Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tải Phân tích khổ thơ thứ ba của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Dàn ý + 6 bài phân tích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.72 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích khổ thơ thứ ba của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Ngữ văn 11</b>
<b>Dàn ý chi tiết </b>


<b>1/ Mở bài</b>


Giới thiệu tác phẩm: Giữa những bài thơ có phần điên loạn, dữ dội theo phong
cách đặc trưng của Hàn Mặc Tử vẫn có những bài thơ thật trong sáng, tinh
khơi, Đây thơn Vĩ Dạ là bài thơ như thế. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ ba của bài,
hình ảnh vầng trăng một lần nữa xuất hiện nhưng đó khơng phải vầng trăng
máu đầy dữ dội nữa mà ánh trăng thật nhẹ nhàng cũng thật buồn khi thể hiện
niềm khát khao tình đời, tình người của người thi sĩ.


<b>2/ Thân bài</b>


– Khổ thơ cuối của bài, tác giả đã đắm chìm trong thế giới hư ảo với ánh trăng
ảo mộng cùng khát khao mãnh liệt đối với cuộc đời.


– Cuộc đời của người thi sĩ là một chuỗi những nỗi buồn không dứt nhưng dù
bị cuộc đời vùi dập, tuyệt giao thì tình yêu cuộc đời của người thi sĩ ấy càng trở
nên mãnh liệt hơn, tha thiết hơn.


– Thực tại quá đau đớn, tác giả đã thoát ly hiện tại để trở về với cõi mộng để
tìm chút bình yên cho tâm tâm hồn.


– Tác giả Hàn Mặc Tử đã nhấn mạnh trạng thái mộng tưởng bằng cách điệp hai
lần từ “mơ” “mơ khách đường xa, khách đường xa”.


– Tuy hoàn tồn chìm đắm trong mộng tưởng nhưng ẩn sâu bên trong giấc
mộng ấy lại là khát khao đầy thành thực.


–> Mơ khách đường xa là khát khao được một lần gặp lại người xưa trước khi


lìa khỏi cõi đời của tác giả nhưng càng mong mỏi thì giấc mơ càng trở nên xa
vời, khắc khoải.


– Trong không gian hư ảo của cõi mộng, hình ảnh áo trắng của “em” như bị lẩn
khuất trong cái bằng bạc của sương khói khiến cho thị giác khó có thể tiếp
nhận, để phân biệt thực hư “áo em trắng q nhìn khơng ra”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

– Sự mờ ảo của không gian cũng làm cho câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà”
trở nên khắc khoải hơn, da diết hơn.


– Câu hỏi tu từ khơng có lời giải chứa đựng sự bất an đầy hồi nghi về tình cảm
của người con gái xứ Huế dành cho mình, đó liệu có phải chân tình hay chỉ là
sự ảo tưởng từ bản thân của nhà thơ.


<b>3/ Kết bài: Như vậy, khổ thơ cuối của bài “Đây thơn Vĩ Dạ” đượm màu sắc</b>
đượm buồn, có chút hoài nghi, bất an lại tha thiết chân thành của một tâm hồn
cô đơn đang khát khao sống mãnh liệt.


<b>Bài tham khảo </b>


Hàn Mặc Tử là nhà thơ tài hoa, có sức sáng tạo mạnh mẽ bậc nhất trong phong
trào thơ Mới ở Việt Nam những năm 30. Tài hoa là thế nhưng cuộc đời Hàn
Mặc Tử là một chuỗi những nỗi buồn, nỗi cô đơn đến ám ảnh. Những tâm sự,
suy tư của ông được thể hiện đầy ám ảnh trong những sáng tác thơ văn, đặc
biệt thông qua những biểu tượng thơ “máu”, “trăng”, “vầng trăng máu”. Giữa
những bài thơ có phần điên loạn, dữ dội ấy vẫn có những bài thơ thật trong
sáng, tinh khơi, Đây thơn Vĩ Dạ là bài thơ như thế. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ
ba của bài, hình ảnh vầng trăng một lần nữa xuất hiện nhưng đó khơng phải
vầng trăng máu đầy dữ dội nữa mà ánh trăng thật nhẹ nhàng cũng thật buồn khi
thể hiện niềm khát khao tình đời, tình người của người thi sĩ.



Nếu như khổ thơ đầu tác giả Hàn Mặc Tử đã kỳ công vẽ ra bức tranh thiên
nhiên thơn Vĩ trong trẻo, đắm say lịng người trong ánh nắng của ngày mới,
khổ thơ thứ hai là khung cảnh sông nước, mây trời tuyệt đẹp nhưng thấm đượm
nỗi đau đớn, xót xa của con người da diết yêu đời nhưng sắp phải lìa xa cuộc
đời ấy thì đến khổ thơ cuối của bài, tác giả đã đắm chìm trong thế giới hư ảo
với ánh trăng ảo mộng cùng khát khao mãnh liệt đối với cuộc đời.


<i>“Mơ khách đường xa khách đường xa</i>


<i>Áo em trắng quá nhìn khơng ra</i>


<i>Ở đây sương khói mờ nhân ảnh</i>


<i>Ai biết tình ai có đậm đà”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nên mãnh liệt hơn, tha thiết hơn. Thực tại quá đau đớn, tác giả đã thoát ly hiện
tại để trở về với cõi mộng để tìm chút bình yên cho tâm tâm hồn. Cảm xúc bao
trùm khổ thơ cuối là màu sắc hư vô, huyền ảo với thực giả lẫn lộn.


Tác giả Hàn Mặc Tử đã nhấn mạnh trạng thái mộng tưởng bằng cách điệp hai
lần từ “mơ” “mơ khách đường xa, khách đường xa”. Tuy hồn tồn chìm đắm
trong mộng tưởng nhưng ẩn sâu bên trong giấc mộng ấy lại là khát khao đầy
thành thực. Mơ khách đường xa là khát khao được một lần gặp lại người xưa
trước khi lìa khỏi cõi đời của tác giả nhưng càng mong mỏi thì giấc mơ càng
trở nên xa vời, khắc khoải.


<i>“Áo em trắng quá nhìn khơng ra”</i>


Trong khơng gian hư ảo của cõi mộng, hình ảnh áo trắng của “em” như bị lẩn


khuất trong cái bằng bạc của sương khói khiến cho thị giác khó có thể tiếp
nhận, để phân biệt thực hư “áo em trắng q nhìn khơng ra”. Câu thơ thể hiện
sự chống ngợp, nghẹn ngào lại có chút xót của thi sĩ vì dù cố gắng nhưng
chẳng thể nhìn rõ ràng, sự tồn tại của em mãi trong thế giới tâm tưởng mà
khơng thể trở thành hiện thực.


<i>“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”</i>


“Ở đây” có thể là khơng gian hiện thực của xứ Huế với khung cảnh sáng sớm
vẫn còn thấm hơi sương cũng có thể là sương khói mờ ảo của khơng gian tâm
tưởng, nơi tác giả đang chìm đắm với những tâm sự, nỗi đau, sự tuyệt vọng
riêng. Sự mờ ảo của không gian cũng làm cho câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm
đà” trở nên khắc khoải hơn, da diết hơn.


Câu hỏi tu từ khơng có lời giải chứa đựng sự bất an đầy hoài nghi về tình cảm
của người con gái xứ Huế dành cho mình, đó liệu có phải chân tình hay chỉ là
sự ảo tưởng từ bản thân của nhà thơ. Với tình cảnh hiện tại, liệu rằng tình cảm
người xưa có đổi thay. Sự bất an thường xuyên xuất hiện trong những câu thơ
của Hàn Mặc Tử “Cảnh xưa cịn đó, lịng người đổi thay”.


Như vậy, khổ thơ cuối của bài “Đây thơn Vĩ Dạ” đượm màu sắc đượm buồn,
có chút hồi nghi, bất an lại tha thiết chân thành của một tâm hồn cô đơn đang
khát khao sống mãnh liệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

"Mai sau, những cái tầm thường, mực thước sẽ biến đi và còn lại của cái thời
kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử" đó chính là những lời tâm huyết mà
Chế Lan Viên đã nhận định về Hàn Mặc Tử một thi sĩ tài hoa nhưng số mệnh
quá ngắn ngủi, đau thương. Có thể nói rằng sự xuất hiện của ông đã khiến nền
thơ Mới những năm 1932-1941 có nhiều điểm nhấn mới mẻ, một phong cách
tượng trưng siêu thực đặc trưng của phương Tây dần len lỏi vào nền thơ ca vốn


quen lối mực thước, lễ giáo của Việt Nam ta. Để tìm đến với những gì "điên",
cái tơi cá nhân mạnh mẽ, và những khao khát sâu thẳm bên trong con người
bao gồm nhục cảm và thân xác, những đề tài vốn được coi là hết sức "nhạy
cảm" buổi đương thời. Hồn thơ Hàn Mặc Tử mang đủ trong mình những
khuynh hướng trữ tình lãng mạn của thơ Mới như Xuân Diệu, Huy Cận cùng
tha thiết, cũng chứa đựng những vẻ đẹp thanh khiết thiêng liêng, trong ngần mà
Nguyễn Bính, hay Thế Lữ hằng tơn thờ, chỉ khác rằng thơ của Hàn Mặc Tử còn
chứa đựng cả những gì rùng rợn, kinh dị và ghê gớm nhất, để mang đến một
chất thơ khiến người đời không ngừng bối rối và ngẫm ngợi. Đây thôn Vĩ Dạ là
một bài thơ được xem là nổi bật và thành công nhất của Hàn Mặc Tử với
những vần thơ rất đẹp, rất trong, người thi sĩ cận kề cái chết, trong tuyệt vọng
và bế tắc vẫn yêu đời yêu sống một cách tha thiết đến xót xa. Người vui trong
khổ thơ đầu tiên với cảnh bình minh thơn Vĩ, gượng vui trong khổ thơ thứ hai
với đêm trăng bên dòng Hương giang. Và cuối cùng trong khổ thơ thứ ba,
người ta lại thấy thấp thống đâu đó cái hồn thơ điên cuồng, kỳ dị của Hàn Mặc
Tử, đau xót, mênh mang, vô định.


"Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh


Ai biết tình ai có đậm đà"


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Một người lữ khách trong chốn sương khói mịt mù, thấp thống với dáng áo
trắng hư hư thực thực, có lẽ là bóng của một giai nhân trong mộng Hàn Mặc Tử
như Hồng Thị Kim Cúc chăng? Như vậy có thể thấy rằng câu thơ đầu tiên
"Mơ khách đường xa khách đường xa", cõi đời đã hiện lên một cách rõ ràng
thông qua hình bóng một giai nhân mà tác giả trực tiếp xưng "em" ở câu thơ
tiếp. Tuy nhiên rằng "khách đường xa" ở trong thơ Hàn Mặc Tử lại đem đến
cảm giác xa lạ, đặc biệt là nó được lặp lại đến hai lần trong một câu thơ để diễn


tả cái khoảng cách, âm hưởng xa dần của vị "khách", của bóng giai nhân trong
tâm tưởng nhà thơ. Cách viết này của Hàn Mặc Tử có đơi phần giống với
Nguyễn Bính trong câu thơ "Anh đi đấy, anh đi đâu/ Cánh buồm nâu, cánh
buồm nâu, cánh buồm", gợi tả sự xa dần, mất dần của sự vật. Thì hình tượng
"khách đường xa" cũng vậy, nó được lặp lại hai lần với nhịp thơ tha thiết, gợi
tả cảm giác xa dần, xa dần vượt ra khỏi tầm mắt và tầm tay của thi nhân. Đặc
biệt nữa vị "khách đường xa" mang đến cõi đời trong thơ của Hàn Mặc Tử lại
cũng khơng phải ở cõi thực mà nó nằm trong cõi "mơ", giấc mơ tan thì người
cũng mất. Chưa có lúc nào lại có một hình tượng thơ lạ lùng đến thế, hình
tượng con người xuất hiện như ảo ảnh, vừa xa lạ, vừa vận động xa dần, lại vừa
không thể nắm bắt được, rất vô định và mênh mang. Và Hàn Mặc Tử một con
người đang tuyệt vọng và bế tắc trong lãnh cung của cuộc đời, vốn dĩ đã khơng
có gì để dựa dẫm, hy vọng đành tìm đến cõi người ở trong mơ. Người thi sĩ tài
hoa, bạc mệnh ấy đã chới với, cố gắng níu kéo lại cái cõi đời, cái hơi ấm tình
người dẫu chỉ là trong mơ bằng mọi nỗ lực, mọi cố gắng, người cố nhìn cho rõ
cái thân ảnh giai nhân trong mộng, cố sao có thể bắt được chút bóng hình quen
thuộc, đó liệu có phải nàng Kim Cúc, hay Mộng Cầm, hay một ai khác, chàng
không biết. Thế nhưng rốt cuộc, người nghệ sĩ dường như đuổi không kịp, với
không tới, ánh mắt người cũng nhìn khơng thấu, bởi "Áo em trắng q nhìn
khơng ra". Hai từ "trắng q" gợi tả sự tột cùng của sắc trắng, nó đã vượt qua
khỏi tầm nhận biết của thị giác, hình bóng người giai nhân bây giờ đã mất hết
đường nét, chỉ để lại một khoảng trắng vơ định và hẫng hụt trong lịng thi nhân,
chính thức đánh dấu sự bất lực và tuyệt vọng của tác giả trong q trình níu kéo
cõi đời, hơi ấm tình người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

khói mờ nhân ảnh", hình tượng thơ vơ cùng siêu thực tượng trưng. Đó là một
thế giới mang sự lạnh lẽo, mịt mờ của khói sương, thiếu vắng hình bóng, hơi
ấm của con người, là nỗi đau đớn nhất của Hàn Mặc Tử khi phải chống chọi
một mình với bệnh tật, khơng người sẻ chia, bị cách ly khỏi xã hội và đợi chờ
thần chết đến tìm mình trong tuyệt vọng. Bản thân thi sĩ khơng thể bước ra thế


giới ngồi kia và thế giới ngồi kia cũng chẳng thể tìm đến với lãnh cung của
người thi sĩ. Chỉ có duy nhất một sợi dây vơ hình liên hệ giữa hai thế giới khác
biệt ấy là tình cảm tha thiết, sâu nặng của người thi sĩ với cuộc đời, với thiên
nhiên ngoài kia vẫn luôn đầy ắp trong tâm tưởng, trong những vần thơ lúc
trong trẻo, thanh khiết lúc rớm máu đau thương. Tuy nhiên Hàn Mặc Tử ơm
chữ "tình" như lá bùa hộ mệnh ấy lại có những lúc hồi nghi "ai biết tình ai có
đậm đà", người sợ chỉ có mình đơn phương, ơm những tình cảm sâu đậm, cịn
chẳng hay người ngồi kia có đối với mình như thế hay khơng, hoặc là nỗi băn
khoăn không biết rằng liệu giai nhân, liệu Kim Cúc có thấu hiểu cho cái nỗi
lịng tha thiết đến khốn khổ của mình dành cho nàng hay khơng. Dù hiểu theo
cách nào đi chăng nữa, thì cũng thể hiện rõ một điều rằng Hàn Mặc Tử ý thức
vô cùng sâu sắc về sự mong manh của sợi dây giao nối tình cảm giữa hai thế
giới này, người sợ một ngày nào đó nó sẽ đứt mất, và người vĩnh viễn phải
giam mình trong cái lãnh cung vơ sắc, vơ vị và lạnh lẽo này.


Có thể thấy khổ thơ thứ 3 trong Đây thơn Vĩ Dạ chính là điểm nhấn đặc trưng
của thơ Hàn Mặc Tử, là sự phân chia giữa thế giới bên ngoài tươi đẹp, ấm nóng
tình người và thế giới bên trong vơ định, lạnh lẽo. Từ đó bộc lộ ra những khát
khao sống, khát khao được hịa nhập và với cuộc sống bình thường một cách
mãnh liệt của nhà thơ, dẫu biết rằng tất cả chỉ là vơ vọng và đau khổ. Hình
tượng thơ kỳ dị, mang đậm phong cách siêu thực tượng trưng đã mang đến cho
người đọc nhiều tầng cảm xúc, kích thích sự tư duy, suy tưởng của độc giả
nhiều thế hệ, để lại những ấn tượng sâu sắc về một hồn thơ kỳ dị, điên cuồng
và đau thương nhất trong nền thơ Mới của dân tộc.


<b>Bài làm 3</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

của ơng giằng cho người mình u. Khổ thơ cuối bài là dịng tâm trạng mơ hồ,
kì ảo.



Từ giọng khắc khoải da diết ở khổ 2 thì sang khổ 3 đã chuyển thành giọng gấp
gáp, khấn khoản, niềm khao khát được gắn liền với hình bóng cụ thể:


“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra.”


Hình bóng cụ thể lúc đầu là khách đường xa, lúc sau là em với tà áo trắng tinh
khơi. Hình tượng giai nhân từ khách đường xa mà dần dần thành em với giấc
mộng dài say đắm. Khách đã xa vời mà giờ đây khách đường xa lại càng xa xôi
diệu vời mà gắn với nó là “mơ” lại càng hư ảo. Có phải những hình bóng ấy dù
đẹp nhưng nó vẫn thuộc về thế giới ngoài kia của quá khứ và với thi sĩ nó chỉ
hiện hữu bằng một giấc mơ dài. Hàn Mặc Tử với mong muốn gặp được khách,
gặp được giai nhân nhưng mong muốn ấy của ông sẽ không trở thành hiện thực
bởi chỉ trong mơ ông mới dám mơ ước về điều ấy.


Ở câu thơ thứ hai thì “áo em trắng quá”. Từ “quá” chung sắc thái biểu cảm
tiếng kêu phát hiện trầm trồ ngỡ ngàng về vẻ đẹp giai nhân hiện hữu. Sắc trắng
hiện ra khơng ít hai lần: trong văn học trung đại thì đó là cái trắng tang tóc, cái
màu trắng đau thương, buồn dường như nói về sự ra đi, chia tay. Cịn trong văn
học hiện đại thì đó là một sắc trắng mới, tràn đầy màu sắc và tươi trẻ hơn. Đó
là cái trắng tinh khơi, tinh khiết. Quả thực Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm
mới mẻ, một quan niệm thẩm mĩ cách tân, hiện đại.


Đó là sắc màu tinh khiết thánh thiện. Nó gắn với một kí ức xa xôi về người con
gái gắn với sắc màu tinh khiết “nhìn khơng ra” cực tả sắc áo vừa gợi vẻ đẹp xa
vời khó nắm bắt như thực mà lại như mơ nghĩa là có một nét vè đẹp mà nhà thơ
mãi tôn thờ đang tuột dần khỏi tầm tay. Đúng lúc hình bóng giai nhân hiện về
rõ nét nhất trong tâm tưởng, lung linh nhất thì lại tuyệt vọng nhất. Nhà thơ
mượn giấc mơ nhưng lại nói về cái thực đang diễn ra trong tâm hồn con người.
Nhưng đến hai câu thơ cuối:



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Chủ thể trữ tình trở về với thế giới thực của mình từ thế giới ngồi kia đầy xót
xa với thực tại đau thương, đầy chia lìa với sự ám ảnh của cái chết:


“Tơi đang cịn đây hay ở đâu
Ai đem tơi bỏ xuống trời sâu.”
Hoặc:


“Trời hỡi bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được u vì.”


Trong “Đây thơn Vĩ Dạ” sự trở lại của “sương khói mờ nhân ảnh”. Nó là sương
khói của thực tại xứ Huế hay là sương khói của dòng thời gian khiến cho tất cả
trở nên xa vời hư ảo “mờ nhân ảnh”. Cau hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?” đã
kết lại bài thơ một cách đầy khắc khoải. “Ai” động từ phiếm chỉ vang lên khiến
câu thơ xa vắng có chút hụt hẫng có thể là tác giả hay người con gái. Chỉ biết
rằng nó khép bài thơ lại trong nỗi buồn mênh mang khắc khoải đầy xót xa
trong khát khao khơn ngi về tình đời, tình người.


Câu thơ cuối có thể hiểu theo hai cách. Đó là người con gái xứ Huế có biết tình
cảm của nhà thơ sâu đậm đến đâu hay nhà thơ có biết cơ gái cũng có tình cảm
với mình. Nhưng hiểu theo cách nào vẫn là chia sẽ thấu hiểu và được yêu
thương dẫu cô đơn, đớn đau tuyệt vọng nhưng không thôi khao khát. Nhưng dù
tuyệt vọng dù cô đơn đau đớn nhưng tác giả vẫn không nguôi đầy khát khao.
Hàn Mặc Tử dù đang phải đối mặt với bệnh tật, trải qua những đớn đau nhưng
không bao giờ ông tuyệt vọng mà luôn mong về một cuộc sống mới, khát khao
được sống.


Khổ thơ dường như đọng đến trái tim người đọc thấu hiểu được những ước mơ,
khát vọng mà Hàn Mặc Tử muốn có dù nó rất đời thường nhưng với tác giả nó


vơ cùng thiêng liêng. Khổ thơ đã dạy ta cách trân trọng cuộc sống này hơn.
<b>Bài tham khảo 4</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tinh khôi như ánh ban mai, trong trẻo như nước suối đầu nguồn. Rút ra từ tập
“Thơ điên”, “Đây thôn Vĩ Dạ” là những vần thơ tinh khôi trong trẻo trong gia
tài Hàn Mặc Tử nhưng vẫn ẩn chứa tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời. Nếu
khổ thơ đầu tiên diễn tả vườn Vĩ Dạ buổi ban mai, khổ thứ hai là đêm trăng xứ
Huế cùng với những mặc cảm, chia lìa, xa cách thì khổ thơ thứ ba lại nói về
hình bóng khách đường xa va nỗi niềm mơ tưởng của thi sĩ:


Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh


Ai biết tình ai có đậm đà?


Bị cuộc đời tuyệt giao, nhưng Hàn Mặc Tử khơng bao giờ chịu tuyệt tình.
Càng chia lìa, càng bị cuộc đời bỏ rơi, thi sĩ càng yêu đời thiết tha, đắm say đến
đau đớn. Ao ước trở về thôn Vĩ không thành, thi sĩ lại mơ tưởng đến người
thương thôn Vĩ: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Thật xót xa trong giấc
mơ, người thương đã thành khách đường xa. Lời gọi “khách đường xa, khách
đường xa” chất chứa biết bao nhiêu mặc cảm chia li, xa cách. Nỗi cách chở
chia li như nhân lên trùn trùng qua nghệ thuật điệp liên tiếp 4/3. Ta tưởng như
trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng người lính vừa chợt hiện lên đã mờ dần,
khuất xa, mất hút. Người tình xưa như đang chạy trốn ta vậy. Câu thơ tự sự mà
mang âm diệu của tiếng nấc nghẹn ngào, của lời than chới với, hụt hẫng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

say tột bậc trước vẻ đẹp tinh khôi, trinh nguyên, thanh tiết đến tuyệt vời của
người mình yêu dấu. Cùn với vườn ngọc, trăng huyền ảo, hính bóng trinh
ngun của người khách đường xa đã hợp thành thế giới ngoài kia, lộng lẫy,


quyến rũ. Nhưng cũng giống như những hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng
đông, sông nước xứ Huế đêm trăng đi liền với niềm đắm say tột bậc là nỗi đau
thương đến xót xa. Câu thơ khơng chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị
giác mà là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngồi kia
cả nghìn thế giới, cả một tầm tuyệt vọng.


Mơ tưởng về người thơn Vĩ, thi sĩ khơng sao thốt khỏi nỗi đau thương, hình
ảnh người tình xa càng lộng lẫy thì khoảng cách càng đẩy xa vời vợi. Cuối
cùng, thi sĩ đành ngậm ngùi mà trở về với thực tại: “Ở đây sương khói mờ nhân
ảnh”. “Ở đây” là khơng gian nào, Vĩ Dạ mộng mơ hay trại phong lạnh lẽo, là
lãnh cung chia lìa mà ngày đêm thi sĩ đang một mình chống chọi ác qi. Ở đây
sương khói mịt mù, vùi lấp cả bóng người. Sương khói nào mà lại có sức phủ
ghê gớm đến vậy. Đó chỉ có thể là sương khói của thời gian xa cách đằng đẵng,
của khơng gian xa cách nghìn trùng, của mối tình đơn phương vơ vọng, của
mặc cảm chia lìa. Những lớp sương khói mịt mù, trùng trùng ấy đã phủ kín
hình ảnh, bóng ảnh. Thành thử, thi sĩ ơ nơi này mà như khơng cịn tồn tại nữa.
Trong câu thơ như có tiếng người khổ đau của kiếp người lãng qn:


Tơi đang ở đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu


Mọi thứ trên cõi đời này đều quay lưng với Hàn Mặc Tử. Chỉ có chút tình
kia là sợi dây duy nhất níu buộc thi sĩ với cuộc đời. Thế mà cái tình kia cũng
mong manh, xa với lắm: “Ai biết tình ai có đậm đà”. Đại từ phiếm chỉ “ai”
được sử dụng linh hoạt biến hóa đem đến cho câu thơ những hàm nghĩa phong
phú, thú vị. Có thể hiểu thơ là “Em có biết tình anh vẫn đậm đà”. Hiểu thư thế,
câu thơ là lời khẳng định tình cảm tha thiết, sâu đậm mà thi sĩ luôn dành cho
người em Vĩ Dạ. Ẩn sau lời bày tỏ tha thiết ấy là chút giận hớn trách móc. Sao
em vơ tâm khơng thấu hiểu lịng anh. Lại có thể hiểu ý thơ theo hướng khác:
“Anh nào có biết tình em có đậm đà hay khơng?”. Theo hướng này, câu thơ


đưa ra như một lời hỏi đầy hoài nghi, một tiếng thở dài ngậm ngùi chua xót. Và
nói có thể chính là câu trả lời cho câu hỏi buôn ra từ đầu bài thơ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

(lời đáp) Ai biết tình ai có đậm đà?


Ao ước khát khao đến cháy long được trở về Ví Dạ nhưng anh khơng thể về
Vĩ Dạ vì anh nào có biết tình em có đậm đà. Những lời hỏi áy cứ xốy xâu vào
lịng người đọc một nỗi buồn xót xa. Tình u mãnh liệt mà vô vọng đau đớn
khi hướng về cuộc đời trần thế đã được thể hiện một cách cảm động trong
những câu thơ cuối.


Khép lại “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta mới thấu được tình cảnh của thi sĩ. Khơng chỉ
xúc động lịng người bởi tính khắc khoải, xót xa, “Đây thơn Vĩ Dạ” cịn mê
hoặc người đọc bởi vẻ đẹp của thơ. Cảm nhận khổ thơ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ với ngôn từ trong sáng, giàu sức tạo hình và có sức biểu cảm tinh tế, chạm
tới trái tim. Cảnh sắc thiên nhiên liên tục, không tn theo tính thống nhất về
khơng gian và thời gian nhưng vẫn gây ấn tượng cho người đọc. Tất cả tạo nên
sức hấp dẫn của tác phẩm cũng nhưng làm bật lên ngòi bút tài hoa của Hàn
Mặc Tử. Quả khơng sai, khi có ai đó tưng nói:


Nếu nhân loại khơng cịn khao khát nữa
Và nhà thơ – nghề chẳng kẻ nào yêu
Người – Thi sĩ – cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử


Vẫn hiện lên ở đáy vực đợi chờ.
<b>Bài tham khảo 5</b>


Hàn Mặc Tử - thi nhân của những mối tình “khuấy” mãi khơng thành khối, ơng
u nhiều nhưng chỉ nhận lại sự đắng cay, bẽ bàng trong những cuộc tình.
Cuộc đời ơng niềm vui thì ít mà chỉ tồn nỗi cơ đơn, đau buồn. Mọi nỗi niềm


tâm tư Hàn Mặc Tử đều gửi vào trong thơ. Thơ ông quằn quại trong đớn đau,
thấm đẫm nước mắt và có phần điên loạn. Giữa những vần thơ ma quái, kì dị
ấy vẫn có những vần thơ thật trong sáng tinh khơi đó chính là kiệt tác “Đây
thơn Vĩ Dạ”. Đặc biệt là khổ thơ cuối ánh lên niềm khát khao tình đời, tình
người của thi nhân mạnh mẽ nhất những cũng thật xót xa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Mặc Tử vào cõi mơ đầy huyền ảo ở khổ thơ cuối. Đây cũng là khổ thơ thấm
đẫmtình người, khao khát được sống của nhà thơ.


Bị cuộc đời tuyệt giao, bỏ rơi nhưng Hàn Mặc Tử không quay lưng lại với
cuộc đời, mà ông càng thiết tha với đời nhiều hơn. Thực tại quá đớn đau, nghiệt
ngã, thi nhân đành tìm niềm an ủi trong cõi mộng. Bao trùm khổ thơ thứ ba là
một màu sắc hư vô. Thật thật, giả giả khó lịng phân tách đâu là thực đâu là mơ.
Tình yêu đối với con người và thiên nhiên nhiên xứ Huế sâu đậm, ám ảnh nhà
thơ đến những giây phút cuối đời. Nhưng căn bệnh hiểm nghèo, qi ác đơi khi
làm nhà thơ như khơng cịn tỉnh táo, không phân biệt đâu là hiện thực đâu là
giấc mơ:


“Mơ khách đường xa khách đường xa”


Nhà thơ đang chìm vào trong cõi mộng, trong trạng thái vô thức “mơ”. Điệp
ngữ “khách đường xa” được lặp lại hai lần, lần lặp thứ hai chữ “mơ” đã được
bỏ đi khiến cho câu thơ như ẩn chứa hai tâm trạng, hai cung bậc cảm xúc khác
nhau: lần đầu là khát vọng, lần sau là thực tại. Khát vọng là mơ về khách
đường xa, mơ một lần được gặp lại người xưa, cảnh cũ nhưng hiện thực càng
mơ, càng mong, càng khao khát lại càng xa, xa mãi đến vơ vọng, khơng thể cịn
một lần nào gặp gỡ.


Câu thơ thứ hai: “Áo em trăng quá nhìn khơng ra” trong khơng gian hư ảo
khó phân biệt đó, hình ảnh “áo em trắng q” làm thi nhân vừa chống ngợp,


nghẹn ngào, vừa xót xa, tiếc nuối dù khao khát đến cháy bỏng được
chiêm ngưỡng tà áo em trắng tinh khôi thuở nào, những bệnh tật đã làm cho thi
nhân chẳng còn chút tỉnh táo, lạc mất vào cõi hư khơng “nhìn khơng ra”, khơng
rõ đấy là màu trắng của áo em hay là màu của tâm tưởng, của những kỉ niệm
xưa cũ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

chính là câu trả lời cho câu thơ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Nhà thơ ao
ước được trở về nơi xưa, được gặp lại cố nhân nhưng “Cảnh xưa cịn đó, lòng
người đổi thay”. Câu thơ khép lại bải thơ trong nỗi hồi nghi, tuyệt vọng
nhưng vẫn thấy ở đó là niềm khát khao của thi nhân với tình người, với trần thế
chẳng thể nào lụi tàn.


Khổ thơ cuối đượm buồn, mang màu sắc ảo ảnh vừa có chút hồi nghi,
trách móc, vừa chứa chan niềm tha thiết với cuộc đời, với con người của một
tâm hồn cô đơn ham sống, khát khao sống đến mãnh liệt.


Với những hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ giàu tâm trạng, âm
điệu, nhịp thơ trong sáng, thiết tha kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, so sánh,
những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã phác họa ra một khung
cảnh thiên nhiên và con người xứ Huế đầy sức sống, một bức tranh tồn bích
hịa quyện giữa cõi thực và cõi ảo, giữa tâm tưởng và ước mong. Qua việc để
cho người đọc cảm nhận khổ thơ cuối của bài Đây thơn Vĩ Dạ, tác giả muốn
bộc lộ tình u mãnh liệt của mình với thiên nhiên, với con người cùng niềm
ham sống, khát khao sống của mình.


Sáng tác bài thơ trong hoàn cảnh cái chết cận kề. Song cái ta bắt gặp vẫn là
tình yêu, niềm gắn bó tha thiết với thiên nhiên, con người và sự sống. Cành làm
ta đồng cảm, mến phúc trước nghị lực sống phi thường, vượt lên trên hoàn cảnh
nghiệt ngã của biết bao phũ phàng, ruồng rẫy để sống, đề cống hiến.



Giữa giây phút cận kề với cái chết,của sự hoảng loạn và tuyệt vọng nhưng
khát khao cháy bỏng Hàn Mặc Tử đã để lại, đã cống hiến cho đời những vần
thơ hồn mĩ đến tuyệt bích “Đây thơn Vĩ Dạ”. Ra đời cách đây gần tám thập kỉ
những những vần thơ đầy suy tư, khắc khoải ấy vẫn làm hàng triệu trái tim độc
giả cùng thổn thức, cùng xót xa và cùng hoài niệm với thi nhân. Thật vậy, chỉ
một phút thăng hoa cũng đủ để tạo nên một trang tuyệt bút.


<b>Bài tham khảo 6</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

cháy trong tim. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, niềm khao khát của con người tha
thiết yêu đời, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, con người. Đặc biệt, khổ thơ cuối
của bài thơ đọng lại nỗi hoang mang của tác giả, vừa có chút hồi mong, vừa
như vơ vọng trong tình u đơn phương:


“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”


Theo lời của bạn bè và người thân nhà thơ kể lại khi làm ở sở đạc điền ở
Qui Nhơn, Hàn Mạc Tử đem lịng u cơ gái tên là Hồng Thị Kim Cúc mà
chúng ta vẫn quen gọi là Hoàng Cúc. Đây là cơ gái con nhà viên chức lại có vẻ
đẹp dịu dàng kín đáo kiểu chân quê. Thực ra đây chỉ là mối tình đơn phương từ
phía Hàn Mạc Tử.


Khi nhà thơ mắc bệnh nan y, ông đã nhận được tấm thiệp kèm lời hỏi
thăm của Hoàng Cúc. Lời thăm hỏi khơng ký tên, nhưng bức ảnh và những
dịng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng, và đã gợi dậy những gì
thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử… Thi sĩ đã viết bài thơ này để tặng cho cô
gái. “Đây thôn Vĩ Dạ” mang giọng điệu tha thiết. Tha thiết với người con gái


anh thầm yêu, với cảnh Huế, người Huế và trên hết với cuộc đời. Những điều
này đã biến tiếng nói nội tâm riêng tư của Hàn Mặc Tử trở thành tiếng lịng
mn đời của người trong cuộc đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

hình đã vội hóa thành hư vơ, đọng lại trong lịng người một nỗi hoài nghi, hi
vọng.


Những người con gái trong thơ Hàn Mặc Tử bao giờ cũng hiện thân cho
vẻ đẹp tuyệt đỉnh của trần thế. Ở khổ thơ cuối của bài thơ cũng tập trung vào
hình ảnh của thiếu nữ. Hình ảnh gần gũi thân thương của “em” đã trở thành
nhân cách, xa vời, hư ảo. Lời thơ nghe như có gì thổn thức, nghẹn ngào, hụt
hẫng, chới với, bẽ bàng:


“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra…”.


Trên là vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của “khách
đường xa”. Hình ảnh này gợi cho ta nhớ tới gương mặt chữ điền có lá trúc che
ngang khơng thể nào qn. Đây là hình ảnh người con gái Huế có vẻ đẹp trinh
khiết đầy xuân tình mà thi sĩ hằng yêu mến. Gắn với hình dáng ấy là sắc áo
trắng tinh khôi. Màu áo ở đây cũng là màu áo trong tâm tưởng. Tác giả hình
dung trong tâm tưởng để thấy lại cái màu trắng của kí ức, cho nên nó hư hư
thực thực. Câu thơ đầy ảo giác nhưng rất hay, rất có lí và bất ngờ: Áo em trắng
q nhìn khơng ra. Màu trắng giờ đang chốn hết tâm tư, tình cảm của thi nhân.
Bài thơ tả cảnh đã thành bài thơ thổ lộ tình yêu. Một thứ tình yêu đơn phương,
thiết tha và có phần tội nghiệp:


“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”



Giữa anh và nơi ấy là khoảng cách của sương khói: sương khói khơng
gian, thời gian sương khói của mối tình vơ vọng. Ở câu thơ cuối hai đại từ “ai”
chỉ hai người trong mối quan hệ khăng khít. Tín hiệu tình người có nhưng chưa
đủ để cứu rối linh hồn, nhất là những linh hồn bất hạnh. Nhà thơ mong cái
tuyệt đỉnh của tình người: đậm đà. Câu thơ có chút hờn giận nhẹ nhàng, có phủ
bịng hồi nghi và trên hết là sự ghi nhận một tấm lòng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

trăng và con thuyền chở trăng về… Chỉ cịn sương khói che khuất bóng người.
Khơng chỉ hình bóng em mờ mà thân xác anh cũng mờ tan trong sương khói
lạnh lẽo. Cịn lại may có chữ tình, nhưng nhà thơ vẫn băn khoăn, khắc khoải:
Ai biết tình ai có đậm đà?


Ở đây, một tình yêu đơn phương, day dứt đến tội nghiệp. Nỗi niềm băn
khoăn, day dứt khôn nguôi càng nhấn mạnh khao khát được sống, được giao
cảm yêu thương và chia sẻ với cuộc đời. Nỗi niềm băn khoăn, day dứt khôn
nguôi càng nhấn mạnh khao khát được sống, được giao cảm yêu thương và
chia sẻ với cuộc đời của tác giả.


Điệp ngữ “khách đường xa” có sức gợi tả, ngắt nhịp 4/3 tạo nhịp điệu
khẩn trương gấp gáp. Nhấn mạnh sự mong đợi tha thiết, lời khẩn khoan van nài
những người xưa thật xa xôi, tất cả trở nên vơ vọng. Hình ảnh màu áo trắng mờ
ảo trong sương khói khiến cho dáng hình con người nhịa đi trước mắt, nhòa đi
cả trong tiềm thức. Màu áo trong tâm tưởng vốn trần đầy kỉ niệm nay trở nên
nhạt nhòa, xa cách. Câu hỏi tu từ cùng với đại từ phiếm chỉ “ai” – lớp từ đa
nghĩa càng khiến cho ý cho rơi vào mênh mang. Thiên nhiên chập chờn, ma mị,
mộng ảo, vận động theo logic của tâm trạng. Đó là cái tơi đau thương, nhạt
nhịa khơng ra đường nét, là nỗi niềm hoài nghi, khắc khoải, mong chờ trong
vô vọng, là tâm trạng đau thương, mặc cảm không dám trơng mong vào sự đậm
đà của tình người trong chốn nhân gian.



Khổ thơ thứ ba tiếp nối nguồn mạch tình cảm ở hai khổ thơ trên và đi sâu
vào bên trong mối tình, từ nỗi cách ngăn gió mảy chia đường đến sự đứt gãy.
Từ cảnh thiên nhiên như reo vui, tràn đầy sức sống ở khổ thơ thứ nhất đi dần
tới sự xóa nhịa tất cả vào mơ, vào sương khói ở khổ thứ ba. Một mối tình hết
sức thiết tha, nồng ấm nhưng đành để nó mất hút vào cõi mơng lung, mờ mịt;
chỉ cịn lại dư vị đậm đà trong lịng người và cả lịng mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

1945 rất hào hứng tự khẳng định mình nhưng luôn bị những áp lực của xã hội
phủ định, trong khi ánh sáng của cách mạng chưa soi rọi tới.


Tác giả lặng đi trong mơ tưởng. Người khách đường xa này hình như
khơng liên quan gì đến nhân vật anh ờ câu đầu mà lại gợi tả người khách má
hồng thoáng gặp mà nhớ mãi. Màu áo trắng là màu tâm tưởng, màu kí ức hư hư
ảo ảo. Thơn Vĩ đến đây chỉ cịn là địa điểm có liên quan đến màu trắng ấy. Bài
thơ cảnh quê đã thành bài thơ tình u. Một tình u đơn phương khó xác định.
Câu thơ cuối dẫn ta đến cõi nào của tâm tưởng. Ở đây là ở mối tình mới
nhen, là khoảng khắc đắm đuối nhìn khơng ra. Ý thơ chơi vơi, gợi mở, cảm
được mà khó cắt nghĩa…


Tâm trạng của thi sĩ diễn biến theo chiều hướng: ao ước đắm say – hoài
vọng phấp phỏng – mơ tưởng hoài nghi. Càng về sau càng có phần u uẩn và
sầu muộn. Đó là những cung bậc khác nhau của một mối tình vơ vọng. Tuy
nhiên, đằng sau mối tình ấy vẫn là một niềm thiết tha gắn bó với đời. Những
câu hỏi này là hình thức để nhà thơ tỏ bày tâm trạng. Âm điệu bài thơ càng về
sau càng da diết, sâu lắng và nhờ đó mà ba khổ thơ tưởng như tách biệt lại liên
kết với nhau một cách tự nhiên, tạo thành một bài thơ hồn chỉnh có vẻ đẹp
khác thường.


Ở Khổ thơ cuối bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, mỗi câu thơ đều ôm chứa một
chất thơ hồn chỉnh, có thể trích độc lập mà vẫn có vị. Mỗi khổ là một bài tứ


tuyệt. Nhưng gộp cả lại thì tất cả lại ràng buộc với nhau, khơng thể tháo bỏ,
không cần thêm ý, không thể đảo lộn vị trí từng câu, khơng thể thay thế các từ.
Bài thơ thật trong sáng. Hình như ai cũng cảm nhận được vẻ đẹp của nó nhưng
phân tích mãi, vẻ đẹp ấy vẫn cịn bí ẩn. Nỗi buồn của bài thơ trong sáng và
thấm thía.


Thấp thống trong màn sương khói hư ảo của tình u đơi lứa là tình u
thiết tha, đằm thắm đối với quê hương đất nước. Vì khơi gợi và làm rung động
tình cảm chung của nhiều người như thế nên bài thơ vốn diễn tả tâm trạng riêng
của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn của
nhiều thế hệ yêu thơ Hàn Mặc Tử. Khổ thơ cuối bài thơ “Đây thơn Vĩ Dạ”
khép lại niềm vọng tưởng trong khói sương mơ hồ và nỗi hoang mang bất tận.
Niềm tin rơi vào thinh không đáng sợ.


</div>

<!--links-->

×