Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tải Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất Nước - So sánh 2 bài thơ Tây Tiến - Đất Nước lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.32 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CẢM NHẬN BÀI THƠ TÂY TIẾN - ĐẤT NƯỚC Ngữ văn 12</b>
<b>Cảm nhận về hai đoạn thơ sau:</b>


<i><b>Rải rác biên cương mồ viễn xứ</b></i>
<i><b>Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh</b></i>
<i><b>Áo bào thay chiếu, anh về đất</b></i>


<i><b>Sông Mã gầm lên khúc độc hành</b></i>


<b> (Tây Tiến - Quang Dũng)</b>


<i><b>Em ơi em Đất nước là máu xương của </b></i>
<i><b>mình</b></i>


<i><b>Phải biết gắn bó và san sẻ</b></i>


<i><b>Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở</b></i>
<i><b>Làm nên Đất nước muôn đời</b></i>


<b> (Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)</b>


<b>G</b>


<b> ỢI Ý LÀM BÀI</b>
<b>1. Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng</b>
<b>Nội dung</b>


Câu thơ "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" tồn từ Hán Việt gợi khơng khí cổ kính:"biên
cương","viễn xứ" là nơi biên giới xa xơi, nơi heo hút hoang lạnh. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự
khốc liệt của chiến tranh, miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ
hoang lạnh vô danh mọc lên dọc đường quân hành nhưng không làm trùng bước Tây Tiến.


Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngịi bút của Quang Dũng khơng hề nhấn chìm
người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại
được nâng đỡ bằng đôi cánh của lý tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh
những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lý tưởng
quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như
một lời thề sông núi:"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".


Chiến trường là đạn bom ác liệt là hy sinh mất mát. Đời xanh là tuổi trẻ của mỗi người, ai
cũng quý cũng yêu. Vậy mà người lính lại "chẳng tiếc đời xanh". Câu nói ấy vang lên chắc
nịch mang cái vẻ bất cần, mang cái vẻ ngạo nghễ rất lính. Họ đã ra đi không tiếc tuổi thanh
xuân là họ đã hiến trọn đời mình cho Tổ quốc, đất nước. Bởi chết cho Tổ quốc chính là chết
cho lý tưởng. Cịn quyết tâm nào cao quý và thiêng liêng hơn thế nữa chăng? Ta chợt nhớ tới
tích Kinh Kha sang đất Tần hành thích bạo chúa Tần Thuỷ Hồng, bên bờ sơng Dịch chàng
dứt áo ra đi với khẩu khí yêng hùng tráng sĩ:” Sơng Dịch ù ù gió thổi/Tráng sĩ một đi khơng
trở về”. Vậy là người lính cụ Hồ khơng chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà còn mang một vẻ
đẹp cổ kính đượm màu hiệp sĩ xa xưa. Thật rằng, họ cũng có những tiếc nuối nhưng trên hết
là vì lý tưởng:


<i> Chúng tơi đã đi khơng tiếc đời mình</i>
<i> (Tuổi hai mươi làm sao không tiếc)</i>


<i> Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ quốc</i>
(Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

của Quang Dũng, manh chiếu rách ấy đã thành áo bào. Bởi vậy, cuộc tiễn đưa trở nên bi
tráng. Nhà thơ vẫn gợi lên sự thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật chất,
ở vùng biên giới xa xơi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến sĩ đã ngã
xuống khơng có một cỗ quan tài, thậm chí khơng có một tấm chiếu để liệm thân mà khi ngã
xuống vẫn cứ mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành quân. Đó có thể là tấm áo
sờn vai, tấm áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng với thái độ trân trọng đồng đội, nhà


thơ Quang Dũng đã thấy họ như đang mặc tấm áo bào của chiến tướng mà đi vào cõi vĩnh
hằng, bất tử cùng sông núi.


Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn của người tử sĩ đã hịa
cùng sơng núi, con sơng Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn đưa người
lính vào cõi bất tử. Hình tượng “sơng Mã” ở cuối bài thơ được phóng đại và nhân hóa, tơ
đậm cái chết bi hùng của người lính – sự hi sinh làm cho lay động đất trời, khiến dòng sông
gầm lên đớn đau, thương tiếc. Sự ra đi của người lính được Quang Dũng dùng nghệ thuật nói
giảm nói tránh ”anh về đất” làm dịu đi cái đau thương nhưng không tránh cho người đọc
khỏi ngậm ngùi. “Anh về đất” là về với đất mẹ. Đất mẹ giang rộng vịng tay đón các anh trở
về sau khi đã hồn thành nhiệm vụ. Đặc biệt sự hi sinh ấy không chỉ làm cảm động đến con
người mà còn làm cảm động đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Con sông Mã xuất hiện ở đầu bài
thơ trong nỗi nhớ chơi vơi của nhà thơ thì ở đoạn thơ này sơng Mã lại xuất hiện trong tiếng
gầm dữ dội. Đó là “khúc độc hành” của thiên nhiên đang tấu lên khúc nhạc thiêng liêng,
trầm hùng đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng.


Cả bài thơ Tây Tiến khơng có một trận đánh nào được nói tới, khơng có một tiếng súng nào
vang lên mà cái chết vẫn hiện hình rõ nét, vẫn hiện lên một cách chân thật. Đó chính là cái
nhìn mới về sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh. Rất nhiều người lính đã hi sinh dọc
đường hành quân, trên đường ra mặt trận. Họ hi sinh vì điều kiện sống, chiến đấu quá gian
khổ, thiếu thốn: thiếu lương thực, thiếu muối, thiếu thuốc, lại sống ở những nơi rừng thiêng
nước độc…


<b>Nghệ thuật</b>


Thành công của đoạn thơ là nhà thơ đã sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang
nghiêm. Sử dụng nghệ thuật đối lập, nhân hóa, nói giảm nói tránh.


Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng.



Bút pháp lãng mạn và sử thi đã làm nên hình tượng người lính cụ Hồ trong chín năm kháng
chiến gian lao mà oai hùng lẫm liệt.


Cảm xúc của nhà thơ rất chân thành; giọng điệu thơ có chút xót xa nhưng nổi bật là sự dứt
khốt, mạnh mẽ làm nên sự bi tráng trong cái chết của người Tây Tiến.


<b>2. Đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm</b>
<b>Nội dung</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

xa bên dòng sông Đuống, pha lẫn chút vị hư ảo trong câu thơ toàn vần bằng như “Em ơi
buồn làm chi” (Bên kia sơng Đuống – Hồng Cầm). “Em ơi” ở đây là lời nói và tâm niệm
của chàng trai với cơ gái, người “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, là lời tâm tình
của người yêu với người yêu. Chọn câu chuyện tình u nam nữ để nói lên tình yêu đất
nước, phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã “mạo hiểm”? Khơng, chính tình u đất nước đã
hịa lẫn trong câu chuyện tình yêu nam nữ mới tạo nên nét độc đáo hơn cho tác phẩm của
nhà thơ.


Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương của mình”.
Đối với mỗi con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình ảnh so sánh độc
đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối với mỗi con người:


<i>Ôi Tổ quốc ta ơi, ta yêu như máu thịt</i>
<i>Như mẹ cha ta, như vợ như chồng</i>


<i>Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết</i>
<i>Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…</i>


(Chế Lan Viên)


Ngoài ra, hình ảnh "máu xương" cịn gơi lên trong lịng người đọc lịch sử đất nước với biết


bao con người anh hùng đã hi sinh đời mình cho cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc :


<i>Xưa u q hương vì có chim, có bướm</i>
<i>Có những ngày trốn học bị địn roi</i>
<i>Nay u q hương vì trong từng nắm đất</i>


<i>Có một phần xương thịt của em tôi.</i>


(Giang Nam)
<b>Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thiết tha, thúc giục lòng người. Tinh thần này đã từng bắt gặp trong bài thơ Đất Nước của
Nguyễn Đình Thi :


Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.


Hay:


Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực !
Mẹ thà coi như chiếc lá bay


Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.


(Tống biệt hành – Thâm Tâm)


Một khi ra đi chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng, người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ qn hết tình
riêng một lịng hướng về nhân dân đất nước.



<b>Nghệ thuật</b>


Thể thơ tự do với những câu thơ co duỗi nhịp nhàng, linh hoạt gợi về quá trình lịch sử đầy
gian khổ của Đất Nước, gợi về sự hi sinh vĩ đại của nhân dân ta.


+++ Thành cơng nghệ thuật của đoạn thơ này chính là sự vận dụng những yếu tố dân gian
kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mỹ vừa quen thuộc lại vừa
mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa tạo nên khơng khí, giọng
điệu, khơng gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng,
mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt
bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của
tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.


Đoạn thơ mang tính chính luận nhưng được diễn đạt bằng hình thức đối thoại, giọng điệu trữ
tình kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ. Từ Đất Nước được lặp lại jai lần kết hợp cách viết
hoa đã tăng thêm sự tơn kính thiêng liêng, thể hiện quan niệm lớn: “Đất Nước của nhân
dân”.


<b>3. So sánh</b>
<b>Giống nhau</b>


Tư tưởng của cả hai đoạn thơ đều là tư tưởng cao đẹp: cống hiến, dâng hiến tuổi trẻ mình
cho đất nước, non sơng.


<b>Khác nhau</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhằm thức tỉnh tuổi trẻ về trách nhiệm đối với Đất Nước – cũng là một cách kêu gọi tinh
thần đấu tranh của tuổi trẻ.


Đoạn thơ trong bài Tây Tiến viết bằng thể thơ thất ngơn, có sử dụng nhiều từ Hán Việt trang


trọng với giọng điệu thơ dứt khốt, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tơ đậm hiện thực khốc
liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ vô danh. Đoạn thơ trong bài
thơ Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trị chuyện, từ ngữ giản dị,
gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô danh.


<b>3. Kết bài</b>


Qua hai đoạn thơ trong hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn
Khoa Điềm, các tác giả đã đem đến những nhận thức sâu sắc về vai trò của những người anh
hùng vơ danh. Họ đã “hóa thân cho dáng hình xứ sở - Làm nên Đất nước mn đời”. Đó là
những con người thầm lặng, giản dị mà cao cả, đáng kính vơ cùng. Hai bài thơ cùng viết về
đề tài những con người kháng chiến, nhưng ra đời trong hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên
đã có những nét tương đồng và sự khác biệt rất sâu sắc. Hai đoạn thơ trên đã đem đến cho
chúng ta những cảm xúc sâu lắng về sự khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh, về lý tưởng cao
đẹp của những chiến sĩ, về sự hy sinh thầm lặng của các thế hệ nhân dân để ta thêm yêu cuộc
sống, yêu đất nước của chúng ta ngày hôm nay.


<b>Bài làm 2</b>


Quang Dũng và Nguyễn Khoa Điềm đều là hai nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam.
Nếu như tên tuổi của Quang Dũng gắn liền với "Tây Tiến" thì Nguyễn Khoa Điềm cũng được
biết đến nhiều nhất qua "Đất nước". Hai tác phẩm sáng tác trong hai thời kì khác nhau nhưng
lại có sự liên quan với nhau. Đặc biệt là hai đoạn trích trên. Nếu đoạn trích trong "Tây Tiến"
nói về sự hi sinh của những người lính thời kì kháng chiến chống Pháp thì đoạn thơ của
Nguyễn Khoa Điềm là sự tiếp nối truyền thống cha anh, Nguyễn Khoa Điềm đã kêu gọi mọi
người có trách nhiệm đồn kết, gắn bó thời kháng Mĩ.


Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài (thơ, văn, nhạc, hoạ), cũng là một người lính, sống một đời
lính oanh liệt, hào hùng. Quãng đời ấy đã trở thành cảm hứng đặc sắc trong thơ ơng. Bài thơ
Tây Tiến viết về người lính, về những chàng trai “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” – người


lính Tây Tiến.


Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên
trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng địch ở
Thượng Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào. Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây
Tiến trở về Hồ Bình thành lập trung đồn 52. Năm 1948, nhà thơ Quang Dũng chuyển sang
đơn vị khác, không bao lâu, ông nhớ đơn vị cũ sáng tác bài thơ này.


Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ, nhớ về đồng đội và địa bàn hoạt động của đoàn
quân, nhớ về vùng đất mà bước chân hào hùng mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua – Tây Bắc.
Vùng đất đó với thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và thơ mộng, trữ tình, vùng đất ấy với những
con người tài hoa, duyên dáng và nghĩa tình. Trên nền cảnh ấy là hình ảnh người lính Tây
Tiến. Họ hiện lên thật ấn tượng với phẩm chất hào hùng đáng kính, họ đã hi sinh dọc đường
hành quân, hi sinh dọc miền biên giới – họ đã hi sinh vì lí tưởng sống cao đẹp:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành


Đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt mang sắc thái trân trọng, thể hiện khong khí trang
nghiêm, lịng thành kính thiêng liêng của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Những từ ngữ
ấy như những nén tâm nhang thắp lên đưa tiễn những người đã ngã xuống. CHính hệ thống từ
ngữ ấy kết hợp với những hình ảnh giàu sức gợi (biên cương, chiến trường, áo bào, khúc độc
hành) cũng tạo sắc thá cổ kính, gợi liên tưởng đến sự hi sinh oanh liệt của những anh hùng,
dũng tướng sãn sàng chấp nhận cảnh “da ngựa bọc thây” đầy bi tráng trong văn học trung đại.
-Câu thơ đầu đoạn thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt (biên cương, viễn xứ) nhưng sức nặng của cả
câu lại dồn vào một từ thuần Việt: “mồ”. Mồ cũng là mộ nhưng không phải mộ theo đúng
nghĩa. Đó chỉ là những nấm đất được đào vội, chôn mau ngay trên con đường hành quân vội vã
để đồn qn lại tiếp tục lên đường. Đặt trong khơng gian bao la, mênh mông hoang sơ của


miền biên giới Việt – Lào, những nấm mồ ấy gợi lên bao nỗi xót xa.


-Trong câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (chiến trường đi) để nhấn mạnh
đích đến của người lính, người chiến sĩ. Trong hồn cảnh đất nước có chiến tranh, sứ mênh đất
nước rất mỏng manh, chiến trường là đích đến duy nhất, là sự lựa chọn đầy trách nhiệm của cả
một thế hệ. Với họ, “đường ra trận mùa này đẹp lắm” và “cuộc đời đẹp nhất trên trận chiến
chống quân thù”. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” cho thấy sự dứt khốt, lòng quyết tâm, coi
thường gian nguy, coi thường cái chết. Họ sẵn sàng hiến dâng cả đời xanh, tuổi trẻ, quãng đời
đẹp nhất cho tổ quốc, hơn thế nữa, tính mạng của họ cũng sẵn sàng hi sinh để làm nên dáng
hình đất nước. Họ ra đi với tinh thần của cả thời đại “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Đó là
lí tưởng sống cao đẹp, hào hùng.


Viết về người lính và cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, nhà thơ Quang Dũng rất chân
thực, ông không hề né tránh hiện thực:


Áo bào thay chiếu anh về đất


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Chứng kiến sự ra đi hào hùng của người lính Tây Tiến, “Sơng Mã gầm lên khúc độc
hành”. Sơng Mã mở đầu cho cuộc hành trình trở về Tây Tiến trong kí ức của nhà thơ, cũng là
chúng nhân chứng kiến bao tâm tư, tình cảm, bao nỗi nhớ thương, chứng kiến bao chiến công
oanh liệt của đồn binh. Sơng Mã cũng đã sẻ chia nỗi xót xa với Tây Tiến khi có những đồng
đội hi sinh, là thân nhân đưa tiễn những người lính của đoàn quân ấy trở về với đất. Sự ra đi
của các anh là những mất mát, thiếu hụt lớn lao khơng gì bù đắp được, để lại những tiếc
thương, xót xa, hụt hẫng cho những người đồng đội, những người đang sống. Dịng sơng mênh
mang, chơi vơi trong tiếng gọi tha thiết nhớ thương của nhà thơ ở đầu bài thơ giờ đây nó gầm
lên trogn cơn giận dữ kìm nén, trong đau thương uất nghẹn. Nó khơng hát, khơng thét, khơng
khóc mà “gầm lên khúc độc hành”. Tiếng thác sông Mã gầm lên vang vọng giữa núi rừng dội
lên những âm thanh trầm hùng trong lịng đồng đội. Nó như tiếng kèn chiêu hồn liệt sĩ, như
tiếng đại bác nổ rung trời giận dữ, nó mang sắc thái của một lời thề cao cả. Đau thương đã biến
thành sức mạnh, thành lòng căm thù, thành sự quyết tâm, ý chí sắt đá. Các anh đã quyết tử cho


tổ quốc quyết sinh. Đặt cái chết của những người lính vơ danh giữa một không gian rộng lớn
với thiên nhiên hùng vĩ, hình ảnh người lính trở nên hiên ngang, lẫm liệt – ngay cả khi đã hi
sinh. Dịng sơng Mã thay lời những người đang sống, thay lời quê hương xứ sở cất lên khúc
tráng ca tiến biệt người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng để hồ cùng khí thiêng sông núi. Đất nước
chúng ta đúng là đất nước của “những người chưa bao giờ khuất”.


Cả bài thơ Tây Tiến khơng có một trận đánh nào được nói tới, khơng có một tiếng súng
nào vang lên mà cái chết vẫn hiện hình rõ nét, vẫn hiện lên một cách chân thực. Đó chính là cái
nhìn mới về sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh. Rất nhiều người lính đã hi sinh dọc
đường hành quân, trên đường ra mặt trận. Họ hi sinh vì điều kiện sống, chiến đấu quá gian
khổ, thiếu thốn: thiếu lương thực, thiếu muối, thiếu thuốc, lại sống ở những nơi rừng thiêng
nước độc…


Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trưởng thành từ cuộc kháng
chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, cmar xúc nồng nàn, mãnh liệt về nhân dân, đất
nước – thể hiện sâu sắc tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của
nhân dân. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là trường ca Mặt đường khát vọng. Tác
phẩm sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, một chiến trường nóng của thời chống Mĩ.
Mục đích của tác phẩm: thức tỉnh tuổi trẻ đơ thị miền Nam và tuổi trẻ cả nước về bộ mặt xâm
lược và tội ác của đế quốc Mĩ để hướng về nhân dân, đất nước cùng đứng dậy đấu tranh hoà
nhịp với cuộc đấu tranh của toàn dân.


Đoạn trích Đất Nước nằm ở phần đầu chương V của Mặt đường khát vọng nói về những
cảm nhận, khám phá, suy tư mới mẻ của tác giả Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước (trên nhiều
bình diện: bề dày lịch sử, chiều rộng của địa lí, chiều sâu văn hố, phong tục tập qn, truyền
thống), từ đó tác giả khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân – nhân dân bình dị vơ danh
đã làm nên Đất Nước. Từ những nhận thức sâu sắc ấy, nhà thơ nhắc nhở mỗi người đang có
mặt trong đất nước Việt Nam thiêng liêng quý báu của chúng ta rằng: Lịch sử đất nước là
những thế hệ người anh hùng thầm lặng dựng xây và bảo vệ:



Có biết bao người con gái con trai


Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

một cuộc chạy tiếp sức đầy nhọc nhằn, gian khó để dựng xây và bảo vệ, vun đắp và gìn giữ
Đất Nước cho chúng ta hôm nay. Nhà thơ khéo léo nhấn mạnh vào vai trò, sức mạnh của lớp
người trẻ tuổi (“giống ta lứa tuổi”) để thức tỉnh tuổi trẻ đất nước tự nguyện xả thân cứu nước,
giữ nước. Đất Nước này được làm nên từ máu xương, từ sự hi sinh giản dị, bình tâm của
những con người đã “ra đi khơng tiếc đời mình”.


Viết về lịch sử Đất Nước, tác giả không nhắc về những sự kiện lịch sử trọng đại, những
người anh hùng nổi tiếng lưu danh sử sách mà ông viết về những người anh hùng vơ danh mà
vĩ đại vơ cùng. Ngịi bút của ông thật tinh tế, khéo léo gợi những suy tư sâu xa trong lịng
người đọc. Khi ơng viết về cơng lao, vai trị to lớn của nhân dân đới với lịch sử Đất Nước thì
câu thơ kéo ra rất dài. Nhưng khi viết về sự hi sinh thì câu thơ co ngắn lại: “Họ đã sống và chết
– Giản dị và bình tâm”. Những từ ngữ “giản dị”, “bình tâm” và những từ đối lập ‘sống – chết”
cho thấy nhân dân dã tự nguyện hi sinh cho sự sống bất tận của Đất Nước. Các thế hệ nhân dân
đã hi sinh nhẹ nhàng, thanh thản. Họ thật cao cả, vĩ đại, phi thường – “không ai nhớ mặt đặt
tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Nhà thơ đã đặt những cái vĩnh hằng bên cạnh cái giản dị,
vô danh để khẳng định, ngợi ca nhân dân, vai trò của nhân dân đối với Đất Nước. Qua đó, nhà
thơ đã thể hiện niềm kính trọng, biết ơn đối với Nhân Dân.


Như vậy, qua phân tích ta thấy được cả hai đoạn thơ đều nói tới sự hi sinh thầm lặng của
những người anh hùng vô danh để “làm nên Đất Nước muôn đời”. Hai đoạn thơ đều được viết
ra bởi sự yêu thương, trân trọng, biết ơn của các tác giả - những người đang sống trong những
giai đoạn lịch sử gian khổ mà hào hùng. Tuy nhiên, mỗi đoạn thơ cũng có nét đặc sắc, hấp dẫn
riêng. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết trong những năm đầu của thời kì kháng chiến
chống Pháp với nỗi nhớ của nhà thơ về đồng đội, bằng kí ức về một thời oanh liệt của người
trong cuộc. Đoạn thơ được viết bằng cảm xúc mãnh liệt chân thành, sự kết hợp bút pháp tả


thực và lãng mạn. Đoạn thơ trong bài Đất Nước được viết trong năm cuối của thời kì kháng
chiến chống Mĩ. Trong cuộc kháng chiến, chúng ta có nhiều thắng lợi vẻ vang nhưng vận nước
vẫn rất mong manh. Lúc này cần sự đóng góp của tất cả mọi lực lượng. Bài thơ, đoạn thơ này
nhằm thức tỉnh tuổi trẻ về trách nhiệm đối với Đất Nước – cũng là một cách kêu gọi tinh thần
đấu tranh của tuổi trẻ. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngơn, có sử
dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào
hùng để tô đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ
vô danh. Đoạn thơ trong Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trị
chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trị to lớn của nhân dân vơ danh.


Qua hai đoạn thơ trong hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn
Khoa Điềm, các tác giả đã đem đến những nhận thức sâu sắc về vai trò của những người anh
hùng vơ danh. Họ đã “hố thân cho dáng hình xứ sở - Làm nên Đất Nước mn đời”. Đó là
những con người thầm lặng, giản dị mà cao cả, đáng kính vơ cùng. Hai bài thơ cùng viết về đề
tài những con người kháng chiến, nhưng ra đời trong hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên đã
có những nét tương đồng và sự khác biệt rất sâu sắc. Hai đoạn thơ trên đã đem đến cho chúng
ta những cảm xúc sâu lắng về sự khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh, về lí tưởng cao đẹp của
những người chiến sĩ, về sự hi sinh thầm lặng của các thế hệ nhân dân để ta thêm yêu cuộc
sống, yêu đất nước của chúng ta ngày hôm nay.


<b>Bài làm 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Quang Dũng là nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhưng cũng đồng thời là người chiến sĩ trực tiếp hành
quân cùng binh đoàn Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Năm 1948, khi
rời xa đơn vị tại Phù Lưu Chanh, nhà thơ đã viết “Tây Tiến” để tìm về những năm tháng hào
hùng và bi tráng của đời và đồng đội. Đúng như nhà phê bình Đặng Anh Đào từng nhận xét:
“Tây Tiến là khúc độc hành để Quang Dũng và những người đồng đội tìm về đoạn đời chiến
binh gian khổ mà hào hùng.” Bước sang giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta được
tiếp cận với tác phẩm “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Ông là một trong những nhà thơ
tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ . Ơng xuất thân từ một gia đình trí thức cách


mạng ở Huế, bản thân ơng tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh sinh viên nên thơ
Nguyễn Khoa Điềm rất giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm tư của người trí
thức….Đất nước là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971 tại
chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt. Hai bài thơ ra
đời đánh dấu hai cột mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc.


Ra đời giữa khơng khí hào hùng, máu lửa của cuộc chiến tranh giành độc lập, Quãng Dũng và
Nguyễn Khoa Điềm đều thổi vào hai bài thơ linh hồn của non sông đất nước cùng tư tưởng cao
đẹp: cống hiến tuổi thanh xn cho sự nghiệp gìn giữ hịa bình, tự do cho Tổ quốc. Cảm hứng
chủ đạo của Tây Tiến” là nỗi nhớ, nhớ về đồng đội và địa bàn hoạt động của đoàn quân, nhớ
về vùng đất mà bước chân hào hùng mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua – Tây Bắc. Đó là mảnh
đất vùng cao của Tổ quốc với đèo cao núi dốc, non nước mênh mơng, và cũng chính là nơi
đóng qn của binh đồn Tây Tiến. Họ hàng ngày hành quân trên những cung đường gập
ghềnh, gian khổ, sẵn sàng đe dọa tính mạng của bất kì bước chân lỡ nhịp nào.


“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm


Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống


Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi”


Nhưng khơng vì gian khổ mà nản chí, vì khó khăn mà chùn bước, những người lính của binh
đồn Tây Tiến vẫn khơng ngừng nỗ lực, sẵn sàng cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình để
bảo vệ cho độc lập, tự do của đất nước. Đó là ý chí chiến đấu vượt lên thử thách, bệnh tật:
“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc/ Qn xanh màu lá dữ oai hùm”, là tinh thần lạc quan
ngay cả khi ngã gục vì bom đạn chiến tranh: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng
mũ bỏ quên đời!” và trên tất cả đó là tư tưởng cao đẹp dâng hiến sức trẻ, hi sinh vì lý tưởng


cao đẹp của Đảng, của đất nước.


“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh


Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

nước. Bước vào trận chiến, không ai chắc còn hay mất, những họ vẫn kiên quyết cất bước ra
đi, và có lẽ khơng ít người đã bỏ mạng nơi xứ người. Họ nằm xuống giữa mảnh đất xa lạ,
nhưng đó là sự hi sinh đáng quý cho một điều thân quen và cao cả- đất nước. Không cất niệm,
an táng, tất cả những gì theo họ ngay khi nằm xuống cũng chỉ có manh chiếu cuốn vội của
những đồng đội cùng chung lý tưởng. Họ đắp cho nhau manh chiếu nhỏ, cũng là đắp cho nhau
tình thương, lời chia tay chân thành nhất. “Anh về đất”-ba chữ nghe thật giản dị và thân quen.
Họ không chết, họ chỉ đang quay trở về với đất mẹ, với nơi đã sinh thành gắn bó với cuộc đời
mình mà thơi. Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người tử
sĩ đã hịa cùng sơng núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn đưa
người lính vào cõi bất tử. Nỗi nhớ Tây Tiến trong Quang Dũng luôn cuồn cuộn dâng trào, thổn
thức cả hình cả tiếng, gợi về một thời oanh liệt với lý tưởng chiến đấu, hi sinh vĩ đại của thế hệ
thanh niên trẻ yêu nước.


Cùng chung tư tưởng cao đẹp ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã viết nên “Đất nước” với những vần
thơ dung dị, giàu giá trị biểu đạt sâu sắc. Nhà thơ gợi ra những băn khoăn và miệt mài đi tìm
về cội nguồn của quê hương, đất nước.


“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn



Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”


Tác giả tìm về từ cổ tích, sự tích đến những thần thoại lưu trang vàng lịch sử dân tộc, từ đó
giúp bạn đọc có cái nhìn rõ nét về chiều sâu lịch sử và thêm trân trọng, nâng niu bề dày văn
hóa đó. Tình yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với sự hiểu biết, gắn bó sâu nặng với
quê hương, đất nước. Bởi lẽ, ông không chỉ hiểu, chỉ biết mà cịn coi đất nước là một phần
xương máu của chính mình.


“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ


Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời”


Nguyễn Khoa Điềm đã dựng nên cuộc trò chuyện thân mật giữa “anh” và “em”, giữa đơi lứa
u nhau góp phần làm lời thơ mềm mại, nhẹ nhàng hơn. Sự sáng tạo độc đáo của nhà thơ nằm
trong chính cách xưng hơ đặc biệt này, khi mượn chuyện tình cảm đơi lứa để nói vấn đề chính
luận. Phải chăng tình u nam nữ đã hịa nhịp cùng tình u đất nước, làm nên cái đằm thắm,
nồng say của men tình? Phải chăng, cái tơi cá nhân đã hịa nhập trọn vẹn với cái ta chung cộng
đồng. Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu
xương của mình”. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống
thiêng liêng đối với mỗi con người.


“Ôi Tổ quốc ta ơi, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng


Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết


Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Từ hành trình đi tìm cội nguồn đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã cất lên tiếng nói nhắc nhở thế
hệ trẻ về ý thức tự tơn dân tộc sâu sắc. Đó là sự “gắn bó, san sẻ ” và “hóa thân cho dáng hình
đất nước”. Thế hệ mai sau phải ln gần gũi, gắn bó với mảnh đất q hương, ln thắp lên
cho mình ngọn lửa của tình yêu nước và ý thức cống hiến sức người, sức của, hịa nhập vào
bóng hình đất nước. Lý tưởng cao đẹp ấy ln được Đảng soi đường chỉ lối, hướng dân tộc ta,
đồng bào ta đến bến bờ ấm no, hạnh phúc.


Tuy gặp nhau trong tư tưởng, nhưng bằng cái “tôi” cá nhân độc đáo của mỗi thi sĩ cùng hoàn
cảnh lịch sử của hai cuộc kháng chiến khốc liệt, “Tây Tiến” và “Đất nước” đã lưu dấu những
ấn tượng riêng đặc biệt trong cả nội dung và nghệ thuật. Nếu như Tây Tiến được viết bằng thể
thơ thất ngơn, có sử dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khốt, mạnh
mẽ, âm hưởng hào hùng để tơ đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử
của những người lính vơ danh, thì “Đất Nước” được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm
tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trị to lớn của nhân dân vơ danh.
Nếu như “Tây Tiến” với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỗi nhớ của người lính vùng cao
về những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thì bước sang những vần
thơ của Nguyễn Khoa Điềm, “Đất Nước” được hoàn thành trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên bộc lộ cảm hứng đất nước qua cái nhìn tổng quát đưa đến
những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc về đất nước: Đất nước là tất cả những gì gắn bó máu thịt
với mỗi con người.


Hai bài thơ “Tây Tiến” và “Đất nước” , mỗi tác phẩm ra đời trong một thời khắc riêng, được
chắp cánh bởi hai tâm hồn có cá tính riêng đều mang trong mình sức sống riêng bền lâu, sâu
sắc trong lịng mỗi thế hệ bạn đọc. Qua đó, thắp lên trong lịng đọc giả tình u cùng ý thức
trách nghiệm cao đẹp với quê hương, đất nước.


<b>Bài làm 3</b>


Đất nước trong mỗi người, chỉ có một nhưng lại mang hình hài khác nhau, mang theo những
câu chuyện khác nhau. Với Quang Dũng, đó là hình ảnh:



“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(“Tây Tiến” – Quang Dũng)


“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ


Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”


(“Đất Nước”- Nguyễn Khoa Điềm)


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

giới Việt-Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Cuối năm 1948, khi buộc phải rời quân đoàn đi
làm nhiệm vụ khác, nỗi nhớ về Tây Tiến và núi rừng, con người Tây Bắc đã giúp ông viết lên
bài thơ. Còn Nguyễn Khoa Điểm viết “Đất nước” bởi sự ý thức, bằng tinh thần trách nhiệm và
hướng tới sự thức tỉnh. “Đất nứơc” là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng,
viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc
liệt, tư tưởng của lớp thanh niên trí thức ở miền Nam đang dần bị lung lay. Bài thơ như một sự
khẳng định, thức tỉnh và cảnh tỉnh con người.


Đầu tiên, ta có thể cảm nhận được hình ảnh đất nước thật hào hùng mà cũng bi tráng trong sự
hi sinh anh dũng của con người:


“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất



Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”


Câu thơ là một trong những bức tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. Nơi viễn xứ,
những con người ấy chỉ còn là áo vải mong manh. Cái bi, cái mất mát trong chiến tranh là
chẳng thể nào chối bỏ. Vì thế, Nguyễn Duy từng đúc kết một cách đau xót: “Kì quan nào
chẳng hắt bóng xót xa” (“Đứng trước tượng đài Kiev). Nhưng bi mà không hề lụy. Câu thơ sử
dụng hệ thống những từ Hán Việt: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc
hành” làm cho khơng khí trở nên trang giọng, lời thơ trầm lắng, giọng thơ trầm hùng, bi tráng.
Lại một cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng định khí thế ngang tàng của những
bậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Hình ảnh “áo bào” gợi về bóng dáng những Kinh
Kha bên bờ sơng Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn” cùng biện pháp nói giảm nói
tránh càng làm cho người lính hiện lên cao đẹp. Cái chết đối với họ, đơn giản chỉ là sự trở về
khi mình đã sống và chiến đấu hết mình trong một tâm thế ung dung, nhẹ nhàng. Trước đây,
khi nhắc đến những câu thơ này của Quang Dũng, người ta thường thấy ở đó những biểu hiện
tiêu cực của “mộng rớt”, “buồn rớt” hay “yêng hùng tư sản”. Cái khẩu khí của nhà thơ, của
những anh bộ đội Tây Tiến ấy, thực ra, vô cùng đáng trọng. Nó là biểu hiện quyết tâm của
những con người yêu giống nịi, sẵn sàng đổ máu hi sinh vì những lẽ sống lớn lao. Họ không
phải nạn nhân, những con tốt đen vô danh vô nghĩa trên bàn cờ trận mạc mà là những “chủ thể
đầy ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng giây phút, biết ước mơ, hi vọng và khi cần thì sẵn
sàng hiến dâng. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ
mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy
nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.


Nhận thức được điều đó, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định một lần nữa:
“Em ơi em


Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ



Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời”


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Điềm viết về chính trị mà khơng khơ khan, là chính luận nhưng cũng đậm chất trữ tình. Em
phải nhớ: “Đất nước là máu xương của mình”. Một cách định nghĩa rất cụ thể và rất mới mẻ
của Nguyễn Khoa Điềm: ý niệm phi hình thể được hữu hình như “máu xứng của mình” – là
một phần cơ thể, không thể thay thế, không thể cắt bỏ, tách rời; đồng thời cũng là máu xương,
mồ hôi và cả linh hồn của những người lính như người lính Tây Tiến phải chịu cảnh “rải rác
biên cương mồ viễn xứ”. Vì thế chúng ta “phải biết gắn bó và san sẻ” – sự u thương và sẻ
chia, đồn kết; “hóa thân cho dáng hình xứ sở”- biết bỏ cái tơi, cái ích kỷ để làm một phần của
đất nước, sẵn sàng hi sinh, sẵn sàng dâng hiến. Điệp từ “Phải biết”, không chỉ đơn giản là sự
gợi nhắc mà đã trở thành yêu cầu, là sự thức nhận ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, thể hệ
trẻ đối với hai tiếng “Đất nước” đã cưu mang mình để làm nên “đất nước muôn đời” mãi mãi
vững mạnh.


Như vậy, đối với cả Quang Dũng hay Nguyễn Khoa Điềm, đất nước là tất cả những gì rất
thiêng liêng và cao cả nhưng cũng rất đỗi gần gũi, giản dị. Với Quang Dũng, đất nước là sự
hào hùng, bi tráng của những con người đã dũng cảm “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Hiểu
được Điều đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tái khẳng định cũng như xác nhận trách nhiệm của thế
hệ trẻ với đất nước. Cuối cùng, đều chính là tư tưởng đóng góp, dâng hiến hết mình cho Tổ
quốc. Nhưng nếu “Tây Tiến” đã trở thành địa chỉ của thương nhớ với những từ Hấn Việt trang
trọng, giọng thơ dứt khốt, âm hưởng hào hùng thì “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm lại là
cái nhìn mới mẻ, sâu sắc, tồn hiện về những khái niệm tưởng như đã quá quen thuộc được
viết bằng thể thơ tự do, từ ngữ giản dị, giọng điệu tâm tình thủ thỉ. Dịng chảy của văn học Việt
Nam đã qua được ngàn đời và còn tiếp tục chảy dài bởi sự tiếp thu và cách tân, bởi những
điểm gặp gỡ và độc đáo riêng như vậy.


Bom đạn đã qua đi, những chiến tuyến được lập lên rồi lại san bằng nhưng những câu thơ kia
còn sống mãi. Đó là câu thơ của một thời, của chân lí thời đại.



</div>

<!--links-->

×