BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
MÃ SỐ: CS.2010. 19.81
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. NGUYỄN CHƯƠNG NHIẾP
TP. HỒ CHÍ MINH- NĂM 2011
MỤC LỤC
Trang
Tóm tắt về kết quả nghiên cứu bằng tiếng Việt……………………………….
Tóm tắt kết quả nghiên cứu bằng tiếng Anh………………………………….
Phần Mở đầu …………………………………………………………………..
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………..
2. Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………………….
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………...
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….
5. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………….
Chương I. Nguồn gốc, đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng
phép biện chứng duy vật
1.1.
Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật
1.1.1. Tinh hoa văn hóa dân tộc và yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt
Nam đầu thế kỷ XX
1.1.2. Tiếp thu, kế thừa và phát triển phép biện chứng duy vật của C. Mác,
Ph. Ăngghen và V.I. Lênin
1.1.3. Phẩm chất và tài năng Hồ Chí Minh
1.2.
Đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật
1.2.1. Tính sáng tạo
1.2.2. Tính thiết thực
1.2.3. Tính giản dị
Chương II. Nơi dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép
biện chứng duy vật
2.1. Tư tưởng về nhận thức và vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1.1. Về mối liên hệ phổ biến
2.1.2. Về “bệnh cận thị”
2.2. Tư tưởng về nhận thức và vận dụng nguyên lý về sự phát triển
2.2.1. Về sự vận động, phát triển
2.2.2. Về bệnh bảo thủ và bệnh máy móc, giáo điều
2.3. Tư tưởng về nhận thức và vận dụng các quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật
2.3.1. Về mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn
2.3.2. Về phủ định biện chứng
2.3.3. Về bệnh tả khuynh và hữu khuynh
2.4. Tư tưởng về nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa cái khách quan và cái
chủ quan và vấn đề chống bệnh chủ quan
2.4.1. Về quan hệ biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan
2.4.2. Về bệnh chủ quan
Phần Kết luận…………………………………………………………………….
Phụ lục……………………………………………………………………………
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………..
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy
vật
Mã số: CS. 2010. 19. 81
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Chương Nhiếp
Tel: 0913692024
E-mail:
Cơ quan chủ trì đề tài : Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM
Cơ quan và cá nhân phối hợp thực hiện : Không
Thời gian thực hiện: Từ tháng 4/ 2010 đến tháng 4/ 2011
1. Mục tiêu: Khảo sát và lý giải tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng
phép biện chứng duy vật
2. Nội dung chính:
-
Nguồn gốc và đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng
phép biên chứng duy vật.
-
Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật.
-
Kinh điển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng
duy vật (phụ lục).
3. Kết quả chính đạt được (khoa học, ứng dụng, đào tạo, kinh tế-xã hội):
-
Báo cáo khoa học.
-
Đĩa CD về các tư liệu đã khảo sát.
- Bài báo khoa học
SUMMARY
Project Title:
Thoughts of Ho Chi Minh on the cognition and the application
materialist dialectic
Code number:
CS. 2010. 19. 81
Coordinator:
Implementing Institution : Faculty of Education, HCM city University of Pedagogy
Cooperating Institution(s)
Duration: from April 2010 to April 2011
1. Objectives:
2. Main contents:
3. Results obtained:
Science reported: “Thoughts of Ho Chi Minh on the
cognition and the application materialist dialectic”
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật
Mã số: CS. 2010. 19. 81
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Chương Nhiếp
Tel: 0913692024
E-mail:
Cơ quan chủ trì đề tài : Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM
Cơ quan và cá nhân phối hợp thực hiện : Không
Thời gian thực hiện: Từ tháng 4/ 2010 đến tháng 4/ 2011
1. Mục tiêu: Khảo sát và lý giải tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép
biện chứng duy vật
2. Nội dung chính:
-
Nguồn gốc và đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng
phép biên chứng duy vật.
-
Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng
duy vật.
-
Kinh điển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy
vật (phụ lục).
3. Kết quả chính đạt được (khoa học, ứng dụng, đào tạo, kinh tế-xã hội):
-
Báo cáo khoa học.
-
Đĩa CD về các tư liệu đã khảo sát.
- Bài báo khoa học
1
SUMMARY
Project Title:
Ho Chi Minh Ideology on the perception and the application
materialist dialectic
Code number:
CS. 2010. 19. 81
Coordinator:
Nguyen Chuong Nhiep, Ph.D
Implementing Institution : Faculty of Education, HCM city University of Pedagogy
Cooperating Institution(s): No
Duration: from April 2010 to April 2011
1. Objectives: Investigate and explain the Ho Chi Minh ideology on the perception
and the application materialist dialectic
2. Main contents:
-
Origins and characteristics of Ho Chi Minh ideology on the perception and the
application materialist dialectic
-
The contents of Ho Chi Minh ideology on the perception and the application
materialist dialectic
-
Ho Chi Minh classics on perception and materialist dialectics application
(appendix)
3. Results obtained:
-
Science report: “Ho Chi Minh ideology on the perception and the application
materialist dialectic”
- CD of the materials collected
- Journal article
PHẦN MỞ ĐẦU
2
I.
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Phép biện chứng duy vật- bộ phận quan trọng cấu thành của triết học
Mác- Lênin, là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức
hồn bị nhất, triệt để nhất và khơng phiến diện, là phương pháp luận chung nhất
của nhận thức và thực tiễn, là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa khoa
học và cách mạng, giữa tính đảng và tính sáng tạo. Cùng với lý luận duy vật biện
chứng thì phép biện chứng duy vật là sự kết tinh của tư duy nhân loại và là giá trị
bất hủ, trường tồn của triết học Mác- Lênin.
Nghiên cứu phép biện chứng duy vật nói riêng, triết học Mác- Lênin nói
chung chính là nhằm lĩnh hội khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận
động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, là nhằm tiếp thu, nắm lấy
phương pháp luận chung nhất của nhận thức và thực tiễn để tránh những va vấp,
sai lầm, nâng cao hiệu quả của thực tiễn. Tuy nhiên, nhiều sinh viên, cán bộ, đảng
viên trong khi tiếp xúc với di sản quý báu này, khi học tập, nghiên cứu phép
biện chứng duy vật, họ mới chỉ dừng lại ở câu chữ, theo kiểu học thuộc lịng mà
khơng nắm được tinh thần cơ bản, không hiểu được thực chất cách mạng và khoa
học của phép biện chứng duy vật, do vậy, trong nhận thức và hành động, không
những không quán triệt đầy đủ mà nhiều khi còn làm trái với tinh thần của phép
biện chứng duy vật, vì thế đã mắc phải những sai lầm đáng tiếc. Những căn bệnh
trầm trọng hiện nay như bệnh thành tích, bệnh chủ quan, duy ý chí, bệnh “cận
thị”, bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều,… chính là biểu hiện của việc khơng nắm
vững, không nhận thức đúng đắn, không quán triệt đầy đủ tinh thần khoa học và
cách mạng của phép biện chứng duy vật.
Nhờ sớm đến với chủ nghĩa Mác- Lênin mà Hồ Chí Minh đã tìm ra con
đường cứu nước cho dân tộc ta, nhân dân ta, Hồ Chí Minh cũng là người sáng lập
và lãnh đạo Đảng và nhà nước ta. Sinh thời, Người không chỉ quan tâm đến việc
giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân mà
còn hết sức chăm lo “sửa đổi lối làm việc”, Người đặc biệt quan tâm và đề cao
việc huấn luyện cho cán bộ, đảng viên phương pháp nhận thức và vận dụng các
nguyên lý của triết học Mác- Lênin, trong đó có phép biện chứng duy vật.
3
Không như các nhà triết học, cũng không giống như một chính khách,
một nhà hùng biện thường làm, Hồ Chí Minh có cách nhận thức và vận dụng
phép biện chứng duy vật hết sức độc đáo, tài tình, giản dị mà sâu sắc; ngắn gọn,
súc tích mà hết sức sinh động, dễ hiểu; bàn đến những nguyên lý triết học trừu
tượng mà vẫn rất cụ thể, rất gần gũi với cuộc sống, vẫn khơng khoa trương, màu
mè. Tính độc đáo, tài tình của Hồ Chí Minh trong việc nhận thức và vận dụng
phép biện chứng duy vật đã được Người thể hiện một cách cụ thể, sinh động
trong các bài viết, bài nói chuyện của Người tại các cuộc gặp gỡ với cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân và chính trong suốt cuộc đời hoạt động, lãnh đạo
cách mạng của Người. Chính sự độc đáo, tài tình trong việc nhận thức và vận
dụng phép biện chứng duy vật đã giúp Hồ Chí Minh lèo lái con thuyền cách mạng
Việt Nam vượt qua bao ghềnh thác, bao thử thách có lúc tưởng chừng như “ngàn
cân treo sợi tóc” để cập bến bờ thắng lợi và trở thành lãnh tụ vĩ đại của dân tộc,
người thầy của cách mạng Việt Nam và là danh nhân văn hóa thế giới.
Đáng tiếc là một vấn đề lớn và vô cùng quan trọng như vậy của di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn chưa được chúng ta quan tâm khai thác, chưa đầu tư
nghiên cứu đúng mức để trước hết, phục vụ cho việc dạy và học phép biện chứng
duy vật của triết học Mác- Lênin, giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả của công
tác này; mặt khác, giúp hướng dẫn cán bộ, đảng viên áp dụng một cách đúng đắn
và sáng tạo phép biện chứng duy vật vào thực tiễn xã hội Việt Nam, trong khi đó,
hiện nay việc nhận thức và vận dụng phép biện chứng vẫn còn nhiều hạn chế và
lệch lạc, việc dạy và học triết học Mác- Lênin trong các trường đại học vẫn còn
nhiều yếu kém, khuyết điểm. Đây là thiếu sót và cũng là trách nhiệm của những
người làm công tác nghiên cứu chúng ta. Trước tình hình đó, Ban Bí thư Trung
ương Đảng ngày 27 tháng 3 năm 2003 đã chỉ thị: “Bước sang thế kỷ XXI, đất
nước ta có cơ hội lớn, nhưng đang đứng trước những thách thức khơng nhỏ, tình
hình thế giới đang diễn biến phức tạp, khó lường. Để thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, cần thấm nhuần sâu sắc,
vận dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề thực tiễn trong tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại,
4
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, trong đó việc tổ chức học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh là một nhiệm vụ mấu chốt của công tác tư tưởng của Đảng, cần được
tồn Đảng thực hiện chặt chẽ, có chất lượng, hiệu quả”.
Để thực hiện những yêu cầu đó đồng thời khắc phục những hạn chế, yếu
kém trong việc dạy và học triết học Mác- Lênin trong các trường đại học cũng
như những lệch lạc, bất cập trong việc vận dụng phép biện chứng duy vật hiện
nay, việc nghiên cứu đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng
phép biện chứng duy vật” là hết sức cần thiết. Nó khơng chỉ có ý nghĩa thời sự
trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà cịn góp
phần thiết thực trong việc giảng dạy và học tập môn Triết học, giúp cho người
dạy và người học thấy được thiên tài Hồ Chí Minh, học được ở Người phương
pháp nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật trong những điều kiện lịch
sử- cụ thể nhằm hiểu sâu sắc hơn, vận dụng có hiệu quả hơn những nguyên lý
triết học Mác- Lênin vào cuộc sống cũng như vào sự nghiệp đổi mới hiện nay.
II.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản đồ sộ, có nội dung hết sức phong
phú và càng ngày chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của nó khơng chỉ
đối với quá khứ mà cả với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. Chính vì vậy mà
ngày càng có nhiều người, nhiều cơng trình quan tâm nghiên cứu về tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tuy vậy, từ trước đến nay khi đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh, các
nhà nghiên cứu thường tập trung quan tâm đến tư tưởng đạo đức, tư tưởng về dân
tộc và Cách mạng giải phóng dân tộc, tư tưởng về Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, tư tưởng về xây dựng Đảng, tư tưởng về liên minh cơng-nơng, tư
tưởng về đồn kết quốc tế, tư tưởng quân sự và chiến tranh nhân dân; tư tưởng
Đại đồn kết; tư tưởng văn hóa- nghệ thuật, tư tưởng về giáo dục, v.v… nhưng rất
ít khi và ít cơng trình nói đến tư tưởng về nhận thức và vận dụng phép biện chứng
duy vật.
Thực ra, cho đến nay đã có một số cuốn sách, một số bài viết của các học
giả trong nước viết về những khía cạnh khác nhau của tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh liên quan đến đề tài này. Trong số đó phải kể đến các cuốn: Phương pháp
5
và phong cách Hồ Chí Minh (NXB lý luận chính trị, 2004) của tập thể tác giả do
Đặng Xuân Kỳ chủ biên, cuốn Minh triết Hồ Chí Minh (NXB Thanh niên, 2007)
của Vũ Ngọc Khánh và các bài viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều” của tác
giả Trần Văn Phòng, bài “Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh” của tác giả Song
Thành và bài viết của phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Hùng Hậu “Vấn đề phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và nâng lên tầm cao mới trong điều kiện cụ thể ở
Việt Nam của Hồ Chí Minh”… Nhìn chung các cơng trình cũng như bài viết của
những tác giả trên đây đã ít nhiều nêu lên và phân tích được một số tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh như tư tưởng về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư
tưởng về giải quyết mâu thuẫn, tư tưởng về dĩ bất biến ứng vạn biến,…Tuy vậy,
có thể nói, từ trước đến nay chưa hề có một cơng trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ, tập trung và có hệ thống tư tưởng về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật của Hồ Chí Minh. Bởi thế, nghiên cứu đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật” là công trình hồn tồn
mới mẻ, khơng bị trùng lặp.
III.
MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
-
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhận
thức và vận dụng phép biện chứng duy vật.
-
Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Khảo sát, tập hợp tư liệu về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy
vật của Hồ Chí Minh.
2. Phân tích, xử lý, hệ thống hóa tư liệu về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật của Hồ Chí Minh.
IV.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở lý luận triết học Mác- Lênin và phương pháp luận biện chứng duy vật,
tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: Lịch sử và logic, phân
tích và tổng hợp…
6
V.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản hết sức đồ sộ, phong phú, bao gồm nhiều mảng,
nhiều lĩnh vực khác nhau, do yêu cầu về mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, cơng
trình chỉ tập trung khai thác di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận
dụng phép biện chứng duy vật qua các bài nói, bài viết của Người được tập hợp,
thể hiện trong Hồ Chí Minh tồn tập, gồm 12 tập.
Chương 1: NGUỒN GỐC, ĐẶC ĐIỂM CỦA
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1.
Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật
7
Cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và
vận dụng phép biện chứng duy vật, một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh xuất
hiện từ các nguồn gốc: tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa của
nhân loại, chủ nghĩa Mác- Lênin, những phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh.
1.1.1 Những giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại
Cũng như bao nhiêu lĩnh vực khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng
phép biện chứng duy vật không phải là sản phẩm thuần túy tư biện được hình thành một
cách ngẫu nhiên. Sẽ khơng thể xác định đúng nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật
nói riêng nếu khơng nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc con người Hồ Chí Minh và những điều
kiện, hồn cảnh mà Hồ Chí Minh từng sinh ra, lớn lên và chịu ảnh hưởng. Với cách đặt vấn
đề như thế, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật là kết
quả tổng hợp từ một loạt những yếu tố khách quan và chủ quan, trước hết là sự kế thừa
những giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam và những tinh hoa văn hóa nhân loại ‘
Việt Nam là một quốc gia giàu truyền thống, trước hết là chủ nghĩa yêu nước và ý
chí bất khuất, tự lực tự cường được hun đúc qua hàng ngàn năm giữ nước và dựng nước.
Không như các quốc gia dân tộc khác, dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm khơng
phải chỉ từ sự phân hóa giai cấp sâu sắc mà chủ yếu là do nhu cầu của cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm và yêu cầu chống chọi với thiên tai nghiệt ngã trong suốt chiều dài lịch sử. Trải
qua hàng ngàn năm bồi đắp, tôi luyện, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trở thành giá trị tinh
thần và là tinh hoa văn hóa của dân tộc.
Cùng với chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất, tự lực tự cường thì tinh thần đồn
kết, ý thức cộng đồng được hình thành và củng cố trong quá trình dựng nước và giữ nước
cũng trở thành giá trị truyền thống tốt đẹp. Bên cạnh đó, những phẩm chất dũng cảm, cần
cù, thông minh, sáng tạo trong lao động, sản xuất, chiến đấu luôn tiếp biến những giá trị văn
minh của nhân loại đề bảo tồn dân tộc và phát triển đất nước.
Chính chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, tự lực tự cường, tinh thần đồn kết, ý
thức cộng đồng, đức tính dũng cảm, thơng minh, cần cù, sáng tạo - những tinh hoa văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc là cơ sở và cũng là bộ lọc để Hồ Chí Minh đến với chủ
8
nghĩa Mác- Lênin trong đó có phép biện chứng duy vật. Bởi thế, Hồ Chí Minh từng nói:
“Lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin
và Quốc tế thứ ba”.
Những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc mới chỉ là cơ sở, chứ chưa phải là động
lực, cái tạo nên động lực mạnh mẽ thơi thúc Hồ Chí Minh sớm rời bỏ quê hương, bôn ba nơi
trời Tây để tìm đường cứu nước, từ đó Người đến với chủ nghĩa Lênin, đến với phép biện
chứng duy vật chính là thực tiễn cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước vẫn là một quốc gia lạc
hậu, trì trệ. Chế độ phong kiến đã đến thời kỳ mục ruỗng, suy tàn, triều đình nhà Nguyễn ra
tay áp bức, bóc lột ngày một nặng nề. Song song với việc tăng cường áp bức, bóc lột, triều
đình nhà Nguyễn cũng thực thi một chính sách bảo thủ, cực đoan, cự tuyệt với mọi cải cách,
đóng cửa với bên ngồi. Chính chính sách bảo thủ, cực đoan của triều đình nhà Nguyễn đã
làm cho đất nước vốn đã lạc hậu, trì trệ lại càng trở nên lạc hậu, trì trệ hơn. Cự tuyệt đối với
cải cách, với mở cửa làm cho quốc gia càng thêm nghèo đói, thiếu tiềm lực vật chất để có
thể đối phó với địch họa, thiên tai vẫn thường xuyên rình rập. Tăng cường áp bức, bóc lột
nhân dân làm cho quần chúng nhân dân càng thêm bất bình, phẫn nộ, nên khơng tạo ra được
sức mạnh đoàn kết để đương đầu với hiểm họa ngoại xâm, trong khi đoàn kết vốn là một
truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, nhờ đoàn kết mà chúng ta đã tạo nên sức mạnh
thần kỳ, đưa quốc gia vượt qua bao khó khăn, thử thách, đánh thắng kẻ thù, đuổi sạch quân
xâm lược, giữ vững độc lập dân tộc. Trước tình đó, triều đình nhà Nguyễn bạc nhược, lúc
đầu thì chống cự yếu ớt, sau đó là từng bước nhân nhượng, cầu hịa và cuối cùng là chấp
nhận đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của Pháp trên đất nước ta để giữ lấy ngai vàng và lợi
ích riêng của hồng tộc.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, phong trào vũ trang chống Pháp phát triển và lan
rộng trong cả nước. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang do các sĩ phu, văn thân như Trương Định,
Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Xn Ơn, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn
Quang Bích,…nổ ra khắp nơi cho thấy tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc sôi sục của
nhân dân ta. Tuy vậy những cuộc khởi nghĩa vũ trang ấy rốt cuộc đều thất bại. Sự thất bại
9
của các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX cho thấy sự lỗi thời,
bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước yêu cầu của lịch sử.
Đầu thế kỷ XX, chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho xã hội
Việt Nam bắt đầu có sự chuyển biến và phân hóa, các tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của
giai cấp tư sản đã bắt đầu xuất hiện. Phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp của các tầng
lớp nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Một loạt phong trào yêu nước
chống Pháp của các nhà nho yêu nước như phong trào Đông Du (1904- 1908) do Phan Bội
Châu khởi xướng, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ( 1907) do Lương Văn Can, Nguyễn
Quyền lãnh đạo, phong trào Duy Tân ( 1906- 1908) do Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp lãnh đạo,.. liên tiếp xuất hiện nhưng cũng lần lượt thất bại. Vừa lớn
lên, Nguyễn Tất Thành đã phải xót xa chứng kiến nỗi thống khổ trong thân phận nô lệ của
người dân mất nước cũng như sự thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp của các
nhà Nho đương thời. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh sớm nhận ra rằng con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc sẽ rơi vào bế tắc nếu tiếp tục tiến hành theo cách cũ. Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc thì cần phải tìm ra con đường mới, với phương pháp tiến hành
cách mạng mới. Đó chính là động lực quan trọng thơi thúc Hồ Chí Minh tìm đến nước Pháp
và sau đó tìm đến với chủ nghĩa Lênin. Người nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước,
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước
một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế,
dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. [10,128] Bởi vì Hồ
Chí Minh nhận thấy: “Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”.
Chính yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã thôi
thúc Hồ Chí Minh đi tìm con đường cứu nước, từ đó Người đã đến với chủ nghĩa Lênin và
đến với phép biện chứng duy vật.
1.1.2. Tiếp thu, kế thừa và phát triển phép biện chứng duy vật của C. Mác, Ph.
Ăng ghen và V.I. Lênin
Khi Hồ Chí Minh rời bỏ quê hương ra đi tìm đường cứu nước thì ở châu Âu, chủ
nghĩa Mác- Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng đã định hình. Phép biện
10
chứng duy vật do Mác- Ăng ghen xây dựng từ nửa cuối thế kỷ XIX trên cơ sở kế thừa một
cách có phê phán phép biện chứng duy tâm của Hê ghen và được Lênin bổ sung, phát triển
vào đầu thế kỷ XX. Phép biện chứng duy vật là học thuyết về sự vận động và phát triển của
tự nhiên, xã hội và tư duy, là phương pháp luận phổ biến của nhận thức và thực tiễn. Bởi
thế, đến với phép biện chứng duy vật, Người tìm thấy ở đó một “cẩm nang thần kỳ”, một
“kim chỉ nam” cho hoạt động cách mạng.
Đầu thế kỷ XX, khi mới lớn, chàng thanh niên đã được thừa hưởng vốn hiểu biết sâu
rộng từ bố, mẹ, từ gia đình khoa bảng, thừa hưởng nét văn hóa của vùng quê nổi tiếng “địa
linh nhân kiệt”, đặc biệt, Người đã tiếp thu được những tinh hoa văn hóa của một dân tộc
giàu truyền thống. Trong những tinh hoa văn hóa của vùng quê xứ Nghệ, của dân tộc Việt
Nam mà Hồ Chí Minh kế thừa có những tư tưởng biện chứng tự phát. Chỉ đến khi sang
châu Âu, tiếp xúc với chủ nghĩa Mác- Lênin, làm quen với phép biện chứng duy vật thì Hồ
Chí Minh mới bắt đầu hình thành tư tưởng về phép biện chứng duy vật. Có thể nói khơng có
phép biện chứng duy vật, không tiếp xúc với chủ nghĩa Mác- Lênin thì cũng khơng có tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp, giữa
thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật. Hệ thống các
nguyên lý, các quy luật, phạm trù của nó khơng chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách quan
mà còn vạch ra những nguyên tắc định hướng cho con người trong việc nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là kết quả của sự kế thừa một cách có chọn lọc
những tinh hoa trong trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học nhân loại mà còn là sự đúc
kết những thành tựu khoa học cụ thể và sự khái quát thực tiễn cách mạng phong phú, sinh
động của giai cấp công nhân nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Bao gồm hai nguyên lý
cơ bản, các cặp phạm trù và những quy luật cơ bản, phép biện chứng duy vật vừa là học
thuyết duy vật biện chứng vừa là lý luận nhận thức và logic học, nó trình bày một cách chân
thực, đúng đắn và có hệ thống tính chất biện chứng của thế giới khách quan. Trong khi vạch
ra tính chất biện chứng của thế giới khách quan, thông qua những nguyên lý, những phạm
trù, những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy,
11
phép biện chứng duy vật vạch ra những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo con
người trong việc hoạch định chủ trương, chính sách, phương pháp cho mọi hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
Phép biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin có nội dung hết sức phong phú,
là một hệ thống tương đối hoàn chỉnh, bao gồm hai ngun lý có tính chất bao trùm. Đó là
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng và nguyên lý về sự phát triển.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng khẳng định rằng mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới không tồn tại một cách cơ lập, tách rời, trái lại giữa chúng ln có
mối liên hệ, có sự ràng buộc, tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau. Mối liên hệ giữa các
sự vật, hiện tượng không phải là sự gán ghép chủ quan nào đó của con người, mà là những
mối liên hệ khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng, bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất
của thế giới. Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng chẳng những có tính khách quan mà
cịn có tính phổ biến và tính đa dạng, phức tạp, nghĩa là mối liên hệ tồn tại khắp mọi lúc,
mọi nơi, mọi sự vật, đồng thời mối liên hệ cũng mn hình, mn vẻ, chúng khác nhau
khơng chỉ ở vị trí, về đặc điểm, về bản chất, chức năng… Chính vì mọi sự vật, hiện tượng
đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến cho nên quán triệt quan điểm toàn diện là nguyên tắc
phương pháp luận chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Quan điểm toàn diện đối lập với cách nhìn thiển cận, lối xem xét một chiều, phiến diện.
Khác với nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển cho rằng mọi
sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn luôn vận động, biến đổi khơng ngừng, trong q trình
đó, phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Vì vậy quán triệt quan
điểm phát triển là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất của nhận thức và thực tiễn.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn phải xem xét sự vật trong sự vận động,
biến đổi và phát triển của nó, phải nhận thức đúng cái mới và ủng hộ cái mới, đồng thời tư
duy phải mềm dẻo, linh hoạt, năng động.
Ngoài hai nguyên lý cơ bản, phép biện chứng duy vật còn bao gồm các quy luật cơ
bản và các quy luật không cơ bản. Trong đó, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập ( còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. V.I. Lênin viết:
“Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối
12
lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó địi hỏi phải có
những sự giải thích và sự phát triển thêm”. [13,240] Thơng qua việc phản ánh quá trình đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn ở bên trong sự vật, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Chính vì vậy, quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập đòi hỏi chúng ta phải nắm vững nguyên tắc mâu thuẫn trong
nhận thức và thực tiễn mà yêu cầu cơ bản của nguyên tắc này là phải nhận thức đúng đắn
mâu thuẫn đồng thời phải có phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách khoa
học, đúng đắn, linh hoạt và sáng tạo, gắn liền với những mâu thuẫn cụ thể trong một tình
hình cụ thể.
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn tới những thay đổi về chất và
ngược lại (còn gọi là quy luật lượng đổi- chất đổi) là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Thông qua việc phản ánh quá trình thay đổi dần dần về lượng khi vượt
qua độ và đạt tới điểm nút thì tạo ra bước nhảy làm thay đổi cơ bản về chất, quy luật lượng
đổi- chất đổi vạch ra cách thức của sự phát triển. Chính vì vậy, quy luật lượng đổi- chất đổi
là cơ sở phương pháp luận chung nhất cho quá trình thúc đẩy sự phát triển, tránh thái độ
bảo thủ trì trệ cũng như chủ quan, nóng vội, muốn đốt cháy giai đoạn, đồng thời trong nhận
thức cũng như trong thực tiễn cần vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy để đẩy nhanh
quá trình phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển đi lên theo hình
thức xốy ốc, phản ánh tính kế thừa, tính chu kỳ và tính tiến lên của quá trình phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện
chứng, chỉ đạo mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn. Nguyên tắc phủ định biện chứng đòi
hỏi chúng ta trong nhận thức và thực tiễn, để bảo đảm sự phát triển cần phải biết kế thừa
một cách có phê phán, có chọn lọc, tránh thái độ tả khuynh- phủ định sạch trơn cũng như
hữu khuynh- kế thừa tất cả.
Ngoài các nguyên lý và những quy luật cơ bản, phép biện chứng duy vật còn bao
gồm các cặp phạm trù hay cịn gọi là các quy luật khơng cơ bản. Cũng như các quy luật cơ
bản, các cặp phạm trù là sự cụ thể hóa của hai nguyên lý. Nếu như hai nguyên lý của phép
biện chứng duy vật phản ánh một cách bao quát tính chất biện chứng chung nhất của thế
13
giới thì các cặp phạm trù và quy luật là lý luận nghiên cứu các mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển trong thế giới các sự vật, hiện tượng, q trình cụ thể. Chính vì vậy, các cặp phạm
trù và các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là là sự cụ thể hóa quan điểm toàn
diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử- cụ thể trong các lĩnh vực hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật
bắt nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác - Lênin mà cụ thể là phép biện chứng duy vật của triết
học Mác- Lênin nhưng khơng hồn tồn đồng nhất với phép biện chứng duy vật, mà là sự
tổng hòa, sự kết hợp giữa giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại
với phép biện chứng duy vật và những phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh, trên nền tảng
của phép biện chứng duy vật.
Như trên đã phân tích, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật là kết quả tất nhiên của lịch sử cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX đồng thời là sản phẩm của tài năng, của tư chất thông minh Hồ Chí Minh
1.1.3. Phẩm chất và tài năng của Hồ Chí Minh
Như trên đã nói, phép biện chứng duy vật được C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng từ
giữa thế kỷ XIX và trước Hồ Chí Minh đã có nhiều người ra đi tìm đường cứu nước, nhưng
tại sao chỉ có Hồ Chí Minh mới tiếp cận được với chủ nghĩa Mác- Lênin, mới nhận thức và
vận dụng phép biện chứng duy vật một cách có hệ thống? Có thể nói, ngồi những yếu tố,
những điều kiện khách quan như vừa trình bày ở trên (tinh hoa văn hóa dân tộc, hoàn cảnh
Việt Nam đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác- Lênin, của phép biện chứng duy
vật), tư tưởng về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật còn là kết quả tất yếu của
những phẩm chất cá nhân, của tài năng Hồ Chí Minh. Khơng có những phẩm chất cá nhân
đặc biệt, khơng có tài năng vượt trội của Hồ Chí Minh thì cũng khơng thể có tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật nói riêng.
Hồ Chí Minh ra đời trong một gia đình nhà Nho yêu nước, nơi một vùng quê nổi
tiếng, có truyền thống hiếu học. Thân phụ của ông là người người học rộng, đỗ đến phó
14
bảng. Những người đứng hàng phụ chấp của Hồ Chí Minh cũng đều là những chí sĩ uyên
thâm về Nho học. Bản thân Hồ Chí Minh hồi nhỏ được theo học chữ Hán, tuy không đỗ đạt
cao nhưng cũng đạt đến sự thuần thục nhất định. Người đến với Nho giáo nhưng khơng tự
biến mình thành nhà Nho, khơng phụ thuộc vào Nho giáo. Những cái gì hay của Nho giáo
đã được lịch sử và thực tiễn Việt Nam gạn lọc thì Hồ Chí Minh tiếp nhận và nâng cao, như
tư tưởng dân là gốc nước (“dân vi bang bản”), vấn đề chăm lo đời sống cho dân (“túc thực,
túc binh, dân ái, dân tín, chí hĩ”), vấn đề khắc kỷ, tu thân, vấn đề trung, hiếu…, cịn những
gì hạn chế của Nho giáo, như vấn đề coi thường phụ nữ, vấn đề hạ thấp, coi khinh lao động
chân tay, vấn đề phân biệt đẳng cấp,… thì Người khơng nhắc đến hoặc phê phán rõ ràng.
Khơng chỉ có Nho giáo, Hồ Chí Minh cũng quan tâm đến Phật giáo. Phật giáo du nhập vào
Việt Nam từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất và có ảnh hưởng lớn đến văn hóa Việt Nam, đặc biệt
vào thời đầu xây dựng nhà nước độc lập của nhà Lý- Trần. Phật giáo được coi như quốc
giáo và đã có nhiều đóng góp vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hình thành nên
những nét văn hóa đặc sắc trong giai đoạn này. Những tư tưởng từ bi, vị tha, cứu khổ, cứu
nạn, thương người như thể thương thân,.. cũng đã được Hồ Chí Minh gạn lọc, tiếp thu.
Khi trưởng thành, Người vẫn tiếp tục tìm hiểu văn hóa phương Đơng, đặc biệt là
những trào lưu tư tưởng mới ở Ấn Độ và Trung Hoa mà điển hình là tư tưởng của M. Găng
đi và chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn. Người tìm thấy ở chủ nghĩa tam dân “những
điều thích hợp với điều kiện nước ta” đó là tư tưởng về dân tộc độc lập, dân quyền tự do,
dân sinh hạnh phúc.
Từ đó cho thấy, ngay từ bé, Hồ Chí Minh đã thể hiện những phẩm chất và tài năng
của một vị lãnh tụ sau này, Người thật sự cầu thị, ln chịu khó học hỏi nhưng vẫn có tư
duy độc lập khi đánh giá và tiếp thu các giá trị văn hóa dân tộc cũng như tinh hoa văn hóa
nhân loại. Người nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương
pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù
hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-su, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có
những điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc
cho xã hội...".
15
Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy".
Sau này, khi bơn ba tìm đường cứu nước chính là thời gian Người được tiếp xúc với
văn hóa và khoa học phương Tây. Với sự nỗ lực rèn luyện và học tập, tham gia không biết
mệt mỏi vào phong trào công nhân, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, Người đến
nhiều nước, tiếp xúc với nhiều nền văn minh, nói và viết thơng thạo nhiều thứ ngơn ngữ.
Nhờ vậy, Người chiếm lĩnh được những tri thức tiên tiến của thời đại, những kinh nghiệm
phong phú của nhân loại, đặc biệt là những kinh nghiệm đấu tranh trong phong trào cơng
nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Chính điều đó đã hun đúc nên
một Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với óc phê phán tinh tường làm
cho Người trở nên hết sức sáng suốt khi tiếp nhận tinh hoa văn hóa của bốn phương, nhân
loại.
Cùng với tư duy độc lập, sáng tạo, óc phê phán tinh tường, ở Hồ Chí Minh cịn có
một trái tim nhân hậu, một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu bao la, yêu quê hương, yêu đất
nước, yêu con người.
Tất cả những điều đó đã làm nên một minh triết Hồ Chí Minh- cội nguồn của tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung trong đó có tư tưởng về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật.
1.2.
Đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện
chứng duy vật
Điều quan trọng nhất ở Hồ Chí Minh, cái làm nên nhân cách vĩ đại, nên nét riêng ở
con người Hồ Chí Minh là lời nói đi đôi với việc làm, nhận thức và thực tiễn là gắn bó
khăng khít, tư tưởng và hành động là ln thống nhất với nhau. Chính điều đó địi hỏi chúng
ta khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh khơng được tách rời với cuộc sống và hoạt động
của Người. Phép biện chứng duy vật qua lăng kính của Người khơng chỉ được bộc lộ qua lời
nói mà cịn qua hành động, không chỉ thể hiện ở các bài viết, bài huấn luyện mà cả ở trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, trong cuộc sống của Hồ Chí Minh. Với cách đặt vấn đề như
vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật có các đặc
điểm cơ bản: tính sáng tạo, tính thiết thực và tính giản dị.
16
1.2.1. Tính sáng tạo
Biểu hiện rõ nhất, sinh động nhất của tính sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhận thức và vận dụng phép biện chứng duy vật nói riêng là chống giáo điều, chống
rập khn, máy móc từng câu, từng chữ của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin.
Trong di sản tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh nói rất nhiều, rất sâu sắc và đấu tranh
khơng khoan nhượng với bệnh máy móc, giáo điều. Là người lãnh đạo, Hồ Chí Minh nhận
thấy bệnh máy móc, giáo điều đã ảnh hưởng đến cách nghĩ, cách làm, đến năng lực nhận
thức và hành động, đến sự tiến bộ của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Người nói: “Từ trước
tới nay, Đảng ta đã cố gắng liên hệ chặt chẽ chủ nghĩa Mác- Lênin với thực tế cách mạng
Việt Nam. Cán bộ và đảng viên ta nói chung đều có phẩm chất cách mạng tốt đẹp. Nhưng
chúng ta cịn nhiều khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh
nghiệm, tác phong quan liêu, chủ nghĩa cá nhân…. Những khuyết điểm ấy ngăn trở sự tiến
bộ của các đồng chí chúng ta. Chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác- Lênin… Chúng
ta phải ra sức học tập có sáng tạo kinh nghiệm của các đảng anh em”. [10,201]
Người không chấp nhận cách nghĩ, cách làm việc máy móc, giáo điều, thiếu sáng tạo.
Người coi cách nghĩ, cách làm việc máy móc, giáo điều là một thứ bệnh có hại cho cơng
việc cách mạng cần phải khắc phục, loại bỏ. Đáng tiếc rằng, không ít cán bộ ta, trong nhiều
lĩnh vực công tác thường mắc phải căn bệnh này. Chẳng hạn, trong công tác tuyên truyền,
vận động quần chúng nhiều cán bộ, đảng viên ta vẫn chưa thoát ra khỏi bệnh giáo điều sách
vở. Bác chỉ ra và nhắc nhở: “Cán bộ khu về tỉnh, cán bộ tỉnh về huyện, cán bộ huyện về
làng thì khệnh khạng như “ ơng quan”. Lúc khai hội thì trăm lần như một: “ Tình hình thế
giới, tình hình Đơng Dương, thảo luận, phê bình, giải tán”.
“Ơng cán” làm cho một “tua” hai, ba giờ đồng hồ. Nói gì đâu đâu.. Cịn cơng việc thiết thực
trong khu, trong tỉnh, trong huyện, trong xã đó thì khơng động đến”. [5,247]
Máy móc đến mức: “ Có cán bộ đem “ kinh tế học” huấn luyện cho chị em phụ nữ thôn quê
ở thượng du”. [5,248]
Bởi thế, trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, muốn làm cho quần
chúng hiểu được đường lối chủ trương của Đảng, từ đó mà làm theo thì cán bộ làm cơng tác
tun truyền khơng thể giáo điều, máy móc. Để tránh bệnh máy móc, giáo điều, cán bộ làm
17
công tác huấn luyện phải luôn luôn đi sâu, đi sát, tìm hiểu tâm tư, nguyên vọng, tìm hiểu
tình hình thực tế của địa phương, trình độ hiểu biết của nhân dân, từ đó suy nghĩ tìm tịi,
sáng tạo những hình thức, những cách làm phù hợp, thiết thực. Tại hội nghị tuyên giáo miền
núi, khi nói chuyện với các cán bộ tuyên truyền, Bác tỏ ra rất am hiểu những thiếu sót của
cán bộ, trong đó, thiếu sót nặng nề nhất là bệnh giáo điều, không chịu suy nghĩ, thiếu sáng
tạo. Vì vậy, Bác dặn: “ Cơng tác tun truyền phải cụ thể, thiết thực. Tuyên truyền cái gì?
Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cách thế nào? Đó là những vấn
đề các chú phải tự hỏi, tự trả lời… Ví dụ: Một tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo, thì
tuyên truyền huấn luyện đối với đồng bào Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay
đổi cho thích hợp. Bởi vì đời sống, trình độ đồng bào Mèo và Thái khác nhau cho nên tuyên
truyền huấn luyện phải khác”.[11,128]
Người phê phán một số cán bộ đảng viên được học phép biện chứng duy vật, tiếp
thu chủ nghĩa Mác, nhân danh chủ nghĩa Mác nhưng khi tiếp thu kinh nghiệm của người
khác, của nước khác thì lại giáo điều, máy móc đến mù quáng: “ Thấy người ta làm thế nào
mình cũng một mực bắt chước làm theo thế ấy. Thí dụ: nghe người ta nói giai cấp đấu tranh,
mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà khơng xét hồn cảnh nước mình như thế nào
để làm cho đúng”. Bác khuyên cán bộ, đảng viên “phải biết khéo léo lợi dụng kinh
nghiệm”.[5,272]
“Có hợp tác xã thì học Đại Phong một cách máy móc như thấy Đại Phong ni vịt có lãi, thì
hợp tác xã mình dù khơng có điều kiện cũng muốn nuôi vịt…” .[10,343]
Người cũng nhắc nhở rằng “ học Đại Phong phải học một cách sáng tạo”.[10,343]
Ngày 26 tháng 1 năm 1965 nhân cuộc nói chuyện với các cán bộ tại Hội nghị bồi
dưỡng chỉnh huấn do Trung ương triệu tập, mừng kỷ niệm đảng ta 35 tuổi, khi nói về sự
thắng lợi của Đảng và nhân dân ta, Hồ Chủ tịch khẳng định: “ Có thắng lợi vĩ đại ấy là vì:…
Đảng ta đã biết vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh nước ta một cách sáng tạo để
nêu ra đường lối chính sách đúng đắn, bảo đảm cho cách mạng phát triển thắng lợi”.
[11,372]
Biểu hiện tập trung của tính sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức
và vận dụng phép biện chứng duy vật là Người đã vận dụng phép biện chứng một cách
18
linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể của cách mạng Việt Nam, thực tiễn
Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời vào thế kỷ XIX ở châu Âu, khi phương thức sản xuất
TBCN đã ra đời và phát triển, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
TBCN được biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
đã trở nên gay gắt. Bởi thế, theo chủ nghĩa Mác- Lênin, vơ sản tồn thế giới liên hiệp lại,
đứng lên làm cách mạng vô sản là tất yếu nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản, cho nên chủ nghĩa Mác- Lênin đề cao vấn đề giai cấp. Đối với Việt Nam,
không giống như các nước châu Âu, bước sang đầu thế kỷ XX, Việt Nam vẫn là quốc gia
thuộc địa nửa phong kiến. Xuất phát từ đặc điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh cho rằng, ở Việt
Nam, vấn đề giai cấp gắn bó mật thiết với vấn đề dân tộc, khơng có giai cấp chung chung
đứng ngồi dân tộc, giai cấp và dân tộc liên hệ với nhau một cách uyển chuyển và biện
chứng. Trong hoàn cảnh mất nước thì quyền lợi dân tộc được đặt lên trên quyền lợi giai cấp,
vì có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một
phần giải phóng giai cấp, tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi để giải phóng giai cấp. Theo Hồ
Chí Minh, nếu khơng giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, khơng địi được tự do cho
dân tộc thì chẳng những quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được. Chính vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng,
khơng nên áp dụng chủ nghĩa Mác một cách máy móc, thấy người ta làm thế nào mình cũng
làm như thế, người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh:
“Thấy người ta làm thế nào mình cũng một mực bắt chước làm theo thế ấy. Thí dụ: nghe
người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà khơng xét
hồn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”.[5, 272] Với phương pháp tư duy sáng
tạo đó, Người đã vạch ra Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt hết sức tài tình, cái mà
Luận cương chính trị đã khơng nhận ra và nắm vững những đặc điểm của xã hội thuộc địa,
nửa phong kiến Việt Nam. Thứ hai, do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc và
giai cấp trong cách mạng ở thuộc địa, và lại chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng “tả”
của Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản trong thời gian đó.
Khơng chỉ chống máy móc, Hồ Chí Minh là bậc thầy về việc vận dụng phép biện
chứng duy vật một cách hết sức nhuần nhuyễn trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách
mạng. Phép biện chứng duy vật thơng qua lăng kính Hồ Chí Minh khơng cịn là những
19