Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Chuong 7: Mô hình tổng cung - Cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.43 KB, 14 trang )

Chương 7
MÔ HÌNH TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
Sự biến động của nền kinh tế là vấn đề mà các nhà kinh tế cũng như các nhà lập
chánh sách cần giải quyết. Thực tế cho thấy tăng trưởng kinh tế ở các nước thường
không đều đặn mà lại lên xuống theo chu kỳ. Suy thoái kinh tế, là hiện tượng thu nhập
giảm và thất nghiệp tăng, cũng xảy ra. Suy thoái kinh tế thường đi kèm với việc cắt
giảm thời gian làm việc làm cho nhiều lao động chỉ có việc làm bán thời gian và ít lao
động có việc làm đủ thời gian. Các nhà kinh tế gọi sự biến động lên xuống của sản
lượng và nhân dụng theo thời gian là chu kỳ kinh tế.
Mặc dù thuật ngữ chu kỳ kinh tế hàm ý rằng sự biến động của nền kinh tế là
thường xuyên và có thể dự đoán được nhưng cả hai không phải luôn xảy ra. Suy thoái
kinh tế cũng không phải là quá thường xuyên. Phần 3 của quyển sách này sẽ xây dựng
mô hình giải thích sự biến động của nền kinh tế trong ngắn hạn. Do GDP thực là chỉ
tiêu đo lường kết quả hoạt động của nền kinh tế một cách tốt nhất nên nó chính là tiêu
điểm của các mô hình trong chương này.
Cũng giống việc cố gắng ngăn ngừa lụt lội bằng các con đập, các nền kinh tế cố
gắng kiểm soát chu kỳ kinh tế bằng các chánh sách kinh tế phù hợp. Mô hình trong
chương này và các chương sau sẽ minh họa ảnh hưởng của chánh sách tài chánh và
chánh sách tiền tệ đến nền kinh tế trong ngắn hạn. Ta sẽ thấy các chánh sách này có
tác dụng làm bình ổn hay làm xấu đi các biến động kinh tế như thế nào.
I. NGẮN HẠN, DÀI HẠN VÀ MÔ HÌNH CƠ BẢN VỀ BIẾN ĐỘNG KINH TẾ
Tất cả các phân tích trước đây đều dựa trên lý thuyết kinh tế học cổ điển và sự bất lực
của chánh sách tiền tệ. Lý thuyết kinh tế học cổ điển chia các biến số kinh tế thành
các biến số thực (đo lường số lượng hay giá tương đối) và biến số danh nghĩa (đo
lường bằng tiền). Theo lý thuyết này, sự thay đổi của số cung tiền chỉ ảnh hưởng đến
các biến số danh nghĩa mà không ảnh hưởng đến các biến số thực. Kết quả của điều
này là ta có thể phân tích các yếu tố quyết định các biến số thực (GDP thực, lãi suất
thực, v.v.) mà không cần đến các biến số danh nghĩa (như số cung tiền hay giá).
Liệu các luận điểm của lý thuyết kinh tế học cổ điển có đúng với thực tế đang
diễn ra không? Câu trả lời cho câu hỏi này rất quan trọng trong việc tìm hiểu cơ chế
vận hành của nền kinh tế: Hầu hết các nhà kinh tế đều tin rằng lý thuyết kinh tế học


cổ điển chỉ phù hợp với thực tế trong dài hạn mà không phù hợp với ngắn hạn. Trong
TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
dài hạn, sự thay đổi trong số cung tiền ảnh hưởng đến giá và các biến số danh nghĩa
khác nhưng không làm thay đổi GDP thực, thất nghiệp và các biến số thực khác. Tuy
nhiên, khi nghiên cứu sự thay đổi của nền kinh tế qua từng năm, giả định sự bất lực
của chánh sách tiền tệ không còn đúng. Hầu hết các nhà kinh tế tin rằng trong ngắn
hạn các biến số thực và danh nghĩa có quan hệ với nhau. Đặc biệt, sự thay đổi trong
số cung tiền có thể làm chệch sản lượng của nền kinh tế ra khỏi sản lượng dài hạn
(hay sản lượng tiềm năng).
Để tìm hiểu nền kinh tế trong ngắn hạn, ta cần có mô hình mới. Mô hình này
dựa trên các khái niệm đã xây dựng trước đây nhưng sẽ bỏ qua các luận điểm của
kinh tế học cổ điển và sự bất lực của chánh sách tiền tệ. Mô hình biến động kinh tế
ngắn hạn tập trung vào hai biến số kinh tế cơ bản, đó là GDP thực và CPI hay chỉ số
điều chỉnh GDP. GDP thực là biến số thực, trong khi giá là biến số danh nghĩa. Bằng
cách nghiên cứu mối quan hệ giữa hai biến số này, ta có thể thấy được khiếm khuyết
của lý thuyết kinh tế cổ điển. Ta sẽ phân tích biến động kinh tế một cách tổng quát
với mô hình tổng cung và tổng cầu.
II. TỔNG CẦU AD
Tổng cầu AD thể hiện mối quan hệ giữa số cầu đối với sản phẩm và giá cả tổng thể
của nền kinh tế. Nói cách khác, đường AD cho biết số lượng hàng hóa mà người dân
một quốc gia sẽ mua ở mỗi mức giá khác nhau. Ở đây, ta sẽ sử dụng lý thuyết định
lượng tiền để xây dựng mô hình đơn giản về tổng cầu.
II.1. Lý thuyết định lượng tiền và đường tổng cầu AD
Lý thuyết định lượng tiền cho rằng: M
×
V = P
×
Y, trong đó M là số cung tiền, V là
tốc độ chu chuyển tiền (giả định là cố định), P là giá và Y là sản lượng thực. Phương
trình này cho thấy số cung tiền sẽ quyết định sản lượng danh nghĩa P

×
Y. Phương
trình định lượng tiền có thể được viết lại dưới dạng cung cầu tiền thực cân bằng:
M/P = (M/P)
d
= k
×
Y,
trong đó: k = 1/V. Phương trình định lượng cho thấy số cung tiền thực M/P bằng với
số cầu tiền thực (M/P)
d
và số cầu tiền thực tỷ lệ k nào đó của sản lượng thực Y.
Đối với một số cung tiền M nhất định, phương trình định lượng thể hiện mối
quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giá P và sản lượng thực Y. Đồ thị 7.1 thể hiện mối quan hệ
giữa P và Y thỏa mãn phương trình định lượng tương ứng với một số cung tiền M cố
định. Theo định nghĩa, đường này chính là đường tổng cầu AD. Đường AD là dốc
xuống từ trái sang phải.
Trang 2
TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
Ứng với một số cung tiền cố định nào đó, phương trình định lượng tiền ngụ ý
rằng giá trị sản lượng danh nghĩa P
×
Y là cố định. Vì vậy, nếu giá P tăng thì Y phải
giảm, nghĩa là đường tổng cầu AD phải dốc xuống.
Một cách để hiểu mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa P và Y là nghiên cứu mối quan
hệ giữa số cung tiền và giao dịch. Do giả định tốc độ chu chuyển tiền V cố định, số
cung tiền sẽ quyết định giá trị của tất cả các giao dịch trong nền kinh tế. Nếu giá tăng
thì mỗi giao dịch sẽ cần nhiều tiền hơn, do đó số lượng giao dịch và số lượng hàng
hóa được mua sẽ phải giảm đi.
Đồ thị 7.1. Đường tổng cầu AD

Để hiểu mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa P và Y, ta cũng có thể nghiên cứu cung
cầu đối với tiền thực. Nếu sản lượng cao hơn, người ta sẽ thực hiện nhiều giao dịch
hơn và cần nhiều tiền thực M/P hơn. Ứng với một số cung tiền cố định
M
nào đó,
tiền thực nhiều hơn nghĩa là giá giảm đi. Ngược lại, nếu giá thấp hơn, lượng tiền thực
sẽ cao hơn. Lượng tiền thực cao hơn cho phép thực hiện nhiều giao dịch hơn và vì
vậy sản lượng sẽ cao hơn.
II.2. Sự dịch chuyển của đường tổng cầu AD
Đường tổng cầu AD được vẽ tương ứng với một số cung tiền M nào đó. Nói cách
khác, AD cho biết mối quan hệ giữa P và Y ứng với một số cung tiền cố định
M
.
Nếu số cung tiền thay đổi, mối quan hệ giữa P và Y sẽ thay đổi theo – nghĩa là đường
AD sẽ thay đổi vị trí. Hãy nghiên cứu một số tình huống trong đó đường tổng cầu AD
dịch chuyển.
Giả sử ngân hàng trung ương giảm số cung tiền. Phương trình định lượng M
×
V
= P
×
Y cho thấy sự giảm đi của số cung tiền sẽ dẫn đến sự giảm đi tương ứng của trị
sản lượng danh nghĩa P
×
Y. Với một mức giá nào đó, sản lượng sẽ thấp hơn và ứng
với một mức sản lượng nào đó giá sẽ thấp hơn. Như biểu thị trong Đồ thị 7.2, khi đó
đường tổng cầu AD tịnh tiến sang trái.
Trang 3
AD
Y

P
TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
Đồ thị 7.2. Sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cầu AD
Ngược lại, giả sử ngân hàng trung ương tăng số cung tiền. Phương trình định
lượng cho biết khi đó sẽ có sự gia tăng của sản lượng danh nghĩa P
×
Y. Ứng với mỗi
mức giá cố định, sản lượng sẽ cao hơn và ứng với mỗi mức sản lượng giá sẽ cao hơn.
Như biểu thị trong Đồ thị 7.3, khi đó đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải.
Đồ thị 7.3. Sự dịch chuyển sang phải của đường tổng cầu AD
Sự thay đổi trong số cung tiền là nguồn gốc của biến động trong tổng cầu. Tuy
nhiên, ngay cả nếu số cung tiền được giữ cố định đường tổng cầu vẫn có thể dịch
chuyển do sự thay đổi của tốc độ chu chuyển tiền. Khi nghiên cứu đường tổng cầu kỹ
hơn trong các chương sau, ta sẽ biết các nguyên nhân khác nữa của sự dịch chuyển
của đường tổng cầu.
III. TỔNG CUNG AS
Trang 4
AD
1
Y
P
AD
2
AD
2
Y
P
AD
1
TỔNG CUNG – TỔNG CẦU

Bản thân đường tổng cầu AD không thể tự quyết định giá P hay sản lượng Y của nền
kinh tế mà chỉ cho biết mối quan hệ giữa hai đại lượng này mà thôi. Để đi kèm với
đường tổng cầu, ta cần một mối quan hệ nữa giữa P và Y, đó là đường tổng cung AS.
Đường tổng cầu AD và đường tổng cung AS sẽ cùng nhau quyết định giá và sản lượng
của nền kinh tế.
Nói chung, đường tổng cung AS cho biết mối quan hệ giữa số lượng hàng hóa
mà nền kinh tế làm ra ở các mức giá khác nhau. Do giá linh động trong dài hạn và
cứng nhắc trong ngắn hạn nên mối quan hệ này phụ thuộc vào độ dài thời gian đang
xem xét. Có hai đường tổng cung: (i) đường tổng cung dài hạn LAS và (ii) đường tổng
cung ngắn hạn SAS. Hai đường tổng cung này có tính chất hoàn toàn khác nhau như
trình bày ở phần tiếp theo.
III.1. Đường tổng cung dài hạn LAS thẳng đứng
Do lý thuyết cổ điển mô tả nền kinh tế trong dài hạn nên ta thiết kế đường tổng cung
dài hạn LAS dựa vào lý thuyết này. Theo Chương 3, sản lượng phụ thuộc vào số cung
cố định của vốn và lao động cùng với kỹ thuật sản xuất hiện thời. Do đó, ta có thể
viết:
Y = F(
), LK
=
Y
.
Theo lý thuyết cổ điển, do sản lượng không phụ thuộc vào giá nên đường tổng
cung dài hạn LAS thẳng đứng như trong Đồ thị 7.4. Nói cách khác, hệ số co giãn của
hàm tổng cung dài hạn LAS theo giá bằng không.
Đồ thị 7.4. Đường tổng cung dài hạn LAS
Một câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao đường cung của một loại hàng hóa nào
đó có thể dốc lên (như mô tả trong kinh tế học vi mô) nếu đường tổng cung dài hạn
LAS
Trang 5
Y

P

×