Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Phương ngữ nam bộ trong văn học dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.98 KB, 142 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đỗ Thị Kiều Oanh

PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đỗ Thị Kiều Oanh

PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số

: 60 22 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HUỲNH THỊ HỒNG HẠNH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012



LỜI CẢM ƠN
------Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn cô Huỳnh Thị Hồng Hạnh đã
dành nhiều thời gian, công sức hướng dẫn tơi trong suốt q trình thực hiện
luận văn.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô Tổ Ngôn Ngữ,
các thầy cô Khoa Ngữ Văn trường Đại học sư phạm TPHCM. Xin cảm ơn
Phòng Sau đại học trường Đại học sư phạm TPHCM.
Cuối cùng tơi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã tận tình góp
ý, giúp đỡ để tơi hồn thành luận văn này.
Tp Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 03 năm 2012
Người viết luận văn

Đỗ Thị Kiều Oanh


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu khảo sát, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa
từng cơng bố ở các cơng trình khác.
Người viết luận văn
Đỗ Thị Kiều Oanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................1
0.1.Lí do chọn đề tài ..........................................................................................1
0.2.Mục đích nghiên cứu ...................................................................................2
0.3.Lịch sử vấn đề .............................................................................................2
0.3.1.Về phương ngữ Nam Bộ .......................................................................2

0.3.2. Về phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian ................................3
0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................6
0.5.Phương pháp nghiên cứu .............................................................................6
0.6.Tư liệu nghiên cứu.......................................................................................6
0.7.Đóng góp của luận văn ................................................................................7
0.8.Bố cục của luận văn.....................................................................................7
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÍ THUYẾT .....................................................................9
1.1 Phương ngữ và phương ngữ Nam Bộ..........................................................9
1.1.1 Khái niệm phương ngữ .........................................................................9
1.1.2 Phân vùng phương ngữ tiếng Việt ......................................................10
1.1.3Phương ngữ Nam Bộ ...........................................................................11
1.1.3.2 Đặc điểm phương ngữ Nam Bộ .......................................................12
1.2 Văn học dân gian Nam Bộ ........................................................................14
1.3.Văn hóa Nam Bộ .......................................................................................16
1.3.1.Văn hóa và các thành tố của văn hóa .................................................16
1.3.2 Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ ....................................................16
1.3.3 Đặc trưng văn hóa Nam Bộ ................................................................18
1.3.4 Những tác động của văn hóa đối với ngơn ngữ và văn học dân gian.20


CHƯƠNG 2.TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN
NAM BỘ.............................................................................................................23
2.1. Kết quả khảo sát .......................................................................................23
2.2. Màu sắc địa phương và đặc trưng văn hóa ...............................................26
2.2.1. Từ ngữ chỉ sự vật, hiện tượng............................................................27
2.2.2. Từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái, tính chất .......................................75
2.2.3. Từ ngữ xưng hơ ................................................................................85
CHƯƠNG 3.NHỮNG HÌNH THỨC BIỂU ĐẠT MANG MÀU SẮC
NAM BỘ.............................................................................................................92
3.1Cách biểu đạt mang màu sắc bình dân, mộc mạc, dí dỏm .........................92

3.2.Cách biểu đạt bằng lối so sánh ................................................................103
3.3.Cách biểu đạt bằng những hình ảnh biểu trưng quen thuộc ....................107
3.4. Cách biểu đạt bằng các biểu thức ngôn ngữ đặc trưng trong ca dao, dân
ca Nam Bộ .....................................................................................................114
KẾT LUẬN ......................................................................................................124
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................127
NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT .................................................................136


1

MỞ ĐẦU
0.1.Lí do chọn đề tài
Về phương ngữ Nam Bộ, từ trước đến nay đã có rất nhiều bài viết, cơng
trình nghiên cứu. Xuất phát từ các góc độ, khuynh hướng và phương pháp
tiếp cận khác nhau, những bài viết, những cơng trình đó đã cung cấp cái nhìn
mới mẻ, tồn diện hơn về phương ngữ Nam Bộ. Có thể thấy, đây là vấn đề
thu hút được đông đảo các nhà ngôn ngữ học - đặc biệt là những nhà nghiên
cứu từng được sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất Nam Bộ. Thế nhưng,
theo chúng tôi, việc khảo sát từ ngữ địa phương trong văn học dân gian Nam
Bộ vẫn có thể bàn luận thêm, nghiên cứu sâu hơn và toàn diện hơn.
Khác với văn học viết, văn học dân gian là văn học truyền miệng, là
sáng tác của tập thể nhân dân lao động. Văn học dân gian phản ánh những gì
gần gũi nhất với con người. Từ ngữ được sử dụng trong các tác phẩm văn học
dân gian phản ánh lối nói của từng địa phương, mang dấu ấn của từng vùng,
từng miền. Nghiên cứu từ ngữ địa phương trên cứ liệu văn học dân gian của
một vùng, miền nào đó khơng chỉ làm sáng tỏ những đặc điểm của từ ngữ
vùng, miền ấy mà còn thấy được nếp sống, nếp nghĩ của người dân nơi đó.
Vì những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài nghiên cứu “Phương ngữ
Nam Bộ trong văn học dân gian” với mong muốn góp phần tìm hiểu thêm nét

đặc sắc của phương ngữ Nam Bộ, của văn hóa Nam Bộ biểu hiện qua văn học
dân gian; phân tích giá trị biểu đạt, hiệu quả biểu đạt của các yếu tố mang tính
địa phương trong văn học dân gian Nam Bộ.


2

0.2.Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài: “Phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian”, người
viết hướng đến những mục đích sau:
- Khảo sát và phân loại các từ ngữ, các cách diễn đạt mang màu sắc địa
phương trong văn học dân gian Nam Bộ
- Miêu tả và phân tích các đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa, giá trị tu từ của
các từ ngữ địa phương, các cách diễn đạt mang màu sắc địa phương trong văn
học dân gian Nam Bộ. Từ đó góp phần làm rõ vai trị của các yếu tố địa
phương trong văn học dân gian Nam Bộ.
0.3.Lịch sử vấn đề
0.3.1.Về phương ngữ Nam Bộ
Phương ngữ là vấn đề được các nhà Việt ngữ học quan tâm từ rất sớm.
Từ những năm 1958 -1959, loạt bài “Tiếng địa phương” của Bình Nguyên
Lộc [39] đăng trên tạp chí Bách khoa nhiều số liền đã sưu tầm và giải thích
tiếng địa phương Nam Bộ. Từ đó đến nay, phương ngữ đã được nghiên cứu
toàn diện hơn, cả về ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp, chức năng văn
hóa - xã hội... Các cơng trình mang tính chất dẫn luận từ vựng học của Đỗ
Hữu Châu [6], Nguyễn Thiện Giáp [18] hay tu từ học của Cù Đình Tú [91]
đều có một phần nói về phương ngữ hoặc từ ngữ địa phương. Trong đó đáng
chú ý nhất là cơng trình
“Phương ngữ học tiếng Việt” của Hồng Thị Châu [9], cơng trình này
đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của phương ngữ học và các vùng
phương ngữ của tiếng Việt.

Về phương ngữ Nam Bộ, ngoài loạt bài của Bình Ngun Lộc như đã
nêu trên, có nhiều cơng trình, bài viết đăng trên các tạp chí chun ngành đề
cập đến vấn đề này từ nhiều góc độ khác nhau.


3

Trong “Tiếng Việt trên các miền đất nước”, tác giả Hồng Thị Châu có
đề cập đến phương ngữ Nam Bộ. Trong đó, tác giả chú ý đặc biệt đến vấn đề
ngữ âm, cụ thể là “dựa vào những phương pháp của ngôn ngữ học và
phương ngữ học để miêu tả, phân tích, giới thiệu với bạn đọc những biến thể
địa phương của tiếng Việt, lí giải các nguyên nhân xã hội và các quy luật biến
đổi ngữ âm đã tạo ra sự đa dạng đó” [8;5-6]. Tác giả cho rằng đây là sự khác
biệt đáng tin cậy và thể hiện lịch sử phát triển của tiếng Việt.
“Phương ngữ Nam Bộ” [33] của Trần Thị Ngọc Lang là cơng trình
khoa học nghiên cứu tương đối toàn diện về phương ngữ Nam Bộ. Trong
cơng trình này, tác giả đã miêu tả, so sánh rất tỉ mỉ và tinh tế sự khác biệt về
từ vựng ngữ nghĩa của phương ngữ Nam Bộ so với phương ngữ Bắc Bộ. Trần
Thị Ngọc Lang cũng là tác giả của nhiều bài báo bàn về đặc điểm cấu tạo ngữ
nghĩa, đặc điểm ngữ pháp, từ láy… của phương ngữ Nam Bộ
[31,32,34,35,36]
Ngồi ra, có thể kể đến một số tác giả như : Hoàng Xuân Phương [61],
Nguyễn Thanh Nhàn [48], Nguyễn Thanh Lợi [40], Nguyễn Thị Hai [20,21],
Lê Trung Hoa [26,27,28] bàn về địa danh Nam Bộ; Cao Xuân Hạo [23],
Nguyễn Hoài Nguyên [47] bàn về đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ;
Hồ Xuân Tuyên [94,95,96,97,98], Huỳnh Cơng Tín [68,69,70,71,72], Nguyễn
Đức Dân [12], Nguyễn Thị Thanh Phượng [62], Nguyễn Kim Thản [76], Mai
Thanh Thắng [78,79], Hoàng Vũ [99] bàn về đặc điểm từ vựng ngữ nghĩa của
phương ngữ Nam Bộ …
0.3.2. Về phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian

Điểm qua lịch sử nghiên cứu, có thể thấy phương ngữ Nam Bộ đã được
nghiên cứu khá toàn diện. Tuy nhiên bàn về phương ngữ Nam Bộ trong văn
học dân gian chỉ có một số bài viết của các tác giả Lê Xuân Bột [4], Trần Văn


4

Nam [45], Bùi Mạnh Nhị [49], Trịnh Sâm [66], Nguyễn Văn Nở [51],
Nguyễn Thế Truyền [88].
Trong bài viết “Ngôn ngữ của người Nam Bộ trong ca dao – dân ca”
[88], tác giả Nguyễn Thế Truyền đã trình bày một cách khá đầy đủ những đặc
trưng của phương ngữ Nam Bộ. Tác giả nhận thấy trong ca dao – dân ca Nam
Bộ đặc biệt rất hay gặp các từ ngữ địa phương và cách phát âm địa phương.
Tác giả đã liệt kê các từ ngữ Nam Bộ xuất hiện trong một số câu ca dao, đồng
thời phân tích màu sắc địa phương của các từ ngữ đó. Tác giả cho rằng từ ngữ
được phản ánh trong ca dao – dân ca phần lớn đều là những từ quan trọng
nhất biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất… rất quen thuộc,
gần gũi trong đời sống của người dân địa phương. Trong khuôn khổ một bài
báo, tác giả chỉ khai thác màu sắc địa phương Nam Bộ ở một số từ ngữ hạn
chế. Tuy nhiên, bài viết đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về ngơn ngữ ca
dao – dân ca Nam Bộ.
Trong bài “Một số đặc điểm ngôn ngữ ca dao – dân ca Nam Bộ” [49],
tác giả Bùi Mạnh Nhị cũng bàn đến từ ngữ địa phương trong ca dao – dân ca
Nam Bộ. Tác giả cho rằng văn học dân gian Nam Bộ là một quá trình hội tụ,
phát huy những truyền thống của ngơn ngữ ca dao – dân ca dân tộc mà cha
ông từ các miền ngồi mang vào, đồng thời đó cũng là kết quả của quá trình
sáng tạo liên tục trước những địi hỏi của cuộc sống mới. Với lập luận đó, tác
giả đi đến khẳng định từ ngữ sử dụng trong ca dao – dân ca Nam Bộ ngoài
những từ ngữ tồn dân cịn có những từ ngữ nảy sinh tại địa phương. Tác giả
đã nêu ra những từ ngữ địa phương phản ánh đời sống tình cảm của nhân dân

trên sơng nước, những từ gọi tên cây trái, những mơtíp quen thuộc… tất cả
đều gắn chặt với cách phát âm, cách nói, với hình ảnh tự nhiên và đời sống
sinh hoạt hằng ngày của người dân Nam Bộ. Từ đó, tác giả nhận thấy ngơn
ngữ, cách nói của ca dao – dân ca Nam Bộ thường biểu hiện ở hai cực. Một


5

cực là nhỏ nhẹ, hiền lành, dễ thương…Cực thứ hai là chất xơng xáo, phóng
túng, trẻ trung. Điều này xuất phát từ hồn cảnh sống, tâm trạng, tính cách,
phong cách sinh hoạt của người dân nơi đây. Người dân Nam Bộ vốn yêu ra
yêu, ghét ra ghét cộng với cách nói thẳng thắn, bộc trực nên mức độ đặc tả
của ngôn ngữ ca dao – dân ca Nam Bộ rất cao. Bên cạnh đó, do khơng bị gị
bó nhiều vào khuôn mẫu của những ước lệ nên văn học dân gian Nam Bộ có
khả năng rộng mở để tạo nên và sử dụng những từ ngữ đầy sáng tạo. Những
đóng góp của tác giả bài viết là rất cần thiết cho những ai muốn nghiên cứu,
tìm hiểu về sắc thái địa phương trong ngôn ngữ ca dao – dân ca Nam Bộ nói
riêng và ngơn ngữ Nam Bộ nói chung.
Mở đầu bài viết “Phương ngữ và ca dao – dân ca địa phương” [66], tác
giả Trịnh Sâm mong muốn mọi người phải tơn trọng ngơn ngữ địa phương
trong q trình sưu tầm, hiệu đính ca dao – dân ca. Bởi vì, theo tác giả, nếu
tìm hiểu ca dao dân ca mà tách rời hồn cảnh sống có nghĩa là tước bỏ đi một
phần tinh hoa vốn có của nó, đồng thời cịn đánh mất một tiên chí nhận diện
xuất xứ cũng như phân loại ca dao – dân ca. Tác giả đã dẫn một số ví dụ cho
thấy sự khác biệt giữa các phương ngữ và giữa phương ngữ với tiếng Việt
tồn dân. Trong đó, tác giả có nêu một số đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ
như hiện tượng vần uân chuyển thành ưa, về thường đọc là dìa, cách phát âm
bùn thành bùng, cách đọc vần úc và út giống nhau… Từ đó, tác giả kết luận:
Phương ngữ Nam Bộ là hệ thống từ ngữ xù xì, ngồn ngộn, đầy sức sống. Bài
viết đã cung cấp những hiểu biết nhất định về phương ngữ, đồng thời còn gợi

ý một số vấn đề nghiên cứu thú vị.
Nhìn chung, hầu hết các bài viết chủ yếu nói đến từ ngữ địa phương
trong ca dao dân ca Nam Bộ, chưa có một cơng trình nào đề cập đến một cách
hệ thống và chi tiết các yếu tố phương ngữ trong văn học dân gian Nam Bộ.
Trước tình hình nghiên cứu như trên, chúng tôi mong muốn luận văn này sẽ


6

bàn đến phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian một cách tồn diện và
có hệ thống, trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của người đi
trước.
0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do đặc điểm của đề tài, trong khuôn khổ của luận văn, chúng tơi khơng
đặt vấn đề tìm hiểu phương ngữ Nam Bộ ở mọi thể loại văn học dân gian mà
chỉ giới hạn tìm hiểu phương ngữ Nam bộ trong các thể loại sau:
- Truyện cười
- Tục ngữ
- Ca dao – dân ca
0.5.Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phối hợp các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để miêu tả cấu
tạo từ ngữ, các cách biểu đạt mang màu sắc địa phương.
- Phương pháp phân tích: Chúng tơi sử dụng phương pháp này để phân
tích đặc trưng ngữ nghĩa, giá trị tu từ của các từ ngữ, các cách diễn đạt mang
màu sắc địa phương được sử dụng trong văn học dân gian Nam Bộ.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: Để làm rõ nét đặc sắc của phương
ngữ Nam Bộ, luận văn có đối chiếu phương ngữ Nam Bộ với ngơn ngữ tồn
dân để thấy được sự khác biệt, nét riêng của từ ngữ, các cách diễn đạt mang

màu sắc địa phương trong văn học dân gian Nam Bộ.
Các phương pháp này có tầm quan trọng như nhau và được vận dụng
xuyên suốt luận văn.
0.6.Tư liệu nghiên cứu
Tài liệu mà chúng tôi sử dụng để khảo sát các yếu tố phương ngữ trong
văn học dân gian Nam Bộ là bộ tài liệu sưu tầm điền dã của Khoa Văn học và


7

Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh. Tài liệu đã được Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố
Hồ Chí Minh xuất bản. Đó là những tuyển tập do Chu Xuân Diên chủ biên:
0. Văn học dân gian Sóc Trăng (2002);
1. Văn học dân gian Bạc Liêu (2005);
Và cuốn Văn học dân gian An Giang (tài liệu sưu tầm điền dã lưu
hành nội bộ, 2010).
0.7.Đóng góp của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài có những ý nghĩa lí luận và thực tiễn như sau:
- Đóng góp vào việc tìm hiểu đặc trưng của phương ngữ Nam Bộ thơng
qua việc tìm hiểu từ ngữ, các cách diễn đạt mang màu sắc địa phương trong
văn học dân gian Nam Bộ
- Thơng qua việc tìm hiểu từ ngữ, cách diễn đạt mang màu sắc địa
phương, góp phần làm rõ đặc trưng của văn học dân gian Nam Bộ
- Đóng góp vào việc tìm hiểu văn hóa Nam Bộ thơng qua việc tìm hiểu
từ ngữ, cách diễn đạt mang màu sắc địa phương trong văn học dân gian Nam
Bộ
- Tập hợp một khối lượng lớn, bao quát hơn về từ ngữ địa phương Nam
Bộ, phục vụ cho việc học tập, giảng dạy, nghiên cứu phương ngữ và văn học
dân gian Nam Bộ

0.8.Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm các nội dung chính như
sau:
Chương một trình bày các cơ sở lí thuyết có liên quan đến đề tài:
phương ngữ, phương ngữ Nam Bộ, văn học dân gian Nam Bộ, mối quan hệ
giữa phương ngữ và văn học, mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa.


8

Chương hai trình bày các vấn đề liên quan đến từ địa phương trong
văn học dân gian Nam Bộ. Thông qua kết quả khảo sát về từ địa phương được
sử dụng trong văn học dân gian Nam Bộ, chúng tôi đi sâu miêu tả đặc điểm
cấu tạo, ngữ nghĩa, giá trị tu từ và đặc điểm văn hóa của từ địa phương trong
văn học dân gian Nam Bộ
Chương ba miêu tả, phân tích giá trị tu từ, đặc trưng văn hóa Nam Bộ
của các cách diễn đạt mang màu sắc địa phương trong văn học dân gian Nam
Bộ.


9

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1 Phương ngữ và phương ngữ Nam Bộ
Phương ngữ là vấn đề được các nhà ngôn ngữ học quan tâm từ lâu. Tuy
nhiên, cho đến nay khi bàn về phương ngữ vẫn còn những quan điểm chưa
thống nhất, đặc biệt là trong các vấn đề như sự phân vùng phương ngữ, vị trí
của phương ngữ trong quan hệ với ngơn ngữ tồn dân, phương ngữ và việc

chuẩn hóa ngơn ngữ. Trong khn khổ luận văn này, chúng tơi khơng đi sâu
bàn bạc những vấn đề đó mà chỉ tập trung vào các khái niệm làm cơ sở để tìm
hiểu phương ngữ Nam Bộ như: khái niệm phương ngữ, sự phân vùng phương
ngữ, đặc trưng của phương ngữ Nam Bộ.
1.1.1 Khái niệm phương ngữ
Theo Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Tồn,
“phương ngữ là hình thức ngơn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp và ngữ
âm riêng biệt được sử dụng ở một phạm vi lãnh thổ hay xã hội hẹp hơn là
ngôn ngữ; là hệ thống kí hiệu và quy tắc kết hợp có nguồn gốc chung với hệ
thống khác được coi là ngơn ngữ (cho tồn dân tộc), các phương ngữ (có
người gọi là tiếng địa phương, phương ngôn) khác nhau trước hết ở cách
phát âm, sau đó là vốn từ vựng” [100;232] . Hoàng Thị Châu định nghĩa
phương ngữ một cách ngắn gọn hơn:
“Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của
ngơn ngữ tồn ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với
ngơn ngữ tồn dân hay với một phương ngữ khác” [8;24]
Ở đây, chúng tôi nhận thấy cần phân biệt ngơn ngữ tồn dân và phương
ngữ. Phương ngữ là biến thể của ngơn ngữ tồn dân. Tuy nhiên, phương ngữ
cũng là một hệ thống hoàn chỉnh riêng của nó chứ khơng phải là “một cái
nhánh tách ra từ thân cây” [8;54] ngơn ngữ tồn dân. Chính vì vậy mà không


10

thể cho rằng ngơn ngữ tồn dân là cái trừu tượng còn phương ngữ là cái cụ
thể, “phương ngữ cũng như ngơn ngữ tồn dân đều có mặt trừu tượng và mặt
cụ thể” [8;54].
1.1.2 Phân vùng phương ngữ tiếng Việt
Phân vùng phương ngữ là vấn đề phức tạp. Có nhiều quan điểm khác
nhau bàn về vấn đề này. Có quan điểm cho rằng tiếng Việt khơng có vùng

phương ngữ nào cả, chỉ có một ngơn ngữ Việt mà thơi; có quan điểm cho rằng
tiếng Việt có hai, ba, bốn hoặc thậm chí là năm vùng phương ngữ. Chúng tơi
sẽ trình bày cụ thể các quan điểm này [ 8;85 - 88]
- Người đưa ra quan điểm không chia vùng phương ngữ tiếng Việt là
S.C.Thomson.
- Các tác giả sau có cùng quan điểm là chia tiếng Việt thành hai vùng
phương ngữ:
+ H. Maspéro, M.V.Gordina và I.S.Bustrov chia phương ngữ
Việt thành phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung (tiếng miền Nam giống
phương ngữ Bắc).
+ Hoàng Phê chia phương ngữ Việt thành tiếng miền Bắc (Hà
Nội), tiếng miền Nam (TP HCM), khu vực giữa là vùng chuyển tiếp.
- Có nhiều nhà nghiên cứu chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ,
trong đó tiêu biểu là Hoàng Thị Châu. Các tác giả này phân chia ranh giới các
vùng phương ngữ như sau: phương ngữ Bắc (Bắc Bộ và Thanh Hóa), phương
ngữ Trung (từ Nghệ An đến Đà Nẵng), phương ngữ Nam (từ Đà Nẵng trở
vào)
- Quan điểm chia tiếng Việt thành bốn vùng phương ngữ có những tác
giả sau:
+ Nguyễn Kim Thản chia phương ngữ Việt thành phương ngữ
Bắc (Bắc Bộ và một phần Thanh Hóa), phương ngữ Trung Bắc (phía nam


11

Thanh Hóa đến Bình Trị Thiên), phương ngữ Trung Nam (từ Quảng Nam đến
Phú Khánh), phương ngữ Nam (từ Thuận Hải trở vào).
+ Nguyễn Văn Ái chia phương ngữ Việt thành phương ngữ Bắc
Bộ (từ các tỉnh biên giới phía Bắc đến Thanh Hóa), phương ngữ Bắc Trung
bộ (từ Quảng Nam – Đà Nẵng đến Thuận Hải), phương ngữ Nam Bộ (từ

Đồng Nai, Sông Bé đến mũi Cà Mau).
- Nguyễn Bạt Tụy chia phương ngữ Việt thành năm vùng phương ngữ:
phương ngữ Bắc (Bắc bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung (từ Nghệ An đến
Quảng Trị), phương ngữ Trung giữa (từ Thừa Thiên đến Quảng Ngãi),
phương ngữ Trung dưới (từ Bình Định đến Bình Tuy), phương ngữ Nam (từ
Bình Tuy trở vào).
Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất với cách phân chia các vùng
phương ngữ tiếng Việt của Nguyễn Văn Ái. Theo đó, vùng phương ngữ Nam
Bộ được xác định trùng với vùng địa lí tự nhiên Nam Bộ, tức là từ Đồng Nai,
Bình Dương, Bình Phước đến mũi Cà Mau.
1.1.3Phương ngữ Nam Bộ
1.1.3.1Xác định vùng phương ngữ Nam Bộ
Vùng phương ngữ Nam bộ được các nhà nghiên cứu quan tâm từ rất
sớm. Tuy nhiên, mỗi nhà nghiên cứu lại có một cách xác định khác nhau.
Hồng Phê gọi tiếng Việt xuất hiện ở vùng địa lí từ Thuận Hải trở vào
là tiếng miền Nam, nơi có Sài Gịn (TP HCM) là trung tâm [57]; Nguyễn Kim
Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu gọi là phương ngữ Nam [77;5169]. Tiếng Việt ở vùng địa lí từ Bình Tuy trở vào được Nguyễn Bạt Tụy gọi là
phương ngữ Nam [93]. Tiếng Việt ở vùng địa lí trải dài từ đèo Hải Vân đến
cực Nam Tổ quốc, Hoàng Thị Châu gọi là phương ngữ Nam [8;90]. Tiếng
Việt ở vùng địa lí từ Quảng Nam trở vào, Cao Xuân Hạo cho là phương ngữ
miền Nam [24;120-121].


12

Từ TK XVII, xuất hiện tiếng Việt ở địa phương Nam Bộ - vùng địa lí
từ Đồng Nai, Sơng Bé đến mũi Cà Mau. Tiếng Việt ở vùng này được Nguyễn
Văn Ái [1;10], Trần Thị Ngọc Lang [33;7], Hồ Lê [38;229-230], Bùi Khánh
Thế [82;77], Cao Xuân Hạo [24;120] gọi là phương ngữ Nam Bộ.
Như vậy, khơng gian địa lí của tiếng miền Nam, phương ngữ Nam

được các tác giả xác định khá rộng. Khơng gian địa lí của phương ngữ Nam
Bộ được xác định hẹp hơn. Ở đây chúng tôi chọn cách xác định vùng phương
ngữ Nam Bộ như sau: Ranh giới phương ngữ Nam bộ trùng với ranh giới địa
lí tự nhiên Nam Bộ, tức là từ Bình Dương, Bình Phước đến Cà Mau.
1.1.3.2 Đặc điểm phương ngữ Nam Bộ
Bất cứ một phương ngữ nào cũng có những nét đặc trưng về ngữ âm, từ
vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp so với các phương ngữ khác. “Một phương ngữ
được xác định bằng một tập hợp những đặc trưng ở nhiều mặt: ngữ âm, ngữ
pháp, từ vựng – ngữ nghĩa đối lập với phương ngữ khác” [8;90]. Phương ngữ
Nam Bộ cũng khơng nằm ngồi quy luật trên.
Trước hết, Nam Bộ là nơi có điều kiện giao thơng thuận tiện. Đồng thời
cũng là nơi phát triển kinh tế hàng hóa sớm hơn các vùng khác của đất nước
nên phương ngữ Nam Bộ đã có ảnh hưởng trên một vùng dân cư rộng lớn.
“Một đặc điểm nổi bật của phương ngữ Nam Bộ là tính thống nhất cao của nó
trên một vùng lãnh thổ rộng lớn” [82;77].
Sau đây, chúng tơi sẽ trình bày một số đặc điểm chính của phương ngữ
Nam Bộ về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp.
- Về ngữ âm:
+ Thanh điệu: Phương ngữ Nam Bộ chỉ sử dụng năm thanh điệu:
ngang, huyền, hỏi, sắc, nặng (Phương ngữ Nam Bộ không phân biệt thanh hỏi
và thanh ngã).


13

+ Phụ âm đầu: Phương ngữ Nam Bộ chỉ có 19 phụ âm, khơng có 3
ụ âm cong lư

ph


+ Vần: Trong phương ngữ Nam Bộ, âm đệm /- w-/ hoặc bị lược bỏ
(luyến  liến) hoặc được nhấn mạnh thành âm chính (loan  lon). Các
ngun âm đơi /ie, , uo/ khi đi với /- m, -p / cuối thì mất yếu tố sau (tiêm
 tim, lượm  l
đều thành /o/

ựm).
/
đứng
Cáctrước
âm đơn
phụ/ âmɔ,cuối /-p, -m /

(nom, nơm  nôm). Âm chính /ă/ trong vần “ay” đọc thành

“ai” (tay  tai).
+ Phụ âm cuối: Người Nam Bộ phát âm không phân biệt /-n/ với /-/
(tan – tang), /- t/ với /-k/ (tắc – tắt).
- Về từ vựng – ngữ nghĩa:
Ngoài những khác biệt về ngữ âm, ở Nam Bộ cịn có rất nhiều từ ngữ
mang sắc thái địa phương dùng để định danh cây cỏ, cầm thú, hoa trái; công
cụ, phương tiện sinh hoạt và lao động; địa hình; từ xưng hô; từ chỉ không
gian, thời gian; từ ngữ liên quan đến sơng nước; tiếng lóng, từ mượn gốc khác
như Khmer, Hoa, Pháp, Anh…
Chúng tơi sẽ trình bày cụ thể hơn về đặc điểm từ vựng – ngữ nghĩa của
phương ngữ Nam Bộ ở chương sau.
- Về ngữ pháp:
Giữa ngôn ngữ tồn dân và phương ngữ về cơ bản khơng khác nhau
nhiều. Chính sự thống nhất về ngữ pháp giữa các phương ngữ với nhau và với
ngơn ngữ tồn dân nên tiếng Việt mới đảm bảo được tính thống nhất trên toàn

quốc. “Khi việc miêu tả chỉ thu hẹp vào ngữ pháp mà thơi thì sự khác nhau
giữa phương ngữ với ngơn ngữ tồn dân thường khơng có gì quan trọng”
[8;21]. Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là khơng có trường hợp khác
nhau. Trong phương ngữ Nam Bộ, có một số đặc điểm ngữ pháp khác với


14

ngơn ngữ tồn dân. Chính những đặc điểm này tạo nên nét riêng của phương
ngữ Nam Bộ. Phần này cũng sẽ được chúng tơi trình bày cụ thể ở những
chương sau.
1.1.3.3 Sự tiếp xúc ngôn ngữ ở Nam Bộ
Trong một xã hội có nhiều cộng đồng người nói nhiều ngơn ngữ khác
nhau cùng sinh sống thì sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ là điều tất yếu. Khi
tiếp xúc sẽ có hiện tượng giao thoa, vay mượn thậm chí là đồng hóa một số
yếu tố giữa các ngơn ngữ.
Trong tiến trình khai phá vùng lãnh thổ phía Nam của Tổ quốc, người
Việt đã mang theo mang theo nét văn hóa, vốn ngơn ngữ từ cội nguồn phía
Bắc đến với vùng đất mới. Do đó, trong phương ngữ Nam Bộ, dấu vết của
tiếng nói c
phương ngữ Bắc Bộ và Nam Bộ thường bị phát âm lẫn lộn thành /s, z, t/.
Ngoài lưu dân từ Bắc Bộ, Trung Bộ, vùng đất Nam Bộ còn là nơi quần
cư của các dân tộc anh em khác như: Khmer, Chăm, Hoa…Vậy nên, trong
phương ngữ Nam Bộ có các yếu tố vay mượn ngơn ngữ của các dân tộc này là
điều dễ hiểu. Khảo sát phương ngữ Nam Bộ, ta sẽ bắt gặp nhiều yếu tố văn
hóa thú vị thể hiện qua cách vay mượn ngơn ngữ của người dân Nam Bộ.
1.2 Văn học dân gian Nam Bộ
Văn học dân gian Nam Bộ có đầy đủ các loại thể như văn học dân gian
các vùng miền khác trên cả nước: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích,
truyện cười, câu đố, tục ngữ, ca dao dân ca. Để thực hiện đề tài, luận văn chỉ

tập trung khảo sát sự thể hiện của phương ngữ Nam Bộ ở các thể loại truyện
cười, tục ngữ, ca dao dân ca. Có thể thấy trong các thể loại mà chúng tơi chọn
để khảo sát, ca dao dân ca là bộ phận có số lượng nhiều nhất. Do vậy, chúng
tơi thấy cần thiết phải trình bày một số nét về ca dao, dân ca và ca dao, dân ca
Nam Bộ.

ội ngu


15

Trong văn học dân gian, ca dao, dân ca là bộ phận được sáng tác bằng
các thể thơ dân tộc kết hợp chặt chẽ với các làn điệu âm nhạc để diễn đạt
những khía cạnh khác nhau trong cảm nghĩ của con người về quê hương đất
nước, lao động sản xuất, tình duyên, gia đình, quan hệ bằng hữu và các vấn đề
xã hội khác.
Về đại thể, ca dao, dân ca có thể chia thành ba bộ phận:
+ Thơ ca nghi lễ: Đây là thể loại sáng tác dân gian có nguồn gốc
rất cổ, nảy sinh trong q trình lao động, sinh hoạt, gắn chặt với thế giới quan
của người nguyên thủy cũng như ý thức tôn giáo ở các giai đoạn sau. Thơ ca
nghi lễ khi diễn xướng sẽ kèm theo các hành động nghi lễ. Loại thơ ca này
phản ánh kinh nghiệm lao động, biểu thị những khát vọng, ước mơ của nhân
dân cũng như tài nghệ sử dụng tiếng mẹ đẻ. Ở Nam Bộ, loại thơ ca này chưa
được sưu tầm nhiều. Trong ngữ liệu khảo sát của chúng tơi chỉ có 3 bài thơ ca
nghi lễ nằm trong tuyển tập văn học dân gian Sóc Trăng.
+ Dân ca lao động: Đây là những bài ca được hò hát trong lao
động với điều kiện là tiết tấu, nhịp điệu, sắc thái biểu cảm, tốc độ, cường độ
và cách thức của nó phải gắn chặt với các quá trình của một cơng việc cụ thể
nào đó. Hị lao động là hình thức chủ yếu của thể loại này.
+ Ca dao – dân ca trữ tình: Đây là những bài ca mà nội dung và

hình thức diễn xướng của nó khơng nhằm mục đích nghi lễ và khơng kèm
những động tác có tính chất nghi lễ. Những bài ca này vẫn được hát trong lao
động, nhưng nội dung cơ bản của nó là nhằm bộc lộ tâm tư tình cảm của nhân
vật trữ tình.
Văn học dân gian sưu tầm ở Nam Bộ thống nhất với văn học dân gian ở
các miền khác của đất nước. Tuy nhiên, văn học dân gian Nam Bộ là bộ phận
sáng tác rất trẻ của dân tộc. Nó gắn liền với q trình khai khẩn vùng đất Nam
Bộ. Vì vậy, những yếu tố đặc trưng ở vùng đất Nam Bộ (điều kiện tự nhiên,


16

văn hóa, con người….) đã ảnh hưởng đến ngơn ngữ văn học dân gian Nam
Bộ.Việc tìm hiểu màu sắc địa phương trong văn học dân gian sẽ chỉ ra nét độc
đáo, sự đóng góp riêng của từng địa phương.
Văn học dân gian là tiếng nói của nhân dân lao động, thế nên bản thân
nó chứa đựng những đặc điểm sử dụng ngơn ngữ của nhân dân. Việc tìm hiểu
phương ngữ trong văn học dân gian của một vùng miền không chỉ giúp ta
nhận thức sâu hơn về ngôn ngữ của vùng miền mà còn giúp ta thấy được nét
đặc trưng, cái hay, cái đẹp của văn học dân gian vùng miền ấy.
1.3.Văn hóa Nam Bộ
1.3.1.Văn hóa và các thành tố của văn hóa
- Khái niệm văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội của mình” [84;25].
- Theo Trần Ngọc Thêm [84;28-29], văn hóa gồm bố thành tố sau: văn
hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng xử với mơi trường tự
nhiên (tận dụng và đối phó với mơi trường) và văn hóa ứng xử với mơi trường
xã hội.

- “Văn hóa vùng là một phạm vi, một khu vực địa lí – văn hóa có đặc
điểm và bản sắc riêng” [81;5]. Như vậy, Nam bộ là một vùng văn hóa.
1.3.2 Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ
Những khám phá khảo cổ học cho chúng ta biết từ xa xưa, ít nhất là
cách nay từ 2500 đến 4000 năm, con người đã có mặt trên vùng đất Nam Bộ.
Họ có mặt đầu tiên ở vùng phù sa cổ (tức là vùng Đơng Nam Bộ) ngày nay,
sau đó mới tiếp tục hành trình xuống vùng phù sa mới (tức là vùng Tây Nam
Bộ ngày nay).


17

Chủ nhân đầu tiên của vùng đất Nam Bộ là người Phù Nam, người
Chân Lạp. Các nhà nghiên cứu cho biết: “Chủ nhân ban đầu của vùng đất
Nam Bộ là người Phù Nam mà sách Tấn thư của Trung Hoa mơ tả là “đen và
xấu xí, tóc quăn, ở trần, đi đất, tính tình mộc mạc, thẳng thắn, khơng trộm
cắp” với hoạt động nông nghiệp và giao thông đường thủy rất phát triển. Rồi
đến TK VI thì Phù Nam nơng nghiệp đã bị người Chân Lạp dương tính hơn
thơn tính” [81;603].
Từ TK XVII trở đi, Nam Bộ xuất hiện người Việt. Người Việt là những
lưu dân từ miền Bắc, miền Trung vào. Đây là những người bần cùng hoặc
muốn tránh cuộc phân tranh Trịnh – Nguyễn lúc bấy giờ mà vào Nam. Họ ra
đi để kiếm sống và cũng mong được an thân. Mặt khác, có một lớp nơng dân
nghèo cũng tiến vào Nam theo chính sách đinh điền của nhà Nguyễn. “Trong
sự nghiệp 300 năm mở mang, khai phá vùng lãnh thổ phía Nam của đất nước,
lớp lớp thế hệ người Việt từ vùng đất sinh tụ lâu đời của mình là vùng châu
thổ sơng Hồng, sơng Mã và dải đất ven biển miền Trung đã nối tiếp nhau đến
lập nghiệp ngày càng đông tại địa bàn Nam Bộ ngày nay” [38;3]. Ngồi ra,
thời kì này cịn có lính tráng, các tội đồ bị triều đình bắt buộc vào Nam lập
đồn điền, bảo vệ biên cương phía Nam của đất nước.

Những người dân nghèo này chinh phục vùng đất phía Nam bằng bàn
tay, bằng khối óc, bằng sự cần cù, chăm chỉ: “Nam Kì được chinh phục khơng
phải bằng thanh gươm, vó ngựa mỗi ngày đi hàng chục dặm mà bằng lưỡi
cày, đôi trâu đi từng bước một” [50;60].
TK XVII, XVIII, người Hoa từ các tỉnh Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng
Đơng, Quảng Tây, Hải Nam (Trung Quốc) dắt díu nhau vào khu vực đồng
bằng sông Cửu Long lập nghiệp. Cả người Pháp, Anh, Mã Lai, Ấn Độ cũng
có mặt ở Nam Bộ.


18

TK XIX, lưu dân Việt có mặt ngày càng đơng ở phía Nam sơng Hậu.
Họ đã chinh phục vùng đất mới, biến một vùng hoang dại thành vùng đất trù
phú, cây trái sum sê.
Tóm lại, Nam Bộ là nơi quần cư của nhiều dân tộc anh em: người Việt,
người Hoa, người Chăm, người Khmer…Lớp dân cư đông nhất là người Việt.
Nơi tập trung đông nhất của họ là những vùng đất dễ làm, có nước ngọt, thuận
lợi cho việc trồng lúa nước. Người Khmer là dân tộc đông thứ hai ở Nam Bộ.
Họ thường định cư, canh tác trên những vùng đất cao, màu mỡ. Các dân tộc
lập làng, dựng nhà cạnh nhau, đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau trong cuộc
sống . Tuy nhiên, dân tộc nào theo phong tục của dân tộc đó, tuy có ảnh
hưởng lẫn nhau nhưng khơng nhiều.
1.3.3 Đặc trưng văn hóa Nam Bộ
Khi tiến vào vùng đất phía Nam, người Việt đã mang theo mình một
nền văn hóa Việt. Trước điều kiện sống mới, con người đã có những cách ứng
xử mới cho phù hợp. Chính vì vậy mà văn hóa Việt truyền thống đã được
người Việt ở phương Nam vận dụng linh hoạt hơn. Từ đó, hình thành một
vùng văn hóa Nam Bộ có bản sắc riêng, làm phong phú cho nền văn hóa Việt
Nam nói chung.

Có thể phác thảo vài nét đặc trưng về văn hóa Nam Bộ như sau: “Vùng
văn hóa Nam Bộ có hai tiểu vùng: Đơng Nam Bộ (lưu vực sơng Đồng Nai và
sơng Sài Gịn) và Tây Nam Bộ (lưu vực sơng Cửu Long), với khí hậu hai mùa
(mưa – khô), với mênh mông sông nước và kênh rạch. Các cư dân Việt,
Chăm, Hoa tới khai phá đã nhanh chóng hịa nhập với thiên nhiên và cuộc
sống của cư dân bản địa (Khmer, Mạ, Stiêng, Chơro, Mnông). Nhà ở có
khuynh hướng trải dài ven kênh, ven lộ; bữa ăn giàu thủy sản; tính cách con
người ưa phóng khống; tín ngưỡng, tơn giáo hết sức phong phú và đa dạng;


19

sớm tiếp cận và đi đầu trong quá trình giao lưu hội nhập với văn hóa phương
Tây…”[84;63].
Trong cách ứng xử với tự nhiên, người Việt ở Nam bộ vẫn giữ được
nếp sống hịa hợp và tơn trọng. Sinh hoạt và sản xuất ở Nam bộ luôn gắn với
những thay đổi, biến động của con nước, của dịng sơng và thủy triều. Những
biểu hiện của văn minh sông nước thể hiện rõ trong phương thức lao động,
trong nhịp sống sinh hoạt, trong tín ngưỡng, trong phong tục và ngơn ngữ.
Trong lối ứng xử xã hội, người Việt phương Nam vẫn giữ được sự
mềm dẻo, hiền hịa của con người gốc nơng nghiệp. Họ thích ứng với mơi
trường linh hoạt hơn, ít câu nệ, thiết lập những quan hệ được quy định bởi
điều kiện sống. Làng Nam Bộ “ở tản ra dọc theo những con kênh, con lộ để
tiện làm ăn”, “làng xã Nam Bộ khơng có những thiết chế q chặt chẽ (nhiều
làng khơng có hương ước, thần tích, thần phả)” [84;198]. Thơn ấp thuở ban
đầu có đặc điểm là “dễ hợp dễ tan”. Những người tứ phương đến lập làng lập
ấp, thấy làm ăn khó thì lại tìm nơi khác. Do đó, “thành phần dân cư Nam Bộ
thường hay biến động, người dân không bị gắn chặt với quê hương như ở
làng Bắc Bộ” [84;198].
Tính cách con người Nam Bộ là sự biểu hiện của con người Việt Nam

trong những hồn cảnh tự nhiên và xã hội nhất định. Đó là đức cần cù, là sự
đoàn kết giúp đỡ thương yêu nhau. “Dù làm ăn dễ dãi, người nông dân Nam
Bộ vẫn giữ nếp cần cù. Dù kinh tế hàng hóa phát triển, người Việt ở Nam Bộ
vẫn coi trọng tính cộng đồng” [84;199]. Đặt chân đến vùng đất mới, những
lưu dân đã nhanh chóng kết thành chịm xóm. Họ dựa vào nhau làm ăn, sinh
sống, chống lại thú dữ, chống lại cường hào ác bá… Người Nam Bộ can
trường, gan góc, khơng lùi bước trước bất kì trở ngại nào của tự nhiên cũng
như những bất cơng, vơ lí của xã hội.


×