Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Công tác quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp của sinh viên học theo hệ tín chỉ tại trường cao đẳng nghề sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.58 KB, 102 trang )

THƯ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN
------------------------

Huỳnh Kim Thủy Tiên

CƠNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NGỒI GIỜ LÊN LỚP CỦA SINH VIÊN
HỌC THEO HỆ TÍN CHỈ TẠI TRƯỜNG
CAO ĐẲNG NGHỀ SÀI GÒN

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ chí Minh - 2010


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Võ Văn Nam, trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh đã tận tình hướng dẫn tơi hồn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn tất cả quý Thầy Cơ giảng viên lớp Cao học Quản lý Giáo dục
Khóa 18 đã hướng dẫn tơi trong q trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Tâm lý giáo dục, Phòng Khoa học Công
nghệ & Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho học


viên học tập tốt.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, cán bộ quản lý, cán bộ Đoàn Thanh niên, và
sinh viên trường Cao đẳng nghề Sài Gòn đã tạo điều kiện cho tơi học tập, nghiên cứu và
đóng góp ý kiến trong thời gian tôi tiến hành thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các anh chị lớp Cao học Quản lý Giáo dục Khóa 18 đã gắn bó,
chia sẻ kinh nghiệm học tập và làm việc.
Xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã hỗ trợ và tạo điều kiện cho
tơi hồn thành luận văn này.

Huỳnh Kim Thủy Tiên


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là hình thức đào tạo tiên tiến và phổ biến, được áp
dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, các trường cao đẳng, đại
học tại Việt Nam đa số vẫn còn sử dụng hình thức đào tạo niên chế. Để áp dụng và chuyển
đổi sang hệ đào tạo tín chỉ, Bộ GD&ĐT đã ra những quyết định và quy chế cụ thể để các
trường có thể thực hiện: Quyết định số 31/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 về việc thí
điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy
theo học chế tín chỉ; Quyết định số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/8/2007 về việc ban hành
“Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo theo
tín chỉ.”
Hình thức đào tạo theo tín chỉ có những ưu điểm nhất định như giúp sinh viên
(SV) chủ động trong việc lựa chọn kiến thức, môn học và thời gian cho phù hợp với năng lực
và điều kiện của mình nhưng cũng có những hạn chế nhất định trong việc tổ chức quản lý
các hoạt động ngoài giờ lên lớp (HĐNGLL) của SV. Luật Giáo Dục đề cập rất rõ “Mục tiêu
giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo
nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với
thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.” Do đó,
ngồi việc học kiến thức ở nhà trường, SV còn phải được tham gia các hoạt động khác nhằm
phát triển tồn diện nhân cách của mình. Trường Cao đẳng Nghề Sài Gịn đã áp dụng hình
thức đào tạo theo tín chỉ ngay từ lúc thành lập trường (2001) nên khơng gặp khó khăn trong
việc chuyển đổi từ hệ niên chế sang hệ thống tín chỉ. Tuy nhiên, ngồi những ưu điểm đặc
trưng của hình thức đào tạo tín chỉ, cịn có những mặt hạn chế mà trường đang gặp phải, đó
là SV ít có cơ hội tham gia các hoạt động của trường, từ đó dẫn đến việc ít gắn bó với trường
và khơng phát triển hồn tồn các năng lực của mình.
Ngồi ra, việc quản lý các HĐNGLL của SV học theo hệ tín chỉ cịn chưa được
quan tâm đúng mức nên SV tổ chức các hoạt động này một cách tự phát, số lượng SV tham


gia chưa nhiều, và nhà trường chưa đánh giá được các hoạt động này mang lại lợi ích như thế
nào cho SV.
Từ những lý do trên, đề tài “Công tác quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp của
sinh viên học theo hệ tín chỉ tại trường Cao đẳng Nghề Sài Gòn” được tác giả chọn làm
đề tài luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát thực trạng quản lý HĐNGLL của SV học theo hệ tín chỉ tại
trường Cao đẳng nghề Sài Gòn, đề tài xây dựng mơ hình quản lý hoạt động này.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể
HĐNGLL của SV trường Cao đẳng Nghề Sài Gịn học theo hệ thống tín chỉ.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý HĐNGLL của SV trường Cao đẳng Nghề Sài Gịn học theo hệ
tín chỉ.
4. Giả thuyết khoa học
HĐNGLL của SV trường Cao đẳng Nghề Sài Gịn học theo hệ tín chỉ cịn chưa được

quản lý chặt chẽ và có hệ thống. Do đó cần phải xây dựng mơ hình quản lý phù hợp các hoạt
động này với nội dung phong phú, hấp dẫn để mang lại lợi ích thiết thực cho SV trong việc
rèn luyện tay nghề cũng như kỹ năng sống.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát cơ sở lý luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát thực trạng quản lý HĐNGLL của SV trường Cao đẳng nghề Sài Gòn học
theo hệ tín chỉ.
- Xây dựng mơ hình quản lý phù hợp.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Các quan điểm phương pháp luận được vận dụng ở đề tài này là:
6.1.1 Quan điểm hệ thống – cấu trúc


6.1.2 Quan điểm logic – lịch sử
6.1.3 Quan điểm thực tiễn
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Phân tích, tổng hợp lý luận từ các tài liệu liên quan, khái quát lý luận, mô hình
hóa.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu:
+ Mục đích điều tra: Thu thập số liệu, tư liệu và ý kiến về thực trạng công tác
quản lý các HĐNGLL và ý kiến đóng góp.
+ Nội dung điều tra:
- Thực trạng công tác quản lý các HĐNGLL.
- Nguyên nhân của thực trạng.
- Ý kiến đóng góp
+ Mẫu nghiên cứu (449 SV)
SV trường Cao đẳng Nghề Sài Gịn học theo hệ tín chỉ.

6.2.2.2. Phương pháp quan sát: quan sát cơng tác quản lý HĐNGLL của SV.
Có ghi chép kết quả quan sát.
6.2.2.3. Phương pháp phỏng vấn: đối tượng phỏng vấn là lãnh đạo, cán bộ
quản lý, giảng viên, SV.
6.2.2.4. Phương pháp chuyên gia: gặp gỡ và trò chuyện hoặc bằng phiếu hỏi
mở các vấn đề về quản lí HĐNGLL đối với các chuyên gia nghiên cứu sâu về vấn đề này
hoặc các nhà quản lý có nhiều kinh nghiệm.
6.2.2.5. Phuơng pháp nghiên cứu sản phẩm: Bài thi, kiểm tra của SV, nhật
ký, thư từ, cách SV sử dụng thời gian rảnh (tự quản lý hoạt động cá nhân)…
6.2.3. Các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác
Phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS for Win phiên
bản 13.0.


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NGOÀI GIỜ LÊN LỚP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ SÀI GÒN
1.1 . Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 . Ở nước ngoài
C.Mác và F.Ăngghen khi đề ra tư tưởng phát triển toàn diện con người đã nhấn mạnh
tính nhân văn cao cả và chỉ rõ rằng mỗi người hiển nhiên có quyền phát huy đầy đủ năng lực
của mình, đặt nhiệm vụ tạo ra những điều kiện như nhau cho tất cả mọi người, trong đó tài
năng, năng lực của mỗi người có khả năng bộ lộ và phát huy. Sự phát triển toàn diện là sự
thống nhất giữa giáo dục trí tuệ và phát triển thể lực, kết hợp với giáo dục kỹ thuật và sự
tham gia của thanh niên vào hoạt động lao động thực tiễn. [1, tr.79]
Anton Semenovych Makarenko – nhà sư phạm nổi tiếng của nước Nga đầu thế kỷ XX,
đã nói: “Tơi kiên trì nói rằng các vấn đề giáo dục, phương pháp giáo dục không thể hạn chế
trong các vấn đề giảng dạy, lại càng không thể để cho quá trình giáo dục chỉ thực hiện trên
lớp học mà đáng ra phải là trên mỗi mét vuông của đất nước ta… Nghĩa là trong bất kỳ hoàn
cảnh nào cũng không được quan niệm rằng công tác giáo dục chỉ được tiến hành trong lớp.”

[3, tr 63]
Các HĐNGLL xuất hiện đầu tiên ở các trường đại học Mỹ vào thế kỷ 19. SV có thể
làm việc ở phịng thí nghiệm hay thực tập nghề nghiệp. Những hoạt động đầu tiên là các hội
văn chương của SV bắt nguồn từ đại học Harvard và Yale như các câu lạc bộ hùng biện.
Các hội văn chương giảm dần khi chuyển qua thế kỷ 21, và nhiều nhà giáo dục cảm thấy
rằng càng ngày càng có ít hoạt động có thể lơi cuốn SV tham gia. Sau đó, SV tổ chức các
chương trình thể thao giữa các trường và các hoạt động thi đấu thể thao liên trường đã nhanh
chóng trở nên thành phần nổi bật trong hầu hết các hoạt động khác ở các trường trung học và
đại học ở Mỹ.
Theo tạp chí nghiên cứu American Eduational Research Journal, 20, 277-304, 1993,
và Journal of Higher Education, 66, 123-155, 1995, Kuh, G.D. cho rằng HĐNGLL có tác
động nhiều đến năng lực cá nhân, nhận thức, kiến thức, kỹ năng học thuật, kỹ năng thực


hành, lòng vị tha và khiếu thẩm mỹ của SV. Sự tương tác với bạn học và trách nhiệm lãnh
đạo là điều thường xuyên diễn ra trong các hoạt động này.[37]
Theo Kuh, G.D., Douglas, K.B., Lund, J.P., & Ramin-Gyurnek, J. (1994), các điều
kiện xác định nên môi trường tốt cho HĐNGLL là các mục tiêu giáo dục được nêu rõ ràng,
chặt chẽ, nhất quán; triết lý của trường có cả quan điểm phát triển tài năng; các chính sách và
hoạt động của trường phù hợp với các đặc điểm và nhu cầu SV; nhà trường thể hiện sự
mong đợi cao và rõ ràng đối với sự tham gia của SV; nhà trường sử dụng các phương pháp
dạy học hiệu quả; sự đánh giá có hệ thống các hoạt động của trường và sự thể hiện của SV,
SV có nhiều cơ hội phong phú để tham gia vào HĐNGLL có mục đích giáo dục; đạo đức
của các thành viên và các mối quan tâm, và những nét đặc biệt của việc học trong các lĩnh
vực của nhà trường. [37]
Ở Úc đã có nghiên cứu của Hamilton G, Cross D, Resnicow K, Hall M. (2004 – 2006)
về lợi ích của việc tham gia hoạt động ngoài giờ lên lớp của học sinh đối với việc làm giảm
đáng kể sự hút thuốc tràn lan, sử dụng ma túy, và gia tăng trạng thái sức khỏe tinh thần cũng
như sự tiến bộ trong học tập. [33]
Đại hội đồng lần thứ 27 của UNESCO (tháng 11/1993) nêu quan niệm vai trị của giáo

dục trong cơng cuộc phát triển con người, phát triển đất nước, phát triển nhân loại trong thời
đại mới là giáo dục không phải chỉ là tích tụ tri thức mà cịn là thức tỉnh tiềm năng sáng tạo
to lớn trong mỗi người, cho phép tất cả chúng ta phát triển tất cả tiềm năng, đóng góp tốt hơn
cho xã hội.


1.1.2 . Ở Việt Nam
Trong Bài nói tại buổi lễ Khai mạc Trường ĐH Nhân dân Việt nam, ngày 19/1/1955,
Hồ Chí Minh đã nói: “Trường Đại học, gia đình và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ
trong việc giáo dục thanh niên. Thanh niên phải chuyên tâm đi học và cơng tác, cũng cần có
vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên… Trong vui
chơi cũng có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn hóa, thể dục có tính chất tập thể và
quần chúng. Trường học, gia đình, đoàn thể thanh niên cần chú ý giáo dục tư tưởng, thái
độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của thanh niên, để kịp thời uốn nắn, sửa chữa.”[16,
tr.123]
Hồ Chí Minh xác định: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt:
đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất
thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên.” Phương châm
giáo dục thế hệ trẻ của Hồ Chí Minh là “Học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với xã hội”.
Trong Huấn thị tại Đại hội SV lần thứ II, ngày 7/5/1958, Hồ Chí Minh đã nói: “Lao động trí
óc mà không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà khơng biết thực hành thì cũng là trí thức
có một nửa. Vì vậy, cho nên các cháu lúc học về lý luận thì cũng phải kết hợp với thực hành
và tất cả các ngành khác đều phải: Lý luận kết hợp với thực hành; Học tập kết hợp với lao
động.” [16, tr.137] Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần,
cịn cần có sự giáo dục ngồi xã hội, trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà
trường được tốt hơn”. Ngày 31/10/1955 khi miền Bắc đã giải phóng, Hồ Chí Minh viết:
“Tơi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và
khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân
dân”..
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2010 – 2020 đã nêu rõ quan điểm giáo dục:

“Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp
phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong bối cảnh tồn cầu hóa, đồng thời
tạo lập nền tảng và động lực cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục và đào tạo
phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung
thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng
nghề nghiệp để làm việc hiệu quả trong mơi trường tồn cầu hóa vừa hợp tác vừa cạnh
tranh. Điều này đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản về giáo dục từ nội dung, phương


pháp dạy học đến việc xây dựng những môi trường giáo dục lành mạnh và thuận lợi, giúp
người học có thể chủ động, tích cực, kiến tạo kiến thức, phát triển kỹ năng và vận dụng
những điều đã học vào cuộc sống. Bên cạnh đó, giáo dục khơng chỉ nhằm mục đích tạo nên
những “cỗ máy lao động”. Thơng qua các hoạt động giáo dục, các giá trị văn hóa tốt đẹp
cần được phát triển ở người học, giúp người học hồn thiện tố chất cá nhân, phát triển hài
hịa các mặt trí, đức, thể, mỹ. Nội dung, phương pháp và mơi trường giáo dục phải góp phần
duy trì, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam”
Bộ Giáo dục và Đào tạo và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ban hành Nghị
quyết Liên tịch về “Tăng cường cơng tác giáo dục tồn diện học sinh, SV và xây dựng tổ
chức Đoàn, Hội, Đội trong nhà trường giai đoạn 2008 - 2012”. Nội dung bao gồm việc: Tăng
cường cơng tác giáo dục tồn diện cho học sinh, SV; Chỉ đạo phong trào học tập, nghiên cứu
khoa học, rèn luyện tay nghề, nghiệp vụ trong học sinh, SV; Tổ chức các hoạt động đồng
hành, hỗ trợ học sinh, SV; Đẩy mạnh các hoạt động xã hội, nhân đạo, phong trào tình nguyện
trong học sinh, SV; Tăng cường xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong nhà trường.
Thành Đoàn TPHCM xác định: “Phải đổi mới và tổ chức đa dạng các hoạt động đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt, rèn luyện kỹ năng dã ngoại của thanh thiếu niên; tăng cường các hoạt
động huấn luyện, qua đó trang bị cho thanh thiếu niên kiến thức và kỹ năng cá nhân để sống
độc lập và làm việc tập thể hiệu quả. Theo đó Đồn sẽ tổ chức các sân chơi, các lớp huấn
luyện, trại kỹ năng sinh hoạt dã ngoại cho thanh thiếu niên thành phố. Đồn cịn phát động
phong trào “Học từ thiên nhiên” dành cho thiếu nhi, khôi phục hình thức tổ chức sinh hoạt
ngồi trời, tận dụng và khai thác triệt để các công viên, khu sinh thái cho các hoạt động dã

ngoại và học ngoại khoá.
Hội thảo “Hiệu quả của hoạt động ngoại khóa đối với việc nâng cao chất lượng dạy
và học trong nhà trường phổ thông” ngày 10/10/2007 do Trường ĐHSP TP.HCM và Trung
tâm Đánh giá và Kiểm định Chất lượng thuộc Viện Nghiên Cứu Giáo Dục tổ chức. Nội dung
hội thảo xoay quanh vấn đề: 1) Thực trạng của hoạt động ngoại khóa trong nhà trường phổ
thông hiện nay; 2) Hiệu quả của hoạt động ngoại khóa trong nhà trường phổ thơng đối với
việc dạy – học các môn học ở bậc phổ thông; 3) Những bài học kinh nghiệm từ nhà trường
về hoạt động ngoại khóa; 4) Những đề xuất và ý kiến khác liên quan đến nội dung hoạt động
ngoại khóa trong nhà trường phổ thông.


Ngoài ra, hầu hết các đề tài nghiên cứu về hoạt động ngoài giờ lên lớp đều nghiên
cứu ở các trường phổ thông như:
- Luận văn “Các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp của Hiệu trưởng các trường THPT các tỉnh phía Nam”, tác giả Nguyễn Thị
Hồng Trâm, năm 2003.
- Luận văn “Thực trạng việc quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các
trường trung học cơ sở bán công TP.HCM”, tác giả Trần Thị Minh Thi, năm 2005.
- Luận văn “Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của Hiệu
trưởng các trường THPT Huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây trong giai đoạn hiện nay, tác giả
Nguyễn Như Ý, năm 2005.
- Luận văn “Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của Hiệu
trưởng các trường trung học phổ thông tỉnh Đồng Tháp”, tác giả Nguyễn Đức Điền, năm
2007.
- Luận văn “Thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
của Hiệu trưởng ở các trường THPT huyện Trảng Bàng Tỉnh Tây Ninh”, tác giả Phan Thị
Hiền, năm 2008.
Các đề tài trên chỉ nghiên cứu tập trung ở các trường phổ thông, chưa có đề tài nghiên
cứu ở trường cao đẳng đại học học theo hệ tín chỉ. Chính vì vậy tác giả đã chọn đề tài đề tài
“Công tác quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp của sinh viên học theo hệ tín chỉ tại

trường Cao đẳng Nghề Sài Gịn” làm đề tài nghiên cứu, nhằm bổ sung một lĩnh vực quan
trọng cịn bỏ trống đó.
1.2 . Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Hệ thống tín chỉ và đặc điểm
Hệ thống đào tạo theo tín chỉ hay cịn gọi là hệ thống phân chia/tích lũy học phần bắt
nguồn từ nước Mỹ và đã trở thành phổ biến như một đơn vị đo lường quá trình học tập trong
giáo dục Mỹ và các nước khác, trong đó có Việt Nam. Hệ thống tín chỉ Mỹ là một cơ cấu
quản lý đơn giản để tính tốn q trình học tập của SV cho đến lúc tốt nghiệp. Trong thực tế,
hệ thống tín chỉ là một kết quả tất yếu của việc biến đổi một cách cơ bản nhiệm vụ của
trường đại học cũng như mối quan hệ giữa trường đại học và SV.


1.2.1.1. Lịch sử của hệ thống tín chỉ của Mỹ
Trong thế kỷ XIX giáo dục đại học Mỹ vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc truyền thống giáo
dục cổ điển: SV được đào tạo theo một chương trình cứng nhắc gồm tồn những mơn bắt
buộc. Hệ thống này bị chỉ trích là thiếu sự linh hoạt khiến nó khơng thể đáp ứng nguyện
vọng của SV cũng như những đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế, và tạo ra một chất lượng
giảng dạy thấp. Một chương trình được quy định cứng nhắc như vậy không cho phép thực
hiện những bộ môn nâng cao để thích hợp với những SV xuất sắc, với đào tạo liên ngành,
hoặc tạo ra một mối liên hệ mạnh mẽ hơn giữa giảng dạy và nghiên cứu. Năm 1885, hiệu
trưởng Trường Đại học Harvard Charles Elliot đã tóm tắt những ý kiến phê phán này và nêu
ra những ưu điểm của hệ thống tín chỉ như sau: " Tất cả mọi thứ trong chương trình đào tạo
được quy định đều là cần thiết và cơ bản từ đầu đến cuối... Khơng thể thực hiện cái gì khác
ngồi những gì đã được quy định, khơng một giáo sư nào dù tha thiết với chun mơn và
nhiệt tình đến đâu có thể có những học trị xuất sắc, khơng có giáo sư hoặc SV nào dù đầy
tiềm năng và khao khát tri thức đến đâu có thể đạt được những thành tựu nghiêm túc trong
bộ mơn của mình. Trong hệ thống tự chọn, phần lớn SV có thể dùng quyền tự do của mình
để theo đuổi những bộ mơn mà mình quan tâm và có được một bằng cấp phù hợp. Năng lực
tập trung này có được nhờ sự phát triển chuyên sâu vào một lãnh vực hẹp, và kết quả là trình
độ kiến thức sẽ được nâng cao.” [41]

Ở Mỹ, Trường Đại học Harvard là nơi đầu tiên cho phép SV có được chút ít quyền
lựa chọn trong một số mơn nhiệm ý. Trước hết SV được tồn quyền chọn mơn học trong
năm cuối, sau đó quyền này được mở rộng cho năm thứ ba, năm thứ hai, và phần lớn năm
thứ nhất. Trong vòng một thập kỷ, hệ thống tự chọn môn học của Đại học Harvard đã được
học tập và vận dụng trong các trường đại học khác trên tồn nước Mỹ.
Việc chuyển đổi chương trình đào tạo từ bắt buộc sang tự chọn lập tức đòi hỏi phải
tạo ra một hệ thống quản lý để theo dõi quá trình học tập của SV cho đến khi tốt nghiệp. Đơn
vị đầu tiên để đo lường là bản thân các môn học, đặc biệt là thời gian tiếp xúc giữa giảng
viên và SV. Bằng cử nhân dựa trên sự kết hợp của các môn bắt buộc và môn tự chọn. Với tư
cách một công cụ quản lý, hệ thống tín chỉ nhanh chóng được xem là một phương tiện quan
trọng trong việc xác định những nhân tố có liên quan, chẳng hạn có thể tính học phí cho SV
dựa trên số tín chỉ đăng ký, có thể tính lương cho giảng viên dựa trên số giờ/tín chỉ đã dạy,


có thể xác định tính chất chun ngành của chương trình học dựa trên số tín chỉ bắt buộc.
[41]
1.2.1.2. Định nghĩa tín chỉ
Tín chỉ là đơn vị đo lường giá trị và thời gian đầu tư cho việc hoàn tất mơn học. Tín
chỉ được tính bởi đơn vị giờ tín chỉ. Một giờ tín chỉ tương đương với 16 giờ lên lớp/học kỳ.
Hầu hết các môn đều được học 3 giờ/tuần và kéo dài 16 tuần/học kỳ; do vậy, SV sẽ có 3 giờ
tín chỉ khi hồn tất mơn học. Có một số mơn thực hành 4 tín chỉ, SV sẽ học 6 giờ/tuần và kéo
dài 16 tuần. Trong học kỳ Mùa Hè, hầu hết các lớp đều được học 5 giờ/tuần và kéo dài 10
tuần.
1.2.1.3. Đặc điểm của việc học và quản lý theo hệ thống tín chỉ
- Thời gian tự học nhiều gấp hai lần học trên lớp: Muốn học tốt một mơn học theo tín
chỉ, một giờ học trên lớp cần ít nhất hai giờ học ở nhà để chuẩn bị bài và làm bài tập cho một
giờ học đó. Nếu số tín chỉ tăng thì lượng bài tập ở nhà cũng tăng. Để được xem như là SV
tồn thời gian thì ít nhất phải đăng ký học 12 tín chỉ/học kỳ. Nghĩa là SV học 12 giờ/tuần
trên lớp và thêm vào ít nhất 24 giờ/tuần tự học ở nhà.
- Thời gian học trên lớp linh động theo khả năng của SV: Nếu như trong đào tạo theo

niên chế, SV phải học theo đúng kế hoạch học tập cả khóa, kế hoạch học tập từng học kỳ của
nhà trường thì trong đào tạo theo tín chỉ SV hồn tồn quyết định kế hoạch học tập cả khóa
và từng học kỳ cho phù hợp với năng lực học tập và hồn cảnh cụ thể của mình. Kế hoạch
mà nhà trường đưa ra trong thời khóa biểu của từng học kỳ là kế hoạch gợi ý tiêu chuẩn để
SV có thể tốt nghiệp trong thời gian tốt thiểu (thí dụ: 3 năm đối với các ngành học ở trường
Cao đẳng nghề Sài Gịn). Tuy nhiên, SV có thể tự quyết định kế hoạch học tập để tốt nghiệp
sớm hơn hoặc muộn hơn hoặc học lâu hơn để có bằng tốt nghiệp loại khá hoặc giỏi. Do đó,
có những SV, vì những lý do nào đó, có thể nghỉ bảo lưu 1 hoặc 2 học kỳ liên tục rồi quay
trở lại học tiếp.
- Các tín chỉ có tính liên thơng: Chính hệ thống dựa trên tín chỉ này đã tạo nên khả
năng chuyển tiếp giữa các ngành học hoặc giữa các trường. Văn bằng được cấp dựa trên sự
tích lũy tín chỉ các mơn đại cương, các mơn chun ngành chính và các mơn tự chọn. Nếu
SV thiếu quan tâm đến việc học, hoặc nếu nhà trường hứa hẹn với SV nhiều hơn thực tế thì


SV có thể giữ các tín chỉ đã đạt được để chuyển sang trường khác mà khơng bị mất tín chỉ.
Điều này duy trì được khả năng lấy được văn bằng của SV. [21, tr.49]
- Quản lý thuận lợi hơn: Đối với SV: Hệ thống tín chỉ cho phép thực hiện nội dung đào
tạo linh hoạt. SV được quyền thay đổi chuyên ngành, chương trình học, chuyển từ trường
này sang trường khác thơng qua hệ thống chuyển đổi tín chỉ. Họ có thể đo lường tiến độ học
tập của mình. Đối với giảng viên: Hệ thống tín chỉ cung cấp một thước đo cho năng suất lao
động của giảng viên. Nếu một giảng viên phụ trách bốn lớp khác nhau mỗi tuần, mỗi lớp 3
giờ, tức là đã thực hiện một khối lượng công việc 12 giờ. Năng suất lao động của giảng viên
cũng có thể đo lường thêm bằng cách nhân khối lượng công việc với số lượng SV mỗi lớp để
tính ra đóng góp của giảng viên đối với nhà trường. Các khoản bù đắp có thể tính tốn trực
tiếp dựa trên năng suất lao động tính theo đơn vị giờ lên lớp. Đối với nhà trường: Nhà
trường dùng đơn vị giờ tín chỉ (credit hour) để xây dựng các mức học phí, phân bố nguồn lực
về cơ sở vật chất và con người, phân tích năng suất của từng cá nhân giảng viên và của từng
khoa. Học phí thường được ấn định dựa trên số lượng giờ tín chỉ được chọn. Quyết định xây
dựng một tịa nhà mới cho khoa kinh tế hay khoa sinh học sẽ được xác định qua số giờ tín

chỉ dự kiến đáp ứng cho nhiều dự án khác nhau. Tiền thuê cơ sở vật chất, thiết bị thí nghiệm,
hoặc chi phí cho cơng nghệ cao được tính thành giá của mỗi giờ lên lớp. Định nghĩa một SV
hay giảng viên là toàn thời gian hay bán thời gian cũng được xác định thơng qua số lượng tín
chỉ. Hệ thống tín chỉ cung cấp cho các nhà quản lý một công cụ để phân tích hoạt động của
nhà trường. [41]
1.2.2. Ảnh hưởng của việc học theo tín chỉ đến việc tham gia hoạt động ngoài giờ lên
lớp của sinh viên
- Thời gian hoạt động khơng cố định: Hoạt động của Đồn Thanh niên gặp nhiều khó
khăn khi áp dụng đào tạo theo hệ tín chỉ. Đồn viên thường phân tán, khơng tập trung thành
một đơn vị ổn định, thời gian học tập không cố định nên việc tập hợp SV vào các hoạt động
rất khó khăn. Do đó, sẽ có nhiều SV khơng tham gia sinh hoạt theo chi đoàn và tỏ ra rất thờ
ơ, khơng quan tâm.
- Khơng có biên chế lớp chủ nhiệm: Do SV học theo hệ tín chỉ nên khơng có biên chế
lớp tập trung và từ đó cũng đưa đến việc khơng có giáo viên chủ nhiệm như thường có ở hệ
niên chế mà chỉ có cố vấn học tập để giải đáp khi SV có thắc mắc hay khó khăn về chương
trình học hay nội dung mơn học. Ngồi ra, do học theo hệ tín chỉ nên mỗi SV chọn riêng cho


mình những lớp khác nhau và ở mỗi lớp lại có ban cán sự lớp khác nhau (thơng thường là
lớp trưởng và lớp phó). Do đó, nếu SV học 12 tín chỉ (3 hoặc 4 lớp) thì sẽ có 3 hoặc 4 lớp
trưởng khác nhau. Và ban cán sự lớp này chỉ chuyên lo về việc tổ chức lớp học chứ khơng
quan tâm đến các hoạt động ngồi giờ lên lớp của SV.
- Sinh viên khơng cịn nhiều thời gian rảnh: SV phải tập trung học với mật độ cao ở
trên lớp và ở thư viện, ở nhà, để tích lũy đủ tín chỉ đăng ký nên ít quan tâm đến các hoạt
động xã hội.
- Sinh viên không theo học liên tục ở các học kỳ: Việc học theo tín chỉ tạo điều kiện
cho SV nghỉ bảo lưu các học kỳ nên việc giữ sự liên lạc cũng không dễ dàng.
Trưởng Cao đẳng nghề Sài Gịn chưa có hệ thống đánh giá điểm rèn luyện của SV học
theo hệ tín chỉ nên chưa đưa SV vào ý thức bắt buộc phải tham gia các hoạt động ngoài giờ
lên lớp.

1.3. Hoạt động ngoài giờ lên lớp
1.3.1. Hoạt động ngoài giờ lên lớp (HĐNGLL) là gì?
HĐNGLL là hoạt động giáo dục được tổ chức ngồi giờ học nhằm hình thành và phát
triển những năng lực và phẩm chất nhân cách cho SV đáp ứng được những yêu cầu mới của
cuộc sống hiện nay. Đây là hoạt động không thể thiếu được trong nhà trường. Nếu quá trình
giáo dục SV chỉ được thực hiện qua các hoạt động trên lớp thì kết quả rất hạn chế, không thể
đảm bảo được chất lượng giáo dục tồn diện.
HĐNGLL là những hoạt động có mục đích giáo dục, được tổ chức một cách có mục
đích, kế hoạch, có chương trình, nội dung, phương pháp và phương tiện phù hợp nhằm góp
phần hình thành nhân cách SV theo mục tiêu đào tạo, đáp ứng những nhu cầu đa dạng của xã
hội. HĐNGLL được tổ chức nhằm lôi cuốn đông đảo SV tham gia để mở rộng hiểu biết, tạo
khơng khí vui tươi, lành mạnh, tạo cơ hội để học sinh rèn luyện thói quen sống trong cộng
đồng và phát huy tối đa năng lực, sở thích của từng cá nhân.
Theo tài liệu bồi dưỡng giáo viên về HĐNGLL do TS. Hồ Văn Liên biên soạn năm
2006: “HĐNGLL là những hoạt động giáo dục được tổ chức ngoài giờ học các bộ mơn văn
hố. HĐNGLL có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động dạy học tạo điều kiện gắn lý thuyết với
thực hành, thống nhất giữa hình thức với hành động, góp phần quan trọng vào sự hình thành


và phát triển các kỹ năng, tình cảm, niềm tin, tạo cơ sở cho sự phát triển nhân cách toàn
diện học sinh trong giai đoạn hiện nay”.
1.3.2. Mục tiêu của HĐNGLL
Hoạt động HĐNGLL là một bộ phận của một quá trình giáo dục ở nhà trường. Đó là
những hoạt động được tổ chức ngồi giờ học các mơn văn hóa có trong thời khóa biểu đã
quy định.
HĐNGLL có 2 mục tiêu rõ ràng, đó là mục tiêu giáo dục và mục tiêu xã hội.
a. Mục tiêu giáo dục
- Trí dục: Giúp SV củng cố, mở rộng kiến thức đã học trên lớp. Phát triển tư duy
độc lập, sáng tạo, chủ động và tích cực trong việc tìm tịi và nghiên cứu thực tiễn.
- Đức dục: Giúp SV có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường và xã

hội; nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc, biết tiếp thu những giá trị tốt
đẹp của nhân loại; nhận thức sâu sắc về các giá trị nhân văn nhằm hình thành lý tưởng sống
của thanh niên thời đại; có thái độ đúng đắn trước những vấn đề của cuộc sống, biết chịu
trách nhiệm về hành vi của bản thân; đấu tranh tích cực với những biểu hiện sai trái của bản
thân (để tự hoàn thiện mình) và của người khác.
- Thẩm mỹ: Giúp SV có khả năng cảm thụ, sáng tạo và bảo vệ cái đẹp trong nghệ
thuật và trong cuộc sống.
- Thể chất: Giúp SV có sức khỏe tốt, sinh hoạt lành mạnh và có ý thức về rèn luyện
thể dục thể thao mỗi ngày.
-

Lao động: Giúp SV phát triển ý thức, tình cảm đối với lao động và có cơ hội rèn

luyện được kỹ năng nghề nghiệp cũng như các kỹ năng mềm khác như: kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng làm việc nhóm, kỹ năng thương lượng, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tổ chức quản lý



b. Mục tiêu xã hội
Phát huy chức năng văn hóa, khoa học kỹ thuật của nhà trường ở địa phương.
1.3.3. Nhiệm vụ của HĐGDNGLL
 Nhiệm vụ giáo dục về nhận thức:
- Giúp SV bổ sung, củng cố và hoàn thiện những tri thức đã được học trên lớp; giúp
SV có những hiểu biết mới về thế giới xung quanh và cộng đồng xã hội.
- Giúp SV có điều kiện vận dụng tri thức đã học vào hoạt động hàng ngày, biết tự
điều chỉnh hành vi đạo đức, lối sống phù hợp hơn.
- Giúp SV định hướng chính trị, xã hội, có những hiểu biết nhất định về truyền
thống: đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tồ quốc , văn hoá tốt đẹp của dân tộc và
của đất nước…
- Giúp SV có những hiểu biết tối thiểu mang tính thời đại như: hợp tác quốc tế, hồ

bình, hữu nghị; bảo vệ môi sinh, môi trường; dân số và kế hoạch hố gia đình, phịng chống
các tệ nạn xã hội, pháp luật…
 Nhiệm vụ giáo dục về thái độ:
- Hình thành và củng cố ở SV niềm tin vào chế độ xã hội, vào tương lai của đất
nước. Từ đó, SV có lịng tự hào về dân tộc, giữ gìn truyền thống của gia đình, trường lớp,
quê hương, đất nước.
- Hình thành cho SV những tình cảm đạo đức trong sáng như tình thầy trị, bạn bè,
q hương, đất nước, biết yêu và tôn trọng cái đẹp; biết tôn trọng sự khác biệt.
- Bồi dưỡng cho SV tính tích cực, tính năng động, sẵn sàng tham gia các hoạt động
xã hội, từ thiện vì lợi ích chung, vì sự trưởng thành và tiến bộ của bản thân.
 Nhiệm vụ giáo dục về kỹ năng:
- Rèn luyện cho SV có kỹ năng trong giao tiếp, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ
năng thương lượng, ứng xử có văn hố, có thói quen tốt trong học tập và làm việc.
- Rèn cho SV các kỹ năng tổ chức, điều khiển, tự giáo dục, tự điều chỉnh để hoà
nhập vào tập thể, vào cộng đồng xã hội.
- Rèn luyện tay nghề cho SV để chuẩn bị tốt cho hoạt động nghề nghiệp sau này.
1.3.4. Vai trò của HĐGDNGLL
- HĐGDNGLL là cầu nối tạo ra mối liên hệ hai chiều giữa nhà trường và xã hội


- HĐGDNGLL là điều kiện và phương tiện để huy động sức mạnh cộng đồng tham
gia vào quá trình đào tạo, vào sự nghiệp phát triển của nhà trường.
- HĐGDNGLL là bộ phận hữu cơ trong quá trình giáo dục ở nhà trường, là bộ phận
không thể thiếu được trong kế hoạch giáo dục – đào tạo của nhà trường; tạo sự thống nhất
giữa giáo dục trong nhà trường và giáo dục ngoài nhà trường, giữa thời gian học và thời gian
ngoài giờ học.
1.3.5. Ý nghĩa và tầm quan trọng của các hoạt động ngoài giờ lên lớp đối với sinh
viên
Các mục tiêu, nhiệm vụ và vai trò của HĐNGLL thể hiện rõ ý nghĩa và tầm quan trọng
của các hoạt động này. Vào đầu thế kỷ 21, nhiều trường cao đẳng đại học đã nêu sứ mạng

giáo dục to lớn, đó là phát triển “tồn diện sinh viên”. Ở các trường này, việc tham gia hoạt
động ngoại khóa là cách quan trọng nhất cho việc phát triển cá nhân. Đối với đại đa số các
SV cao đẳng đại học, tham gia các hoạt động ngoại khóa đóng vai trị khơng thể thiếu được
để có kinh nghiệm thời SV. SV tham gia hoạt động khơng chỉ để giải trí, họp mặt bạn bè,
nhưng quan trọng nhất là có được các kỹ năng sống và làm việc. Ở các trường cao đẳng đại
học hiện có rất nhiều loại hình hoạt động đa dạng phù hợp với từng đối tượng SV khác nhau.
Các hoạt động này tồn tại để bổ sung cho chương trình học chính khóa của đại học và
làm tăng thêm kinh nghiệm thực tế cho SV. Theo bài báo của Alexander Astin năm 1993,
hầu hết bất kỳ sự tham gia nào của SV đều có ảnh hưởng tích cực đến việc học và phát triển
cá nhân. Các hoạt động ngoại khóa cung cấp nền tảng cho SV trở nên gắn bó và tương tác
với các SV khác, do đó dẫn đến sự phát triển trong việc học và phát triển cá nhân. Đặc biệt,
nhóm SV đồng học là nguồn ảnh hưởng quan trọng đến việc phát triển học tập và phát triển
cá nhân. Nhóm này có thể ảnh hưởng sự phát triển tình cảm và nhận thức, cũng như hành vi
của họ.
Vì sự phát triển tồn diện của cá nhân là mục đích cơ bản của các hoạt động ngoại
khóa ở các trường cao đẳng đại học, vơ số kinh nghiệm được mang lại cho SV ảnh hưởng
tích cực đến tình cảm, tri thức, giao tế xã hội và phát triển bên trong từng cá nhân. Thông
qua kinh nghiệm làm việc với các bạn khác, SV học cách thương lượng, giao tiếp, giải quyết
mâu thuẫn và lãnh đạo. Tham gia các hoạt động ngoại khóa giúp SV hiểu được tầm quan
trọng của các kỹ năng suy nghĩ có phê phán, quản lý thời gian, và có thêm được kiến thức xã


hội khác. Tham gia các hoạt động ngoại khóa giúp SV lớn lên về mặt xã hội do có sự tương
tác, hình thành các mối quan hệ và thảo luận. Làm việc bên ngồi với những nhóm cá nhân
khác nhau cho phép SV có thêm sự tự tin, tự quản, hiểu rõ giá trị của sự khác nhau và giống
nhau ở người khác và tơn trọng sự khác biệt.
SV cịn phát triển kỹ năng theo hướng nghề nghiệp và thành cơng trong tương lai.
Việc tham gia hoạt động ngoại khóa cho phép SV kết nối kiến thức đã học với kinh nghiệm
thực tế, từ đó dẫn đến sự hiểu biết tốt hơn về các khả năng, tài năng và mục đích nghề
nghiệp. Các chủ doanh nghiệp tương lai ln tìm kiếm các cá nhân có các trình độ kỹ năng

tốt, làm cho những SV này có khả năng tồn tại được trong thị trường lao động. Đặc biệt, sự
tham gia các hoạt động này cùng với vai trò lãnh đạo chắc chắn liên kết việc đạt được nghề
nghiệp đầu tiên đến khả năng quản lý sau này.
Việc tham gia của SV cịn ảnh hưởng tích cực đến việc học tập. Trong nghiên cứu năm
1991 của Ernest T. Pascarella và Patrick T. Terenzini cho thấy rằng việc tham gia hoạt động
ngoại khóa có ảnh hưởng đến việc đạt được bằng đại học và có nhiều khát vọng trong học
tập. SV càng tích cực tham gia thì càng có nhiều tham vọng học tập cao hơn.
Cuối cùng, các hoạt động ngoại khóa tập trung vào các mục tiêu giáo dục, như là xây
dựng và duy trì cộng đồng ở trường cũng như là số lượng SV theo học. Vì các trường có
nhiều loại SV khác nhau, họ mong muốn có một mơi trường mà trong đó họ cảm thấy mối
liên kết với bạn bè và với trường. Các hoạt động ngoại khóa cung cấp một nơi cho SV gặp
gỡ, thảo luận, và hoàn thiện các mục tiêu chung. Trong cộng đồng này, nơi SV cảm thấy
thoải mái với người khác, việc học và phát triển cá nhân được đẩy mạnh và số lượng SV
được duy trì tích cực. Theo nghiên cứu của Vincent Tinto năm 1987, SV sẽ có thể bền bĩ
theo học ở trường nếu họ cảm thấy thỏa mãn với hệ thống giao tế xã hội và học thuật của
trường. Thơng qua việc tham gia hoạt động ngoại khóa, SV thường tương tác với bạn học có
cùng sở thích, mang sự hịa nhập xã hội vào mơi trường đại học. Từ đó, những SV tham gia
nhìn nhận những năm đại học là kinh nghiệm quý báu và cảm thấy họ là phần không thể
thiếu được của trường, và điều này làm cho sĩ số SV được duy trì ở mức cao.


1.3.6. Đặc điểm và nguyên tắc tổ chức HĐNGLL
a. Đặc điểm của HĐNGLL
- HĐNGLL có nội dung đa dạng, phong phú theo mục tiêu và có thể diễn ra ở trong
và ngoài nhà trường.
- Thời gian dành cho HĐNGLL khá nhiều và linh hoạt, đòi hỏi các lực lượng xã hội
phải cùng nhà trường tổ chức các HĐNGLL cho SV.
- Chương trình HĐNGLL rất năng động và đa dạng, phong phú về nội dung và hình
thức hoạt động. Tuy nhiên, việc kiểm tra và đánh giá HĐNGLL rất khó khăn và phức tạp.
b. Nguyên tắc tổ chức của HĐNGLL

Nguyên tắc cơ bản của HĐNGLL bao gồm:
- Đảm bảo tính mục đích, tính khoa học, tính kế hoạch.
- Đảm bảo tính tự nguyện, tự giác tham gia hoạt động của SV
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của SV.
- Phù hợp các đặc điểm lứa tuổi và cá biệt của SV.
- Đảm bảo tính tập thể.
- Đảm bảo tính đa dạng, phong phú.
- Đảm bảo tính hiệu quả.
Nhà giáo dục phải chú ý tới các nguyên tắc cơ bản nêu trên để chọn lựa nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức HĐNGLL nhằm đạt hiệu quả giáo dục cao.
1.4. Nội dung HĐNGLL
Hiện nay có nhiều cách phân chia nội dung HĐNGLL:
Theo điều 26 của Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và
trường trung học phổ thơng có nhiều cấp học năm 2007: “Nhà trường phối hợp với các tổ
chức, cá nhân tham gia giáo dục ngoài nhà trường thực hiện các hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động ngoại khoá về khoa
học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an tồn giao thơng, phịng chống tệ nạn xã hội,
giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật nhằm phát triển toàn diện và bồi dưỡng năng khiếu;
các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá, giáo dục môi trường; các hoạt
động xã hội, từ thiện phù hợp với đặc điểm sinh lý lứa tuổi học sinh.” [39]


Theo Quy định của Bộ GDĐT về công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống cho học sinh, SV trong các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp, cần tổ chức các hoạt động giáo dục theo chuyên đề, bao gồm:
a. Giáo dục pháp luật;
b. Giáo dục phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm;
c. Giáo dục môi trường, kỹ năng sống;
d. Giáo dục truyền thống, đạo đức nghề nghiệp;
e. Giáo dục phịng, chống tham nhũng;

f. Giáo dục an tồn giao thơng;
g. Giáo dục truyền thống nghề nghiệp;
h. Tư vấn tâm lý, nghề nghiệp và các vấn đề xã hội;
i. Hội nhập với thế giới.
Theo Quy chế Công tác học sinh, SV trong các cơ sở dạy nghề hệ chính quy (Ban
hành kèm theo Quyết định số 26/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ
trưởng Bộ LĐTB&XH), nhà trường cần tổ chức các hoạt động giáo dục bao gồm:
a. Giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho SV; các hoạt động giáo dục
truyền thống, văn hố, phịng, chống các tệ nạn xã hội; giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
SV.
b. Tổ chức các hoạt động giáo dục pháp luật; phổ biến các chế độ, chính sách của Nhà
nước có liên quan đến SV, nội quy, quy chế vào đầu năm học, khố học; tổ chức các hoạt
động ngồi giờ khác cho SV.
c. Theo dõi công tác phát triển Đảng trong SV; tạo điều kiện thuận lợi cho SV tham
gia tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể trong cơ sở dạy nghề; phối hợp với Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội khác có
liên quan trong các hoạt động phong trào của SV, tạo điều kiện cho SV có mơi trường rèn
luyện, phấn đấu.
d. Tổ chức cho SV tham gia các hoạt động văn nghệ, thể thao ở trong và ngoài cơ sở
dạy nghề.
e. Tạo điều kiện cơ sở vật chất cho SV luyện tập thể dục, thể thao, rèn luyện sức
khoẻ.
f. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo dục về bảo vệ môi trường, bảo vệ sức
khoẻ cộng đồng và các hoạt động xã hội khác.


Sau khi nghiên cứu các tài liệu tham khảo từ các trường phổ thông và các quy định của
Bộ GDĐT và Bộ LĐTBXH, đồng thời đối chiếu với nhu cầu hoạt động của SV trường Cao
đẳng nghề Sài Gịn, có thể chia HĐNGLL gồm 8 nội dung cơ bản phù hợp với mục tiêu giáo
dục và có tác dụng giáo dục lớn đối với SV:

a. Hoạt động tự học
b. Hoạt động chính trị - xã hội, đạo đức, pháp luật
c. Hoạt động nghề nghiệp
d. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao
e. Hoạt động tham quan du lịch, cắm trại
f. Hoạt động xã hội – nhân đạo
g. Hoạt động xây dựng và bảo vệ môi trường
h. Hoạt động tổ chức sự kiện, hội thảo
1.4.1. Hoạt động tự học
Khoa học và cơng nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khối lượng tri thức của
nhân loại càng lớn, đòi hỏi SV phải thường xuyên cập nhật thông tin, đồng thời phải chuyển
dần từ việc học để tiếp nhận tri thức sang học để biết cách tìm kiếm và tích lũy tri thức. Tự
học là một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và
kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngồi lớp, hoặc khơng theo
chương trình và sách giáo khoa đã được quy định. Hoạt động tự học giúp SV tự lực nắm
vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo về nghề nghiệp tương lai. Trong quá trình tự học, mỗi SV tự
vận động, từng bước biến tri thức của nhân loại thành tri thức riêng của mình. Tự học khơng
những giúp SV khơng ngừng nâng cao chất lượng học tập ở nhà trường mà còn tạo thói
quen, hứng thú và thường xun khơng ngừng học hỏi để hồn thiện bản thân suốt đời. Tự
học cịn giúp SV hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc
phê phán, bồi dưỡng hứng thú học tập, say mê nghiên cứu khoa học.
Hoạt động tự học là hoạt động chính mà mọi SV đều phải thực hiện để có thể học tốt,
đặc biệt là khi học theo hệ tín chỉ. Đặc điểm của việc học theo hệ tín chỉ là SV phải dành thời
gian tự học ít nhất gấp đơi thời gian đến lớp để đảm bảo hoàn thành tất cả bài tập được giao
và đạt điểm tốt. Việc tự học của SV phải được lên kế hoạch ngay trong đề cương môn học
và được ràng buộc qua việc đề ra các bài tập ở nhà có lấy điểm. Nếu SV không dành thời
gian để tự nghiên cứu và làm bài tập lấy điểm thì coi như khơng đủ điểm đạt mơn học đó và
phải đăng ký học lại ở những học kỳ sau.



1.4.2. Hoạt động chính trị - xã hội, đạo đức, pháp luật
Ngồi các mơn Chính trị và Pháp luật có trong chương trình học chính quy, cần phải
quan tâm nhiều hơn về mặt giáo dục đạo đức cho SV hiện nay bao gồm giáo dục SV biết
nghĩa vụ công dân của mình và hiểu rõ tình hình và diễn biến trong xã hội, giáo dục chủ
nghĩa nhân đạo, biết quan tâm đến người khác và không làm ngơ trước các trường hợp biểu
hiện sự tàn nhẫn.
Các môn học trên lớp cần đưa vào những người thật việc thật từ các tổ chức chính trị
và pháp luật đến sinh hoạt với SV một cách cụ thể và trực tiếp. Có như vậy các bài học về tư
tưởng chính trị và pháp luật sẽ được ghi nhớ và làm theo cách bền vững. Một số hình thức
giáo dục thường tiến hành ở trường:
- Giáo dục tư tưởng chính trị cho SV thơng qua các hoạt động ngày Nhà giáo Việt Nam,
ngày thành lập Đoàn thanh niên, ngày thành lập Đảng cộng sản, ngày sinh nhật Bác.
- Đoàn trường tổ chức tham gia các chương trình từ thiện để giáo dục lịng nhân ái cho
SV và cho cơ hội nhìn lại bản thân để cố gắng hơn.
- Xây dựng nếp sống văn hóa, phòng chống tệ nạn xã hội.
- Tuyên truyền sống và làm việc theo pháp luật, trong đó việc thực thi pháp luật cần
phải được thể hiện trong học đường.
- Tổ chức cho SV khá giỏi dạy kèm giúp đỡ SV học yếu ngồi giờ học.
Thơng qua các hoạt động trên, khơng những giáo dục chính trị tư tưởng mà cịn hình
thành nhiều phẩm chất ở SV, đó là tình đồn kết gắn bó, yêu thương con người, tự hào về
quê hương đất nước.
1.4.3. Hoạt động nghề nghiệp
Thời gian học ở cao đẳng đại học là thời kỳ các SV học nghề và hình thành những kỹ
năng nghề nghiệp tương lai. Để SV viên khi ra trường không phải bị đào tạo lại, nhà trường
cần có những hoạt động nghề nghiệp cho họ như hoạt động của Câu lạc bộ Tin học, Tiếng
Anh, Xưởng thực hành, Dự án… Qua đó, SV có điều kiện áp dụng những kiến thức đã học
trên lớp vào công việc thực tiễn để rèn luyện các kỹ năng như đánh máy, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giao tiếp, và các kỹ năng nghề nghiệp khác khi thao tác
trên máy móc thiết bị. Ngoài ra trường cần phải tổ chức những chuyến tham quan thực tế ở
các cơng ty xí nghiệp phù hợp với ngành nghề của SV sau này. Các hoạt động này không



những giúp SV có kỹ năng nghề nghiệp mà cịn rèn luyện cho SV có thái độ lao động tốt, tôn
trọng sức lao động và người lao động, biết được giá trị của lao động.
1.4.4. Hoạt động văn hóa – nghệ thuật, thể dục – thể thao
Hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao giúp SV thư giãn sau những giờ lao
động mệt mỏi, căng thẳng và giúp rèn luyện sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần. Một số hoạt
động cần thiết như sau:
- Giới thiệu những sách báo, tác phẩm có giá trị văn hóa và giáo dục cho SV.
- Tổ chức hội diễn văn nghệ, thể thao: Hoạt động văn nghệ thường rất phong phú và
khơng địi hỏi SV phải có tài năng xuất sắc mà chỉ cần có lịng u thích và sự tự tin khi lên
sân khấu. Hoặc những bài biểu diễn nhảy không nhất thiết phải ở mức độ chuyên nghiệp, mà
cùng bạn bè của mình luyện tập để biểu diễn hoặc chỉ để tập cho biết. SV có thể tham gia các
đội tuyển bóng đá, bóng rổ, bóng bàn, cầu lơng, cờ vua… của trường, tuỳ thuộc vào sở thích
và khả năng. Ngồi ra SV có thể luyện tập thể thao ngồi giờ học như đi bơi, tập thể hình,
tham gia câu lạc bộ aerobic, chạy thể dục buổi sáng hàng ngày…Vì vậy SV có thể sắp xếp
thời gian luyện tập không quá căng thẳng phù hợp với lịch học tập của mình.
- Tổ chức thi viết bài cho hình ảnh của trường trên các website: Cơng tác này góp
phần giúp SV rèn luyện kỹ năng viết tốt. Ngoài ra, các bài viết của SV cũng góp phần quảng
bá hình ảnh của trường cho công chúng.
1.4.5. Hoạt động tham quan du lịch, cắm trại
Hoạt động này có sức hấp dẫn học sinh rất lớn. Nó vừa nâng cao sự hiểu biết đáp ứng
nhu cầu giao lưu bạn bè, xây dựng tình cảm tập thể, vừa rèn luỵên kỹ năng thực hành tốt.
Hình thức cắm trại có thể dài ngày, ngắn ngày với thời gian từ 1-3 ngày vào các ngày nghỉ
hoặc các ngày kỷ niệm quan trọng trong năm. Có thể tổ chức theo qui mô lớp hoặc trường và
lồng ghép nhiều hoạt động khác như: Giáo dục chính trị tư tưởng, văn nghệ, thể dục thể thao
để thu hút học sinh tiếp tục tham gia. Tổ chức tham quan du lịch như tham quan danh lam
thắng cảnh, di tích văn hóa lịch sử, du lịch sinh thái.
1.4.6. Hoạt động bảo vệ môi trường
Hiện nay, môi trường xung quanh đang bị ô nhiễm và bị hủy hoại đáng báo động. SV

có thể góp phần thiết thực trong cơng tác bảo vệ môi trường bằng cách tuyên truyền thông tin
ngay trong nhà trường và cho cộng đồng xung quanh. SV cịn có thể lập dự án viết trang web


có tên là www.moitruong.edu.vn để góp phần đưa thơng tin giáo dục về bảo vệ môi trường
cho tất cả mọi người trong xã hội.
SV còn thể hiện bằng hành động giữ gìn mơi trường xanh sạch đẹp ngay trong khn
viên trường học và làm cho môi trường không bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội như cờ bạc,
hút chích, rượu chè, chửi thề…
1.4.7. Hoạt động xã hội nhân đạo
Hiện nay hoạt động xã hội nhân đạo đang được xã hội rất quan tâm. Hoạt động xã hội
nhân đạo đã và đang được phát triển sâu rộng trong các tổ chức, nhà trường nhằm phát huy
truyền thông nhân ái của dân tộc ta.
1.4.8. Hoạt động tổ chức sự kiện và hội thảo
Hoạt động này được lồng ghép vào các hoạt động khác vì bất kỳ sự kiện nào của
trường cũng cần thực hiện theo các bước lên kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá.
SV có thể tham gia cơng tác đồn trường, tổ chức các dạ hội, các chương trình văn nghệ, các
chuyến đi dã ngoại... Những công việc tổ chức này tập cho SV cách làm việc có kế hoạch, có
trách nhiệm, có kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc theo nhóm và kỹ năng lãnh đạo. Các kỹ
năng mềm này sẽ giúp ích cho SV rất nhiều khi họ ra trường đi làm việc. Vì thế, SV khơng
chỉ là những người tham gia cuộc vui, mà còn là những người tạo nên cuộc vui.
Nội dung HĐGDNGLL rất phong phú. Tùy theo tình hình mỗi trường, mỗi địa
phương mà chọn hình thức hoạt động phù hợp để đạt mục tiêu đào tạo giáo dục toàn diện cho
học sinh.
1.5. Khái niệm về quản lý giáo dục
1.5.1 Khái niệm về quản lý
Một số tác giả định nghĩa về quản lý như sau:
- Quàn lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá
nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. (H.Koontz)
- QL là những tác dộng của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử

dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức
(chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu mhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất .
[5, tr.15]


- Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. [11, tr.12]
- Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những
người lao động (nói chung là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự
kiến. [18, tr.24]
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, Quản Lý có thể hiểu là sự tác động có hướng
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã định với những
kết quả cao nhất.
Đặc điểm chung của quản lý là tác động có tính tự giác, mục đích rõ ràng, kế hoạch
cụ thể, có phương pháp của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích
đề ra.
1.5.2 Khái niệm về quản lý giáo dục
Theo PGS.TS Hoàng Tâm Sơn, “Quản lý giáo dục (QLGD) là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể QLGD đến khách thể QLGD nhằm thực hiện được những mục tiêu
dự kiến. QLGD (nói riêng là quản lý trường học) là quản lý tập thể giáo viên và học sinh để
chính họ lại quản lý (đối với giáo viên) và tự quản lý (đối với học sinh) của quá trình dạy
học – giáo dục nhằm đào tạo ra sản phẩm là nhân cách người lao động mới.”
Theo PGS.TS. Trần Kiểm “QLGD được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể
giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong
và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà
trường”. [6, tr.12]
Nói một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt kết
quả mong muốn một cách có hiệu quả nhất.

1.5.3 Các chức năng của quản lý giáo dục
Cũng như khoa học quản lý nói chung, quản lý giáo dục cũng có bốn chức năng :
- Chức năng hoạch định
- Chức năng tổ chức


×