Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Quán ngữ tình thái tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Yến Nga

QN NGỮ TÌNH THÁI TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành
Mã số

:
:

Ngôn ngữ học
60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.DƯ NGỌC NGÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2008


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và
chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào
khác.


Tác giả luận văn
Trần Thị Yến Nga


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của
PGS.TS.Dư Ngọc Ngân. Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu
sắc tới cơ.
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn phịng Khoa học – Cơng
nghệ sau Đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm Tp.HCM,
quý thầy cô trong tổ Ngôn ngữ - khoa Ngữ văn trường Đại học
Sư phạm Tp.HCM đã tạo điều kiện cho tôi hồn thành luận văn
của mình.
Trần Thị Yến Nga


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong vốn từ vựng của mỗi ngơn ngữ, bên cạnh đơn vị từ cịn có
một số lượng lớn các loại đơn vị ngữ cố định được gọi là quán ngữ
(QN),… Chúng được dùng rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày
cũng như trong các bài nói, bài viết, trong sáng tác văn chương, trên đài
phát thanh, truyền hình, sân khấu, báo chí,… Vì vậy, việc nắm hiểu và
trau dồi khả năng sử dụng những ngữ cố định đó đã trở thành nhu cầu tự
nhiên của mỗi người.
Gần đây, cùng với khuynh hướng chú trọng hơn đến nhân tố con
người trong ngôn ngữ và trong hoạt động ngôn ngữ, giới nghiên cứu Việt
ngữ học ngày càng quan tâm đến vấn đề tính tình thái, ý nghĩa tình thái
của ngơn ngữ. Đó cũng là lẽ tất yếu bởi khơng có một nội dung nhận
thức và giao tiếp hiện thực nào lại có thể tách khỏi những nhân tố như

mục đích, nhu cầu, thái độ đánh giá… của người nói đối với điều được
nói ra xét trong mối quan hệ với hiện thực, với đối tượng giao tiếp và các
nhân tố khác của ngữ cảnh giao tiếp.
Như đã biết, một trong những mục đích chính của giao tiếp là trao
đổi thông tin. Độ phức tạp trong việc xử lí thơng tin và hiệu ứng mà phát
ngơn tác động đến người nghe địi hỏi người nói có những thao tác xử lí
nhất định về mặt ngơn ngữ. Việc sử dụng ngữ điệu hay các phương tiện
từ vựng khơng giống nhau giúp người nói thể hiện các thái độ khác nhau
đối với nội dung phát ngôn. Các thông tin liên nhân được truyền đạt bên
cạnh những thông tin ngơn liệu được gọi là thơng tin tình thái nhận
thức.
Trong số những đơn vị từ vựng biểu đạt thông tin tình thái nhận
thức, có một loại ngữ cố định chuyên biểu thị ý nghĩa tình thái, thường


được gọi là quán ngữ tình thái (QNTT). Loại đơn vị này có những nét
đặc thù về cấu tạo, chức năng và ngữ nghĩa. Sự tồn tại của các QNTT
với ý nghĩa, vai trò của chúng trong cơ chế giao tiếp liên nhân đã thơi
thúc chúng tơi tìm hiểu, khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của loại
đơn vị này với đề tài “Quán ngữ tình thái trong tiếng Việt”.
Về mặt lí luận, luận văn hi vọng góp phần tìm hiểu một số đặc
điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa - ngữ dụng của QNTT, một vấn đề từ trước
đến nay ít được đề cập đến.
Về mặt thực tiễn, quá trình giải quyết những vấn đề cụ thể về
QNTT trong luận văn có thể góp thêm ý kiến cho việc biên soạn tài liệu
nghiên cứu cũng như trong việc vận dụng vào công tác giảng dạy của
bản thân về những vấn đề có liên quan đến QNTT trong tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói, trong tiếng Việt, các nhà nghiên cứu từ vựng học đã
gọi lớp từ chuyên dụng này là QN. Tuy nhiên, cho đến nay, sự nhìn nhận

và nắm bắt về QN một cách nhất quán, giúp người dạy, người học không
cảm thấy mơ hồ và nhập nhằng với các khái niệm tương cận vẫn còn là
vấn đề phía trước. Trong khi các hiện tượng khác thuộc ngữ cố định
được nghiên cứu một cách có hệ thống thì QN chỉ mới được đề cập đến
với những nhận định ban đầu. Chúng tơi chỉ tìm thấy được một số ít
cơng trình, bài viết (chủ yếu là về từ vựng học) có trình bày sơ lược về
đơn vị qn ngữ trong tiếng Việt. Các tác giả như Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Trọng Phiến đã đề cập đến QN trong các
cơng trình của mình nhưng cũng chỉ là những gợi mở cho các hướng
nghiên cứu sâu và qui mơ hơn. Hồng Trọng Phiến [22] đã liệt kê được
gần 500 QN trong cơng trình từ điển giải thích hư từ tiếng Việt của tác
giả. Đỗ Thanh và các đồng sự đã bổ sung hàng trăm đơn vị nữa trong


cơng trình của họ [15]. Và như đã nói, chúng tôi lấy lớp từ này làm xuất
phát điểm nghiên cứu.
Một số tác giả khác đã khảo sát QN một cách gián tiếp như là
những phương tiện “hiện thực hoá” cho các đơn vị, hiện tượng ngơn ngữ
có liên quan trong từ pháp, ngữ pháp, lơgíc-cú pháp,... Cụ thể, Đinh Văn
Đức đã xác lập khái niệm tình thái và miêu tả lớp tiểu từ tình thái trong
đó chúng có khả năng được hiện thực hố bằng QN [10]. Ngồi ra, trong
các thành phần câu, theo đa số tác giả ngữ pháp tiếng Việt, lớp từ này
xuất hiện dưới dạng là thành phần phụ tình thái, đề tình thái hoặc thuyết
tình thái trong câu. Các tác giả phân tích diễn ngơn thì phần nhiều quan
tâm đến đặc tính liên kết của QN. Vì thế, có thể thấy rằng QN, trong địa
hạt ngữ pháp, cũng đã từng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, trong thế đối lập với trạng ngữ, liên ngữ và tình thái ngữ,… Thật
vậy, trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã tỏ ra rất nỗ lực trong việc làm rõ
vấn đề này. Nhiều tác giả đã thấy được bản chất của QN trong câu đơn
nhưng không thể xếp chúng vào một thành phần cú pháp nào cả về nên

đề nghị gọi là phụ chú ngữ (nói trộm bóng, có lẽ, kể ra...). (Nguyễn Kim
Thản) cho là gia tố (ấy thế, vả lại, mới chết chửa, có ai ngờ,..) (Lưu Vân
Lăng), hay thành phần xen kẽ (có lẽ, có ai ngờ,...) (Nguyễn Tài Cẩn).
Trong ngữ pháp chức năng, chúng là yếu tố tình thái làm thành Đề của
câu được đánh dấu bằng thì (theo ý tơi thì, nếu tơi khơng nhầm thì, thật
ra thì...); bằng la (quả là, nói thật là, miễn là...) (Cao Xuân Hạo). Trong
đó, Nguyễn Văn Hiệp [57] là tác giả đã quan tâm và đầu tư nhiều cho
việc kiến giải, phân biệt lớp từ này với trạng ngữ, “vị ngữ thứ yếu” (thuật
ngữ của các tác giả) mặc dù chỉ dưới góc nhìn của ngữ pháp câu và ngữ
nghĩa lôgic cú pháp. Nguyễn Văn Hiệp đặt tên cho chúng là “định ngữ
câu”. Tuy nhiên, do cố gắng tìm ra bản chất của các tham tố ngoài cú
pháp câu, các tác giả trên khá thiên về ngữ nghĩa lôgic-cú pháp. Trong


thực tế nói năng, việc sử dụng và ý nghĩa dụng học phong phú của lớp từ
này vượt hẳn ra cái gọi là “điều kiện sử dụng câu có định ngữ câu” của
tác giả.
Diệp Quang Ban đã đề nghị một đơn vị gọi là liên ngữ để chỉ quan
hệ ngoại hướng, liên kết câu chứa nó với các câu liên quan phía trước mà
thực chất chính là những QN liên kết. Ngồi ra, có hai cơng trình nổi bật
về liên kết văn bản của Trần Ngọc Thêm [85] và liên kết lời nói của
Nguyễn Thị Việt Thanh [73] đều bàn về QN với cách gọi khác như
“cụm từ làm thành phần chuyển tiếp”, “từ nối”,...
Trong khi đó, việc nghiên cứu QN chỉ dừng lại ở những giải nghĩa
cho từng QN, chỉ ra một vài cách dùng, một số giá trị sử dụng nào đó
của nó. Nghĩa là các tác giả hoặc chỉ nêu khái niệm QN một cách khái
lược trong các giáo trình ngơn ngữ (phần từ vựng) hoặc bàn đến một
cách chung chung về cách phân loại, cách sử dụng và đặc trưng ngữ
nghĩa của các QN tiếng Việt qua một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí
chuyên ngành. Chẳng hạn:

Nguyễn Thị Thìn (2000) với bài “Quán ngữ tiếng Việt” [71] đã
dựa vào công dụng thường dùng của QN để phân chia nó thành bốn loại.
Ngơ Hữu Hồng (2002)đđã chỉ ra một số điểm khác biệt giữa
thành ngữ (TN) và QN, trong bài “Vài suy nghĩ về cụm từ cố định nói
chung và quán ngữ nói riêng” [42]. Theo đó, tác giả đưa ra kết luận TN
“là kết quả của việc vay mượn để đúc kết ngữ nghĩa từ vựng (định danh)
bậc hai nhằm đáp ứng tình trạng nhu cầu phản ánh “nghĩa” của thế giới
khách quan trong giao tiếp”, còn QN “phục vụ cho các chức năng của lời
nói, tạo ra một hành vi giao tiếp sao cho có hiệu quả…Ngữ nghĩa của nó
bị hư hóa nên mất tính TN và cấu trúc nội tại từ đó cũng rất lỏng lẻo”.
Chi tiết hơn là bài viết “Bàn về điều kiện sử dụng của một số
QNTT nhận thức dưới góc độ lí thuyết quan yếu” của Ngũ Thiện Hùng


[45]. Qua khảo sát cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, tác giả đã khẳng định
“việc sử dụng các QNTT nhận thức không chỉ chịu sự chế định của các
yếu tố logic cú pháp mà cịn phải tính đến các điều kiện như định hướng
nội dung hay định hướng quan hệ (động cơ vì người nghe/người nói)”.
Ngồi ra, các giáo trình về từ vựng học, các từ điển có nêu khái
niệm QN chẳng hạn:
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2001), Nxb Hà Nội có
nêu định nghĩa về QN như sau: “là những tổ hợp từ cố định dùng lâu
thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành (tr.84).
Nguyễn Thiện Giáp (1990) trong giáo trình “Từ vựng học tiếng
Việt”, Nxb GD cho rằng QN “là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại
trong các loại văn bản để liên kết, đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh nội
dung cần diễn đạt nào đó”.
Đỗ Hữu Châu (1999) trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” Nxb
GD lại xếp QN vào phần trung gian giữa ngữ cố định với cụm từ tự do.
Hoàng Trọng Phiến (2003), “Cách dùng của hư từ tiếng Việt hiện

đại” có nêu cách dùng của một số QN.
Cao Xuân Hạo (1991) trong “Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức
năng" (quyển 1) dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm QN hay QNTT,
nhưng tác giả đã dành một phần trong chương II để mơ tả phân tích đặc
điểm chức năng của các thành phần làm thành Đề tình thái, Thuyết tình
thái.
Điểm qua một số cơng trình nghiên cứu trên đây ta thấy, cho đến
thời điểm này, nhiều vấn đề cơ bản của QNTT vẫn cịn bỏ ngỏ. Như vậy,
Qn ngữ tình thái tiếng Việt thực sự là một đề tài hấp dẫn, đáng được
quan tâm nghiên cứu bởi tính đa loại, đa cơng dụng và những đặc trưng
riêng của nó. Từ đó chúng tơi hy vọng góp phần tìm ra hoạt động của
QNTT để vận dụng vào việc nói, viết tiếng Việt cho tốt.


3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là tìm ra những đặc điểm ngữ nghĩa- chức
năng của QNTT. Để đạt được mục đích đó , chúng tơi tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm ra những tiêu chí để nhận diện QNTT tiếngViệt, trên cơ sở đó
lập một danh sách về QNTT thơng dụng.
- Miêu tả những đặc điểm cơ bản của QNTT về hình thức.
- Phân tích ngữ nghĩa – chức năng của lớp từ này. Từ đó khảo sát ba
chức năng cơ bản của QNTT tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, trong q trình tiếp cận và phân
tích đối tượng, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học
chung như thu thập ngữ liệu, khảo sát, phân loại ngữ liệu…, luận văn
chủ yếu sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích ngơn ngữ học để phân tích ngữ nghĩa

chức năng của các QNTT thu thập được.
- Phương pháp miêu tả để trình bày q trình khảo sát, phân tích
đối tượng và kết quả nghiên cứu.
4.2. Nguồn ngữ liệu
QNTT thường xuất hiện trong khẩu ngữ, trong những lời đối thoại
trực tiếp của những người tham gia giao tiếp. Nó cũng được liệt kê trong
một số từ điển tiếng Việt. Vì vậy để tìm ra được các đặc điểm chức năng
của lớp từ này, tư liệu chủ yếu của luận văn bao gồm:
- Các tác phẩm, các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn
chương, chủ yếu là của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, tuyển tập truyện
ngắn, tạp chí Văn nghệ quân đội,…
- Từ điển tiếng Việt và Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt.


5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung gồm 2 chương như
sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Trong chương này, luận văn đã điểm qua vài nét về QN như: khái
niệm, phân biệt QN với TN, phân loại các QN tiếng Việt (QNTV). Ngoài
ra, chúng tơi cịn đề cập đến một số vấn đề về tình thái trong ngơn ngữ
học. Theo đó, luận văn đã nêu ra một số đặc điểm bản chất của QNTT
tiếng Việt.
Chương 2: Đặc điểm của QNTT tiếng Việt
Ở chương 2, luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát đặc điểm cấu
tạo, các chức năng ngữ nghĩa cơ bản của QNTT tiếng Việt như chức
năng đánh giá, chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngơn và chức
năng biểu thị thái độ, tình cảm của người nói.



Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Vài nét về quán ngữ
1.1.1. Khái niệm quán ngữ
QN là đơn vị ngôn ngữ thuộc phạm vi quan tâm trước hết của các
nhà nghiên cứu từ vựng. Chính vì thế mà đơn vị này thường được gặp
trong cơng trình nghiên cứu về từ vựng hơn là trong các sách ngữ pháp.
Bản thân thuật ngữ “QN” được hiểu theo kiểu chiết tự “quán” là thói
quen. Lý do là lớp từ này được sử dụng theo “phản xạ” bản ngữ. Với đặc
tính “dùng lâu thành quen” theo “phản xạ”, một số người cũng gọi chung
TN là QN. Trong tác phẩm “Ý nghĩa và cấu trúc ngôn ngữ” [77] dịch từ
tiếng Nga, nguyên tác tiếng Anh là Meaning and the Structure of
language của tác giả người Mỹ Wallace L. Chafe, Nguyễn Văn Lai đã
dùng từ “QN hoá” thay cho “TN hoá” ở chương 5 khi dịch thuật ngữ
idiomaticization [77].
Nguyễn Văn Tu với cơng trình nghiên cứu về từ tiếng Việt [79] đã
dành vài trang để nói về khái niệm QN. Theo quan niệm của tác giả, QN
cũng có tính ổn định vì các thành tố gắn bó với nhau thơng qua q trình
“quen dùng” và đưa ra các ví dụ minh hoạ cho quan điểm của mình: bạn
nối khối, anh hùng rơm, gót sắt, kỷ luật sắt, mua việc,...Như vậy, đối với
Nguyễn Văn Tu, QN là một kiểu ngữ cố định mà các tác giả khác gọi tên
là ngữ cố định định danh (Vũ Đức Nghiệu); TN hợp kết (Nguyễn Thiện
Giáp), các TN ở dạng tỉ dụ (Hồng Văn Hành)... Qua đó, tác giả quan
niệm tất cả các đơn vị của ngữ cố định đều có đặc tính “dùng lâu thành
quen” và với những cụm nào nghĩa bóng thấp thì ơng gọi là QN và nghĩa
bóng cao là TN. Có thể đây là lý do giải thích có lúc người ta dùng thuật
ngữ “QN” để gọi ln cho TN, hay ngược lại.


Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ định nghĩa QN là:
Tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ

các nghĩa của các yếu tố hợp thành. [19, tr.829]
Từ điển này đưa ra các ví dụ là “lên lớp”, “lên mặt”, “lên tiếng” [19,
tr.829]. Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá thuộc
Bộ Giáo dục và Đào tạo, định nghĩa QN là:
Tổ hợp từ cố định quen dùng mà nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của
những yếu tố cấu thành. [58, tr. 1364].
Tuy nhiên từ điển này không cho ví dụ minh hoạ. Từ định nghĩa của
hai từ điển, chúng tôi vẫn rút ra được một kết luận rất có ích cho việc
phân biệt QN với TN, đó là: QN, đứng về mặt từ vựng học, khơng có
nghĩa bóng.
Cho đến bây giờ, những định nghĩa mà chúng tơi có được đa phần
tập trung ở địa hạt này. Đỗ Hữu Châu phát biểu:
QN là những cách nói, cách diễn đạt cần thiết để đưa đẩy, để
chuyển ý hay dẫn ý, để nhập đề chứ khơng có tác dụng nêu bật một sắc
thái của những cái đã có tên hoặc nêu bật ra các sự vật, hiện tượng, tính
chất,...chưa có tên gọi. Ngồi các thí dụ đã nêu, có thể dẫn thêm các QN
khác như : “ai cũng biết rằng”, “rõ ràng là”, “chắc chắn là”,…[12,
tr.74]
Ông cho rằng TN trung gian với từ ghép và QN trung gian với cụm
từ tự do. Dựa vào đó, chúng tơi đưa ra lược đồ sau đây:
Ngữ cố định

Quán ngữ
(Gần gũi cụm từ tự do)

Thành ngữ


Theo lược đồ, QN là đơn vị phân biệt với TN và qua định nghĩa của
tác giả, phân biệt ở đây khơng chỉ là hình thức của QN mang tính chất

của cụm từ tự do cao mà còn là về mặt nghĩa học. Trong khi TN có nghĩa
định danh và tính biểu trưng thì QN, như quan niệm của Đỗ Hữu Châu,
mang nghĩa “rỗng” vì nó chỉ có chức năng dẫn xuất, đưa đẩy. Nó là đơn
vị ngơn ngữ mang tính cơng cụ. Thật vậy, khi một người muốn bổ sung
giữa cái nói rồi với cái định nói nữa, anh ta sử dụng các “chỉ xuất” diễn
ngôn được làm sẵn hoặc để cho người nghe có thể “dự báo”, có thể nắm
bắt trước tinh thần phát ngôn, chuyển đổi chủ đề, tránh tình trạng đột
ngột, tạo ý khẳng định, phủ định, tạo hành vi tại lời, v.v.
Nguyễn Thiện Giáp có cùng ý kiến :
QN là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại văn bản
để liên kết, rào đón hoặc nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. Mỗi
phong cách thường có những QN riêng, chẳng hạn các QN “của đáng
tội”, “nói khí vơ phép”, “nói bỏ ngồi tai”, “chẳng nước non gì”, “cịn
mồ ma”, v.v...thường được dùng trong phong cách hội thoại [67, tr.101].
Từ định nghĩa của Nguyễn Thiện Giáp, chúng tôi phát hiện thêm
một đặc điểm nữa mà sẽ là thiếu sót nếu khơng đưa vào đặc tính của QN:
Sự sử dụng lặp đi lặp lại thành quen dùng như một cách nói chuyên
dụng. Đặc tính này đã phần nào phản ánh lý do lớp từ này có tên là
“QN”. Ví dụ:
(1) Đừng tưởng là giỏi giang tài cán mà việc nhà ai cũng chõ vào
nhá.
Cụm từ “đừng tưởng” này không chỉ xuất hiện trong phát ngôn trên,
của riêng người phát biểu trên mà hầu như nó là một biểu thức được làm
sẵn qua một quá trình tái hiện nhiều lần trong tiếng Việt trong các tình
huống tạo phát ngơn vừa có tính chất “khun” vừa có tính chất “cảnh
báo”. Định nghĩa và sự sắp xếp của Nguyễn Thiện Giáp về ngữ cố định


trong đó có QN được thể hiện qua lược đồ của tác giả đề nghị sau đây
[67, tr.101]:

Có tính nhất thể

Khơng có tính

về nghĩa

nhất thể về nghĩa

Ngữ láy

Ngữ láy

Cấu tạo

Chức năng

đơn nhất

mơ hình

bằng

biểu hiện

Thành ngữ

Thành ngữ

phương


gợi tả

hồ kết

hợp kết

thức láy

Chức năng

Ngữ định danh

Ngữ định danh

Cấu tạo

định danh

hoà kết

hợp kết

bằng
phương

Chức năng

QN

thức ghép


đưa đẩy,
nhấn mạnh
Dễ nhận thấy rằng QN trong lược đồ của Nguyễn Thiện Giáp có ba
đặc điểm nổi bật:
- Có chức năng đưa đẩy, nhấn mạnh, khơng có nghĩa định danh (nét
khu biệt lớn nhất với các đơn vị ngữ cố định khác).
- Khơng có tính nhất thể về nghĩa.
- Được cấu tạo bằng phương thức ghép.
Nhưng như thế nào là “phương thức ghép”? Chắc chắn “ghép” đây
không phải theo phương thức cấu tạo của TN, từ ghép hoặc từ láy vì tác
giả đã chỉ ra:
Về ý nghĩa cũng như về hình thức cụm từ trên (tức là QN- chú thích
của người viết) chẳng khác gì cụm từ tự do nhưng do nội dung của
chúng đã trở thành điều thường xuyên phải cần đến trong sự suy nghĩ và


diễn đạt mà chúng được dùng lặp đi lặp lại như một đơn vị có sẵn [67,
tr.101].
Đặc điểm “khơng khác gì cụm từ tự do” có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc quyết định sự khác nhau về hình thái cũng như nội dung của
QN với các đơn vị từ vựng khác.
Vũ Đức Nghiệu cũng quan niệm:
QN là những cụm từ được lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ
(discourse) thuộc các phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là
đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh, hoặc để liên kết trong diễn từ. Ví dụ:
“của đáng tội”, “nói bỏ ngồi tai”, “nói tóm lại”, “kết cục là”, “nói
cách khác”,... [90, tr.161]
Ví dụ :
(2) Tự nhiên, Trường khơng muốn về nhà nữa. (Thạch Lam, Sợi

tóc)
“Tự nhiên” chỉ ra một hệ quả đột ngột, xuất phát từ một nguyên
nhân nào đó đã xảy ra rồi, nó gắn bó với tồn bộ cấu trúc phát ngơn
(PN). Nó hồn tồn khơng phải là trạng ngữ “tự nhiên” của một PN đại
loại như:
(3) Trường cười nói rất tự nhiên.
Hoặc:
(4) Cứ tự nhiên như ở nhà.
Vũ Đức Nghiệu đã đưa ra một lược đồ để minh họa cho định nghĩa
của mình [90, tr.161]:


CỤM TỪ CỐ ĐỊNH

Ngữ cố định

Thành ngữ
(Mẹ trịn con vng)

QN NGỮ

Ngữ cố định định danh

(Của đáng tội)

( Mặt trái xoan)

Qua lược đồ, chúng ta có thể nhận thấy rằng tác giả dù có ý kiến
khác và thuật ngữ khác trong việc phân chia ngữ/cụm từ cố định nhưng
tác giả vẫn thống nhất đặt QN vào một vị trí trong hệ thống cụm từ cố

định.
Cũng giống như các tác giả trên, nhóm tác giả trường Cao đẳng Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh và Long An cũng đưa ra hai khái niệm
nổi bật trong hệ thống ngữ cố định là TN và QN trong đó QN có khuynh
hướng cịn gần gũi với cụm từ tự do. Về cơ bản nhóm tác giả này cũng
đồng ý rằng:
QN là những ngữ cố định có cấu tạo và ngữ nghĩa khơng khác gì
ngữ tự do, nhưng được dùng nhiều trong lời nói như những cơng thức
“có sẵn”. Ví dụ “rõ ràng là”, “nghĩ cho cùng”, “của đáng tội”, “nói
tóm lại”, “chẳng chóng thì chày”,...[84, tr.129]
Tuy nhiên, phải thấy rằng có một ít mâu thuẫn trong định nghĩa này
khi các tác giả vừa khẳng định QN là “ngữ cố định” vừa một mặt cho
rằng chúng “có cấu tạo và ngữ nghĩa khơng khác gì ngữ tự do”
Hữu Đạt có định nghĩa dựa vào nội hàm của thuật ngữ nên suy ý hơi
rộng nhưng những ví dụ tác giả đã đưa ra hoàn toàn phù hợp với lớp QN
chúng tôi đang bàn luận:


Theo nghĩa đen “quán” là “quen”. Vậy QN là một loại ngữ cố định
được người ta quen dùng. Ví dụ: “nói tóm lại”, “kết quả là”, “rốt
cuộc”, “nói một cách khác”, “ nói gọn lại là”, “trước hết”, “đáng chú ý
là”, “khơng chóng thì chày”, “mặt khác thì”...[...]. Như vậy nói khái
qt thì QN là loại ngữ cố định được quen dùng nhưng ít hoặc khơng có
tính hình tượng. [29, tr. 77]
Ý kiến trên bổ sung cho phần nhận định về QN là chúng có ít hoặc
khơng có tính hình tượng. Thật vậy, với tư cách là đơn vị ngôn ngữ
khơng có nghĩa thực mà chỉ có nghĩa chun dụng thì việc đặt ra vấn đề
“hình tượng” hoặc “biểu trưng” là vừa rất khó và cũng khơng thực tế.
Quan niệm này cũng khơng khác gì với các từ điển tiếng Việt mà chúng
tôi tổng hợp được rằng, khác với TN, QN có ý nghĩa có thể suy ra từ các

thành tố tạo nên nó một cách trực tiếp. Chúng tơi hồn tồn chia sẻ với ý
kiến này, ví dụ thật khó hình dung được đâu là nghĩa TN của các QN
như Tơi thiết nghĩ, nói tóm lại, ấy thế mà,...
Ngồi các định nghĩa về thuật ngữ QN mà theo chúng tơi, cịn có
chỗ mơ hồ về các ví dụ minh hoạ, hai cơng trình từ điển tiếng Việt giải
thích các QN cụ thể trong mục từ của mình là “cách dùng khẩu ngữ”,
hoặc “dùng ở đầu câu”, hoặc “dùng làm thành phần phụ câu”. Ví dụ từ
điển tiếng Việt [19, tr.240) đã giải thích QN (nói) của đáng tội là khẩu
ngữ, dùng làm phần chêm trong câu. Tổ hợp biểu thị sự chuyển ý để
nhằm thanh minh hoặc làm rõ thêm cho điều ít nhiều khơng hay vừa nói
đến ở trên; và các ví dụ là nói cho đúng ra, cho thoả đáng, thực ra thì.”
Ví dụ :
(5) Nhiều người cho rằng nó keo kiệt, nhưng của đáng tội, nó khơng
có thế. [19, tr.40]
Chúng tơi hồn tồn chia sẻ với quan điểm này, đặc biệt là nhận
định đặc trưng vị trí cú pháp của QN thường là “ở đầu câu”.


Đỗ Thanh [15] đã xếp QN vào trong lớp từ cơng cụ tiếng Việt.
Hồng Trọng Phiến đã phát biểu:
Hư từ và các kết cấu hư từ là những thành viên không thể thiếu
trong các kết cấu cú pháp phức tạp, nhiều tầng bậc. (Trong từ điển này,
chúng tôi cũng đưa vào các tổ hợp mà chúng tôi gọi là QN, tương đương
như những locution kiểu : nói thật ra, từ bấy đến nay, khơng hề gì đâu)
[22].
Đến đây, chúng ta có thể hiểu khái niệm QN như sau:
“Quán ngữ là ngữ cố định, được dùng lâu dần thành quen, có
tính ổn định tương đối về kết cấu, có tính TN về nghĩa khá thấp và
khơng mang tính biểu trưng, tính hình tượng. Bên cạnh một số QN
có ý nghĩa từ vựng, phần lớn QN cịn có ý nghĩa chức năng và tình

thái”.
1.1.2. Phân biệt quán ngữ với thành ngữ
Cho đến nay có một số giáo viên ở trường phổ thơng vẫn chưa phân
biệt được QN với TN một cách rõ rệt. Có lẽ vấn đề là ở chỗ có một số
QN ít nhiều cũng có nghĩa là TN. Chẳng hạn như các QN: nói của đáng
tội, nói khí khơng phải, chẳng chóng thì chày, hai sơi ba lạnh, ngày một
ngày hai, chẳng chóng thì chày, ra mơn ra khoai, qua ngày đoạn tháng,
… Đây là hiện tượng ranh giới mờ giữa một số TN và QN trong thực tế.
Tuy vậy, số lượng những đơn vị như trên không nhiều. Hơn nữa, cũng
khơng thể nói rằng khơng có những đơn vị thuần QN, TN.
Thật ra, QN và TN được xếp vào loại cụm từ/ngữ cố định. Giữa
chúng có những điểm chung và riêng. Điểm chung là, cả TN và QN đều
được hình thành trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Vì vậy,
phần lớn trong số chúng mang tính khẩu ngữ tự nhiên, giàu sắc thái chủ
quan, thích hợp với phong cách hội thoại và phong cách nghệ thuật.


Cũng như TN, QN là tổ hợp hai từ trở lên, mang tính cố định (tương đối)
về mặt kết cấu, tính TN về mặt nghĩa, có chức năng cấu tạo câu.
Nhưng khác với TN, QN khơng mang tính biểu trưng, tính hình
tượng. Cấu tạo QN thơng thường theo cơ chế ẩn dụ, hoán dụ, so sánh
như TN. Phần lớn nghĩa của QN đều là nghĩa chức năng, được nhận ra
bằng việc lí giải từng cách dùng của nó. Cụ thể, ta phải xem thử QN
đang xét có bao nhiêu cách dùng. Trong mỗi cách dùng, nó có cơng dụng
ngữ pháp, nghĩa học, dụng học hay liên kết văn bản/ hội thoại như thế
nào; xuất hiện ở vị trí ngữ pháp nào trong kiểu câu chứa nó, xuất hiện
trong tình huống điều kiện như thế nào? Ta thử tìm hiểu nghĩa của QN
“không biết”. Trước hết, cần phân biệt QN không biết với tổ hợp từ tự do
gồm phụ từ phủ định không cộng với vị từ biết làm trung tâm vị ngữ chỉ
định tình trạng nhận thức của chủ thể nêu ở chủ ngữ. QN “không biết”

thường ở đầu/cuối câu làm thành phần phụ tình thái.
QN khơng biết có cách dùng thông thường:
- Cách dùng 1: Trong kiểu cấu trúc: khơng biết + câu nghi vấn ?(a)
Ví dụ: (6) Khơng biết dạo này Hải có cịn làm ở cơng ti cũ nữa
khơng?
Khi nói ra phát ngơn có kiểu cấu trúc (a), người nói đang có vấn đề
khúc mắt cần phải suy nghĩ để tìm ra lời giải. Và, QN khơng biết biểu lộ
tâm trạng của người nói đang băn khoăn, trăn trở vì chưa tìm ra lời giải.
- Cách dùng 2: Trong kiểu cấu trúc: P+ thế + không biết ! (b)
Ví dụ: (7) Ồ, vẫn chưa tạnh à? Mưa lâu thế không biết !
Cấu trúc (b) thường được dùng trong tình huống: xuất hiện một
trạng thái/ thuộc tính P ở mức độ cao khác thường, vượt ra ngoài mức độ
của người nói. QN khơng biết góp phần nhấn mạnh vào ý nghĩa mức độ
cao, đồng thời biểu lộ tâm trạng, cảm xúc ngạc nhiên, lấy làm lạ trước sự
tình P.


Như vậy, từ hai cách dùng trên, có thể xác định ý nghĩa của QN
không biết: dùng để biểu lộ tâm trạng cảm xúc của người nói trước một
sự việc, một thuộc tính hay một tình huống:
+ Băn khoăn, trăn trở vì chưa tìm ra lời giải.
+ Ngạc nhiên, lấy làm lạ bởi mức độ khác thường của thuộc tính.
Ta cũng có thể đặt QN đang xét vào mối quan hệ đồng nghĩa, trái
nghĩa với những QN cùng nhóm nhằm phát hiện nét nghĩa tinh tế của
chúng như không đời nào = sức mấy,….Đặc tính này khơng thể có được
ở TN vì mỗi TN là một đơn vị có nghĩa cụ thể, nội dung riêng biệt, mà
muốn hiểu nó phải thơng qua lí giải. Ví dụ với TN già kén kẹn hom,
chúng ta có thể lí giải đó là: “một hành động, một tình trạng kén chọn
trong lứa đơi, hơn nhân dể đánh mất cơ hội, bị muộn màng”. Nói một
cách nôm na, nếu như nghĩa của TN thường là nghĩa bóng thì nghĩa của

QN lại là nghĩa đen, khơng có tính chất tái định danh mà bị trừu tượng
hóa TN nghĩa cú pháp, cung cấp cho mệnh đề một chức năng thông báo,
một lực ngôn trung hoặc sự mạch lạc trong liên kết các phát ngơn. Lí giải
về tình trạng này, theo Ngơ Hữu Hồng có thể lí do là về mặt tâm lí ngơn
ngữ học, khác với mục đích sử dụng TN, QN thường được sử dụng như
một phương tiện tăng tính mạch lạc, cân xứng, sáng sủa, tính tình thái và
logic của diễn ngơn, có chức năng như chất bơi trơn diễn ngơn thì việc
tạo thêm cho chính phương tiện này các lớp nghĩa chồng chất lên nhau
cho thêm khó hiểu là điều khơng có lợi trong giao tiếp. Đến đây, ta có
thể khẳng định hầu hết các QN, nếu khảo sát kĩ, chúng ta đều phát hiện
ít nhiều tính TN trong nghĩa hệ thống nhưng rất thấp và nó thường bị mờ
đi, khơng cịn được hiểu là TN hay không để nhường chỗ cho một cái
quan trọng hơn; ngữ nghĩa chức năng mà chúng ta tạo ra cho phát ngôn.
Một đặc điểm lớn để phân biệt TN và QN là mức độ chặt chẽ về kết
cấu. TN thường có cấu trúc chặt chẽ, tuân thủ nhiều quy luật. Chẳng hạn,


TN tiếng Việt thường có cấu trúc đối xứng, là loại TN chiếm tỉ lệ cao
nhất (thường có bốn thành tố, hai thành tố đầu đối với hai thành tố sau,
ví dụ: mẹ trịn – con vng, ăn chắc – mặc bền,…) trong đó có đối xứng
vần điệu. Loại phổ biến thứ hai là TN so sánh thường xuất hiện quan hệ
từ như (lạnh như tiền, rẻ như bèo,…). Trong khi đó với QN ta lại có thể
thêm vào, bớt đi hoặc thay thế trong cấu trúc nội tại của chúng một đơn
vị hay một kết cấu tương đương khác cũng khơng ảnh hưởng đến ý nghĩa
chức năng mà nó đảm đương. Vấn đề là sao cho đạt được hiệu lực giao
tiếp chứ không phải là sự chuẩn xác về khái niệm như khi dùng TN. Đến
đây, chúng tơi có thể khái lược một số điểm khác nhau cơ bản giữa TN
với QN như sau:
Tiêu
chí


THÀNH NGỮ

so

QUÁN NGỮ

sánh
Quan hệ cú pháp nội tại Quan hệ cú pháp nội tại không
chặt che.

chặt chẽ.

Thành ngữ thường có 3 thành QN có khi dài như nói khí vơ
tố trở lên (phổ biến là 4 thành phép, khổ một nỗi là,…; cũng có
Cấu

tố), có đối, có điệp, có vần khi ngắn như: trước hết, tất

tạo

điệu, kết hợp với nhau theo nhiên,…
một số quy luật nhất định, có QN thường có cấu trúc khơng
cấu trúc đối xứng.

chặt chẽ như TN. Do vậy, một số

Chẳng hạn: Xanh vỏ đỏ lòng.

trường hợp nếu thêm vào, bớt đi


Trong cấu trúc thường có trong kết cấu của chúng một đơn
xuất hiện từ như (trong TN so vị hay thay thế một kết cấu tương
sánh).

đương khác cũng không ảnh


Ví dụ:Rách như tổ đỉa.

hưởng gì đến ý nghĩa chức năng
của chúng.
Ví dụ: Các QN có động từ nói
như: nói tóm lại có thể thay thế
bằng nói ngắn gọn, nói một cách
ngắn gọn,, nói chung, ...

TN có nghĩa khái niệm. Và Nghĩa của phần lớn QN đều là
nghĩa của nó tốt lên từ nghĩa nghĩa chức năng, nghĩa tình
Ngữ

của tồn bộ tổ hợp, khác hơn, thái. Một số QN có tính thành

nghĩa mới hơn so với tổng số nghĩa ngữ thấp, đã bị mờ đi, khơng cịn
của các yếu tố trong tổ hợp. được hiểu là tính thành ngữ. Cách
Như vậy, ở TN, nghĩa thống hiểu QN thường không theo cơ
nhất thành một khối,

có chế ẩn dụ, hốn dụ, so sánh như


tính biểu trưng, tính hình TN mà gắn liền với từng cách
tượng, bóng bẩy về mặt ý dùng của nó.
nghĩa. TN Cá nằm trên thớt
nói lên tình trạng nguy hiểm
có thể de dọa sự sống cịn.
Chức TN mang chức năng định QN khơng có tác dụng định
năng

danh hoặc chức năng miêu tả danh cũng khơng có tác dụng sắc
và biểu thị sự vật hiện tượng, thái hóa sự vật, hoạt động, tính
thuộc tính khách quan một chất, trạng thái mà chủ yếu là để
cách sinh động gợi cảm.

liên kết, chuyển ý, đưa đẩy, rào

Ví dụ: Đàn gảy tai trâu.

đón hoặc nhấn mạnh nội dung

Gan cóc tía.

nào đó cần chuyển đạt.
Ví dụ: khổ nỗi, suy cho cùng,…

1.1.3 Phân loại các quán ngữ tiếng việt
Việc phân loại QN có thể tiến hành theo một số tiêu chí như sau:


- Căn cứ vào kiểu cấu tạo của QN
- Căn cứ vào vị trí ngữ pháp trong câu của QN

- Căn cứ vào mức độ tính cố định và tính thành ngữ của QN
- Căn cứ vào công dụng của QN
- Căn cứ vào phạm vi và tính chất phong cách
Cần nói thêm là mọi sự phân chia chỉ có tính chất tương đối, bởi
ln tồn tại những đơn vị trung gian, đơn vị đa nghĩa, đa chức năng. Sự
phân biệt từ ghép - thành ngữ – QN – ngữ tự do cùng với sự phân loại
QN cũng không ngoại lệ.
Nguyễn Thị Thìn [71] đi sâu vào cách phân loại căn cứ vào cơng
dụng của QN. Theo đó, tác giả đã chia QN thành 4 loại. Chúng tơi có thể
tóm tắt mơ hình sau:
Qn ngữ tiếng Việt

(I)
Qn ngữ
dùng chủ yếu
trong chức
năng NGHĨA
HỌC

(II)
Quán ngữ
dùng chủ yếu
trong chức
năng DỤNG
HỌC

(III)
Quán ngữ
dùng chủ yếu
trong chức

năng LIÊN
KẾT VĂN
BẢN

(IV)
Quán ngữ đa
chức năng

(I) Là những QN thường chỉ là tên gọi bổ sung, không phải là tên
gọi chính thức của hiện thực khách quan được biểu thị như thực từ hay tổ
hợp từ tự do. Những cái tên gọi bổ sung này, trong một số ngữ cảnh cụ
thể, lại tỏ ra đắc dụng hơn là tên gọi chính thức bởi tính có cấu trúc và
tính khẩu ngữ tự nhiên của nó.
Ví dụ: ba xây, ba chống, hai tốt, ba đảm đang, ba sôi hai lạnh, bằng
được, phải lòng,…


(II) Còn gọi là QNTT. Loại QN này khá phong phú về số lượng
cũng như về khả năng thể hiện ý nghĩa tình thái dụng học. Cùng với tình
thái từ, chúng thực sự trở thành loại phương tiện thông dụng và hữu hiệu
nhất trong chức năng dụng học.
Ví dụ: nói bỏ ngồi tai, của đáng tội, cơng bằng mà nói, chả trách
(gì), xem chừng, có lẽ nào, may ra, chưa biết chừng,…
(III) Tuy tần số sử dụng có thấp hơn so với một số loại phương tiện
liên kết khác như quan hệ từ, đại từ nhưng các QN thuộc loại này vẫn
khẳng định được sự cần thiết của mình trong chức năng liên kết văn bản,
bởi khả năng biểu thị những mối quan hệ nghĩa mà những phương tiện
khác không thể thay thế được.
Ví dụ: nhìn chung, trong khi đó, mặt khác, hơn nữa, nói tóm lại, nói
cách khác, trước hết,…

(IV) Những QN thuộc loại đang xét thường là hình thức thể hiện
tổng hợp của một số thành phần nội dung khác nhau: nội dung nghĩa
học, nội dung quan hệ. Với chúng ranh giới giữa phạm trù nghĩa học –
phạm trù dụng học trở nên khơng hồn tồn minh xác.
Ví dụ: biết tay, chi phải, lấy được, hết ý, biết đâu, biết đâu đấy,…
Nhìn chung, tác giả khá tỉ mỉ, chi tiết khi phân ra 4 tiểu loại QN
như trên. Và theo khảo sát chúng tôi, QNTT (QN chủ yếu dùng trong
chức năng dụng học) chiếm đa số (hơn 80%) trong các loại QN. Một số
QNTT cũng đa chức năng; có thể dùng trong cả chức năng ngữ nghĩa
học, dụng học hay liên kết văn bản. Loại QN này gần đây đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Chúng tôi sẽ đi sâu vào đề tài này ở
những chương sau.


1.2. Vấn đề tình thái trong ngơn ngữ học
1.2.1. Khái niệm tình thái trong ngơn ngữ
Trong ngơn ngữ, vấn đề tình thái cũng đã được các nhà nghiên cứu
quan tâm từ rất lâu. Các cơng trình nghiên cứu về tình thái chủ yếu xoay
quanh những nội dung như: phạm trù tình thái, các loại hình tình thái,
những ý nghĩa tình thái được phản ánh trong các ngôn ngữ, các phương
tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái,… Xét về phạm vi ý nghĩa tình thái, các
tác giả có sự khác biệt như:
John Lyons(1977, Semantics) cho rằng tình thái là “thái độ của
người nói đối với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay tính trạng mà
mệnh đề đó miêu tả” (tr.452) và “tình thái đạo nghĩa liên quan đến tính
tất yếu hay tính có thể của hành vi được thực hiện bởi một chủ thể có
trách nhiệm về đạo đức và xem xét tình thái theo nội dung về tính nghĩa
vụ, sự cho phép và cấm đoán” (tr.822, 833).
Theo Palmer (1986, Mood and Modality), tình thái là thơng tin ngữ
nghĩa của câu thể hiện thái độ hay ý kiến của người nói đối với điều

được nói ra và phân biệt tình thái nhận thức với tình thái đạo nghĩa. Theo
ơng “Tình thái nhận thức liên quan đến tính khả năng, tính cần thiết và
mức độ cam kết của người nói đối với điều mà anh ta nói ra (tr.51), tình
thái đạo nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo lí của hành động do
một người nào đó hay do chính người nói thực hiện (tr.96). Cịn quan
niệm về tình thái của Bybee rộng hơn khi ơng cho rằng “tình thái là tất
cả những gì mà người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề”
(tr.385).
Xa hơn là sự nghiên cứu tình thái gắn với lí thuyết hành động ngơn
từ (Theory of Speech acts). Điển hình là J.R Searle. Ơng cho rằng lý
thuyết hành động ngơn từ thích hợp hơn để xem xét những vấn đề về
tình thái vì sự quan tâm đến quan hệ giữa người nói và điều được nói của


×