Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tải Thuyết minh về nhà thơ Cao Bá Quát - Bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.25 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Thuyết minh về nhà thơ Cao Bá Quát</b>
<b>Bài làm</b>


Cao Bá Quát đã sống như một huyền thoại. Với những động cơ khác nhau và
cách nhận thức khác nhau về ông, người ta đã sáng tác ra những giai thoại và
nhiều khi hậu thế chỉ hiểu ơng qua những giai thoại ít nhiều xun tạc đó. Dù
sao, trong tâm thức nhân dân, ông đã trở thành một bậc “thánh” của thơ. Điều
này cũng khơng có gì quá đáng, thậm chí là một đánh giá tương đối chính xác.
Cao Bá Quát (1808 – 1855) người làng Phú Thọ, Gia Lâm (nay thuộc Hà Nội),
từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, giỏi thơ văn. Trong thời gian làm quan, ơng
nhiều lần bị trách phạt, giáng chức, thậm chí chịu tù ngục do tính tình thẳng
thắn cương trực. Năm 1854, ông cùng bạn bè dựng cờ khởi nghĩa Mỹ Lương
song cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị thất bại, Cao Bá Quát cũng hy sinh. Mặc
dù thơ văn Cao Bá Quát sau đó bị cấm lưu hành, song nhiều tác phẩm vẫn được
lưu truyền đến nay như Cao Chu Thần thi tập, Mẫu hiên thi loại, …


Cao Bá Quát (1808 – 1855) là nhà thơ xuất sắc của Việt Nam thế kỷ 19. Ông tự
Chu Thần, hiệu Mẫn Hiên, Cúc Dương, quê làng Phú Thọ, huyện Gia Lâm,
tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hà Nội). Cao Bá Quát cùng người anh song sinh là
Cao Bá Đạt nổi tiếng thông minh, học giỏi từ nhỏ. Thân sinh của hai ông là
Cao Cửu Chiêu, một nhà nho hay chữ, có ước vọng khi lớn lên, các con mình
sẽ trở thành quan đại thần của triều đình nên lấy tên của hai học sĩ đời Chu
cũng là hai anh em sinh đôi để đặt tên cho hai con.


Ngay từ nhỏ, Cao Bá Quát đã có giọng văn hùng hồn, ý tứ mạnh mẽ, thể hiện ý
chí của người tài hoa. Lưu truyền rằng Cao Bá Quát thường nói: Trong thiên hạ
có bốn bộ chữ, mình tơi chiếm hai bồ, anh tơi và bạn tơi, Nguyễn Văn Siêu,
chiếm một bồ, còn bồ thứ tư chia cho mọi kẻ khác. Khi theo học ở trường Bắc
Ninh, danh tiếng của Cao Bá Quát đã lừng lẫy.


Năm 1832, ông đi thi Hương, đỗ á Nguyên tại trường thi Hà Nội, sau đó vào


kinh đơ (Huế) thi Hội, nhưng thi mãi không đỗ (truyền rằng do các quan chấm
thi ghét ông kiêu ngạo nên đánh hỏng). Năm 1841, nhờ sự tiến cử của quan tỉnh
Bắc Ninh, Cao Bá Quát được vào kinh đô nhậm chức Hành Tẩu Bộ Lễ. Tuy
làm quan, cuộc sống của ông cũng hàn vi, không thay đổi.


Tháng 8-1841, ông được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, thấy một số
bài thi hay nhưng phạm húy. Ông cùng người bạn lấy muội đèn chữa giúp.
Việc bị phát giác, đáng lẽ ông bị xử chém, nhưng sau được xét lại chỉ bị cách
chức, bị tù ba năm, phát phối đi Đà Nẵng.


Về sau nhân có Đào Tri Phủ đi sứ sang Indonesia, ông được tha và được cử
theo phái đồn phụ tá cơng việc. Trở về nước, ông được khôi phục chức cũ,
một thời gian rồi bị thải. Năm 1847, Cao Bá Quát được gọi vào làm việc ở
Viện Hàn Lâm, sưu tầm văn thơ. Hồi ấy, Tùng Thiên Cộng lập ra Mạc Vân thi
xã, được nhiều quan văn trong triều tham gia, hưởng ứng. Giai thoại kể rằng có
lần Cao Bá Quát được xem những bài thơ của “Mạc Vân thi xã” đã lắc đầu, bịt
mũi ngâm:


“Ngán thay cái mũi vô duyên


Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An”


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Cao Bá Quát mà cịn nhún mình đến kết giao. Thấy nhà ơng thanh bần, hai vị
cịn giúp đỡ vật chất. Cảm kích thái độ của hai vị công khanh, Cao Bá Quát gia
nhập Mạc Vân thi xã. Trong thời gian này, ông đã xướng họa nhiều bài hay nổi
tiếng, đến đỗi vua Tự Đức, một người giỏi và chuộng văn chương phải khen
ngợi văn tài của ông là một trong bốn tay cự phách của Mạc Vân thi xã:


<i>“Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán</i>
<i>Thi đáo Tùng, Tuy thất thánh Đường”</i>



(Văn của Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát có thể hơn thời tiền Hán, thơ của
Tùng Thiện Vương, Tuy Lữ Vương lấn át ngay cả thơ đời thánh Đường). Cịn
người đương thời thì tôn gọi ông là Thánh Quát (cùng với Nguyễn Văn Siêu là
Thần Siêu, Thánh Quát). Vì hay châm biếm vua và triều đình nên ơng bị đẩy
khỏi kinh đơ (1850) ra làm giáo thụ ở Quốc Oai, Sơn Tây, một vùng heo hút,
nghèo nàn.


Tại đây, chứng kiến những nỗi cơ cực của nhân dân, thơng cảm với sự bất bình
của đại chúng, ơng đã bí mật kết giao với nhiều bạn bè, dựng cờ khởi nghĩa ở
đất Mỹ Lương (1854). Nghĩa quân lấy danh nghĩa phù Lê, tôn Lê Duy Cự làm
minh chủ, Cao Bá Quát làm quốc sư, chống lại triều đình. Song cuộc khởi
nghĩa chỉ kéo dài được mấy tháng thì bị dập tắt. Cao Bá Quát bị viên suất đội
Đinh Thư Quang bắn chết giữa lúc ông đang ở trận tiền. Nhà Nguyễn đã trả
thù, tru di ba họ của ông. Các tác phẩm của ông đều bị cấm tàng trữ, thu hồi và
đốt hết.


Tuy nhiên, tác phẩm của Cao Bá Quát vẫn sống mãi trong lòng người. Những
cố gắng sưu tầm sau này đã thu thập được trên một nghìn bài thơ, phú bằng chữ
Hán và chữ Nôm của ông. Thư viện Khoa học Xã hội Việt Nam hiện có trên 12
tập mang tên Cao Chu Thần thi tập, Mẫu hiên thi loại, Cúc Đường thi thảo, v.v.
Nhiều bài thơ chữ Hán, thơ ca trù và bài phú Tài tử đa cùng của ông, được
nhiều thế hệ thuộc lịng. Qua các sáng tác đó, Cao Bá Quát hiện ra là một nhà
thơ có bản lĩnh.


Tâm hồn ông bao trùm thiên nhiên, gắn bó với quê hương đất nước. Ông ca
ngợi các anh hùng dân tộc: Phù Đổng Thiên vương, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi;
trân trọng các nhà chữ sĩ Chu Văn An, Nguyễn Trãi. Ông cũng rất quan tâm
đến phận của người lao động lầm than. Đặc biệt, một số bài chứng tỏ ơng có
tầm nhìn xa rộng, khác với những nhà nho, nhà thơ đương thời. Ông phàn nàn


về lối học tứ chương “nhai văn nhá chữ”, ông cảm thấy cái nguy cơ xâm lược
của bọn thực dân phương Tây (như trong bài Hồng mao hỏa thuyền ca). Nổi
bật lên là một niềm ưu ái lo đời, khắc khoải vì khơng có cách gì làm cho thiên
hạ thái bình:


<i>Thái bình vơ nhất lược,</i>
<i>Lộc lộc sĩ vi nho</i>


<i>(Khơng có khó gì cho thiên hạ thái bình,</i>
<i>Thẹn mình là anh nhà nho kém cỏi).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3></div>

<!--links-->

×