường mua heo từ Campuchia, bởi người
Khmer Campuchia nuôi heo rất nhiều, nên thường chở qua biên giới Tịnh Biên bán cho


người Việt. Về sau, do sự kiểm duyệt gắt gao của chính quyền Campuchia, việc mua heo
gặp khó khăn hơn, nhưng họ vẫn thích mua heo của người Khmer Campuchia, vì giá heo
của họ bán khơng cao lại tiện lợi, không cần phải đi xa, khi cần là được “đáp ứng” ngay.
Người dân Campuchia cung cấp heo bằng cách chở “lậu” sang Việt Nam quanh năm, nhất là
trong tháng nước dâng, mỗi ngày có đến hàng trăm con được đưa sang biên giới, đến với
người dân Việt, trong đó có heo giống lẫn heo thịt.
Hiện nay, do tác động của chương trình khuyến nơng, nhiều giống heo mới như
Yorkshire, Duroc, Landrace, ... được nhập vào An Giang và phân bổ xuống các địa phương
theo những điều kiện nuôi dưỡng phù hợp. Song, heo chủ lực ở Tịnh Biên không thay đổi,
vẫn là giống heo trắng địa phương, nuôi theo cách riêng của địa phương (ít dùng thức ăn gia
súc) và thịt chỉ để cung cấp cho địa phương.

Không khác nghề ni trâu, bị, heo, nghề ni gà, vịt ở Tịnh Biên đã gắn liền với
người nông dân nơi đây từ rất lâu rồi. Khơng riêng gì nơi đây, những người nơng dân nói
chung để tận dụng được thời gian rãnh rỗi sau khi đi đồng về đã tìm ni thêm con gà, con
vịt trong nhà, làm thức ăn cho gia đình hoặc thiết đãi bạn khi cần. Gà, vịt thường được nuôi
trong khu vườn trước hoặc sau nhà. Cách thức chăm sóc mang tính chất gia đình, thức ăn
mang tính tự nhiên lấy từ những thứ có sẵn. Gà ăn gạo, thóc ; vịt trước đây có nguồn thức ăn
chủ yếu là con trùng, đôi khi là miếng cám hay ốc băm nhuyễn trộn, … hiện nay, người nuôi
vịt không cho vịt ăn trùng nữa, nhưng thức ăn vẫn do tự tay họ chế biến từ những thứ cặn,
thừa mà không sử dụng thức ăn công nghiệp nhằm chạy theo hiệu quả kinh tế rút ngắn thời
gian nuôi.
Ở Tịnh Biên, người dân nuôi vịt nhiều hơn gà và thường thấy nhất là hình thức ni vịt
chạy đồng với giống vịt ta quen thuộc của địa phương. Nguồn thức ăn chính của đàn vịt
chạy đồng là những hạt lúa rơi vãi, sâu rầy hoặc cá tép trong những đồng lúa mới gặt. Khi
làm nghề này, người chủ khá vất vả, thường phải thương lượng trước với chủ ruộng có
những cánh đồng lúa sắp gặt, gọi là “mua ruộng”. Sau khi lúa thu hoạch xong là lùa vịt đến
ăn lúa rụng và phải làm chòi tạm bợ để ngủ qua đêm ngay tại cánh đồng thả vịt để bảo vệ
đàn vịt của mình. Họ cịn phải liên tiếp thay đổi địa điểm, lùa vịt từ cánh đồng này sang
cánh đồng khác, từ địa phương này sang địa phương khác. Nhưng theo cách này, họ có thể
vừa tận dụng được nguồn lương thực dồi dào trên ruộng vào mùa nước lên, vừa tiết kiệm
được chi phí thức ăn cho đàn vịt.
Nói tóm lại, ngồi làm lúa và làm rẫy, người nơng dân Tịnh Biên cịn gắn với nghề
chăn ni. Dù hiện nay, tỉnh đã áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống, vừa tiến hành
cho áp dụng lai giống, vừa nhập giống ngoại vào, áp dụng kỹ thuật nuôi dưỡng, thú y,
chuồng trại, khuyến khích sử dụng thức ăn cơng nghiệp, ...Song, trải qua nhiều thế kỷ, nghề


chăn nuôi ở Tịnh Biên vẫn không thay đổi, đặc biệt là ở lối chăm sóc, rất đơn sơ, thức ăn có
sẵn trong tự nhiên, chuồng trại chưa kiên cố mang tập quán gia đình. Vì vậy, năng suất
mang lại rất thấp. Hơn nữa, đây chính là hạn chế làm kìm hãm sự phát triển chung của
huyện. Thật vậy, tập qn lập chuồng trại ni bị, ni heo trong nhà hay thả vịt chạy đồng

đã gây ô nhiễm cho môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cho bản thân người ni và những
gia đình xung quanh vì đó là nơi trực tiếp tạo điều kiện cho dịch bệnh phát triển và lây lan ;
việc chậm tiếp thu những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, thử nghiệm nuôi
dưỡng những giống mới, ... cũng sẽ là nguyên nhân đưa đến sự tụt giảm các đàn gia súc, gia
cầm của huyện Tịnh Biên.
1.3.3. Tiểu thủ công nghiệp
Nghề tiểu thủ cơng nghiệp của địa phương cũng có một lịch sử lâu đời không kém nghề
làm ruộng, rẫy và chăn nuôi. Bởi Việt Nam là một nước nông nghiệp mà từ trước đó, nơng
nghiệp và thủ cơng nghiệp đã khơng tách rời nhau, gắn liền nhau như hình với bóng. Dù
hiện nay, thủ công nghiệp nông nghiệp là hai nghề riêng biệt, nhưng nó vẫn tồn tại trong xã
hội, những kỹ thuật cổ truyền của các nghề thủ công truyền thống vẫn được duy trì như một
minh chứng hùng hồn cho sự tồn tại vững bền của truyền thống dân tộc. Tịnh Biên vốn từng
tồn tại nhiều nghề mang nặng tính thủ cơng truyền thống được lưu truyền nhiều thế hệ mà
vẫn cịn giữ ngun giá trị khơng hề phai nhạt, đó là nghề đươn đệm bàng, dệt thổ cẩm và
làm đường thốt nốt.
Cây bàng là một loại cây thuộc giống cỏ thuộc họ cói (Cyperaceae), có tên khoa học là
Lepironia articulata và là một loại cây thân thảo, mọc tự nhiên ở những vùng đất hoang hóa,
ngập sâu nhiễm chua phèn, chưa được cải tạo ở các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn, ...[75, tr.469470].
Đươn (đan) bàng là nghề thủ công dân gian và là cách gọi chung của nghề dùng cỏ
bàng đã được xử lý, đươn thành nhiều sản phẩm khác nhau. Ban đầu, sản phẩm của cây
bàng chỉ là những cái nóp, chiếc đệm đơn sơ dùng để nằm thay chiếu hoặc phơi lúa, làm
buồm ghe, những cái bao cà rịn đựng nơng sản, đựng muối, ... Dần về sau, nghề phát triển
lên với những sản phẩm vạn năng và duyên dáng như chiếc giỏ đựng rau quả của các bà nội
trợ, cái nón để đội, chiếc cặp để học sinh mang đi học,… được nhiều người ưa chuộng, nhất
là người nước ngoài.
Trước năm 1975, nghề đươn bàng tập trung nhiều ở các cụm tuyến dân cư thuộc các xã
Lương Phi - Ba Chúc (nay thuộc huyện Tri Tôn), Nhà Bàng, Nhơn Hưng. Rãi rác ở các xã,
ấp khác chỉ có vài hộ gia đình làm nghề này. Sản phẩm làm ra được đem trao đổi, bán phần
lớn ở chợ Nhà Bàng, chính vì vậy mà tác giả Trần Thanh Phương khi viết “Những trang về



×