Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

THU HOẠCH cống hiến và hạn chế trong quan niệm về chính trị xã hội của nho giáo và sự ảnh hưởng đến tư tưởng triết học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.53 KB, 16 trang )

CỐNG HIẾN VÀ HẠN CHẾ TRONG QUAN NIỆM VỀ CHÍNH TRỊ XÃ
HỘI CỦA NHO GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị - xã hội xuất hiện ở Trung
quốc và có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm. Những tư tưởng triết học của Nho
gia có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nhà tư tưởng lỗi lạc trong lịch sử
Việt Nam như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngơ Thì Nhậm và nhiều nhà tư tưởng khác.
Nhiều tư tưởng tiến bộ trong các quan điểm về chính trị, xã hội, đạo đức của
Nho gia đã được các nhà tư tưởng Việt Nam kế thừa theo tinh thần thực tiễn của
dân tộc. Đó là tư tưởng thân dân, trọng dân, coi dân là gốc của quốc gia; đó là tư
tưởng nhân, nghĩa trong đời sống chính trị - xã hội; đó là mối quan hệ biện
chứng song trùng giữa vua – tôi, cha – con, chồng – vợ; đó là các phạm trù đạo
đức trung, hiếu, tiết, nghĩa v.v…
Trong khi kế thừa và sử dụng các tư tưởng tiến bộ đó, các nhà tư tưởng
Việt Nam đã bổ sung và làm thay đổi các nội hàm một số khái niệm vốn có của
Nho gia. Do vậy, các tư tưởng của Nho gia, đặc biệt là các tư tưởng chính trị, xã
hội có ảnh hưởng nhiều tới đời sống xã hội Việt Nam, kể cả trong quá trình xây
dựng xã hội mới hiện nay, các tư tưởng này của Nho gia cũng có những giá trị
nhất định.
Bài thu hoạch này đề cập đến những nội dung quan điểm về chính trị xã
hội của Nho giáo; sự du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo đối với nước ta. Trên
cơ sở phân tích làm rõ những nội dung trên, bài thu hoạch chỉ ra những mặt
cống hiến và hạn chế của quan điểm này, những ảnh hưởng đối với tư tưởng triết
học Việt Nam.
NỘI DUNG
I. QUAN NIỆM VỀ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA NHO GIÁO – CỐNG
HIẾN VÀ HẠN CHẾ
Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc
thời cổ đại đó là những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức, thể chế cai trị vốn đã
có cơ sở ở Trung Quốc từ thời Tây Chu, đến cuối thời Xuân Thu (TK XI – TK V


.TCN) được Khổng Tử (551- 479TCN) sáng lập và các mơn đệ của Ơng là
Mạnh Tử (372-289 TCN) phát triển về phía duy tâm tiên nghiệm và Tuân Tử
( 313 - 238 TCN) phát triển về phía duy vật.
* Khổng Tử:
Khổng Tử coi xã hội là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người
như: vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh em, bạn bè. Coi 5 mối quan hệ đó là ngũ
ln trong đó 3 mối quan hệ vua-tơi, cha-con, chồng-vợ là mối quan hệ cơ bản


nhất, gọi là Tam cương.
Ông muốn thiết lập một trật tự xã hội có đẳng cấp, có tơn ti trật tự, từ vua
tôi đến thứ dân phải lấy nhân, nghĩa, lễ, chính danh làm chuẩn mực. Ơng coi
trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh. Đường lối này gọi là đường lối
“đức trị” hay “nhân trị”.
Phạm trù cơ bản trong học thuyết chính trị - đạo đức của Khổng tử là
Nhân, Nghĩa, Lễ, Chính danh. Điều “Nhân” là hạt nhân trong học thuyết chính
trị của Khổng tử. Theo ông “Nhân” là nội dung, “Lễ” là hình thức của “Nhân”
và “Chính danh” là con đường để đạt đến Nhân.
Nhân trong quan điểm của Khổng tử gồm có 5 nội dung cơ bản:
+ Nhân giả, ái nhân: thương người như thương mình.
+ Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân: điều mình khơng thích thì cũng đừng làm
với người.
Kỷ sở lập nhi lập nhân: mình thành người thì cũng giúp người khác
thành người.
Kỷ sở đạt nhi đạt nhân: mình thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt.
+ Xảo ngơn, lệch sắc, tiễn hỷ nhân: ăn nói ngon ngọt, lời nói khơng đúng,
thiên về sắc đẹp, khơng sống đúng mình, biến đổi thể diện.
+ Khắc hỷ, phục lễ, vi nhân: hạn chế lịng mình đi về với lễ là người có nhân.
+ Hiếu đế.
Nhân: là lịng thương người. Người có nhân là người có đạo đức hồn

tồn. Trung và thứ là hai khía cạnh của nhân. Trung là tính ngay thẳng với
người, điều gì mình muốn làm thì hãy làm cho người. Thứ là lịng vị tha, điều gì
mình khơng muốn thì đừng làm cho người. Người nhân biết thương người
nhưng cũng biết ghét người. Đồng thời với bản thân phải kiềm chế mình theo
đúng lễ, nếu khơng hợp với lễ thì khơng nhìn, khơng nói, khơng nghe, khơng
làm. Ngồi ra nhân còn bao gồm các nội dung khác như: cung kính, nghiêm túc,
thành thật, dũng cảm, rộng lượng, cần cù…Như vậy, nhân là một phạm trù rất
rộng gần như đồng nghĩa với đạo đức. Khổng tử coi Nhân và Thánh gần như
một, đã Thánh là Nhân, đã Nhân là Thánh. Bản thân Khổng tử cũng chưa dám
nhận là người có nhân.
Nhân có tính đẳng cấp thể hiện trong các mối quan hệ cụ thể. Trong đạo
nhân, hiếu là gốc. Hiếu không chỉ thể hiện ở việc nuôi nấng cha mẹ mà quan
trọng là lịng thành kính. Kính đồng thời cũng là bản chất của chữ Hiếu, có
nghĩa Kính cũng chính là Nhân. Đối với các phẩm chất Trí, Dũng cũng vậy.
Khổng tử nói “Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả bất tất hữu nhân” (Luận ngữ:
người có nhân tất có dũng, người có dũng chưa chắc có nhân).
Như vậy có thể khẳng định rằng: “chữ Nhân đối với mọi người trong
2


thiên hạ cịn hơn cả nước, lửa, người ta có thể đạp lên nước, lửa mà chết chứ
không đạp lên chữ Nhân” (Nguyễn Đăng Duy – Nho giáo với văn hóa Việt
Nam). Đồng nghĩa với việc coi chữ Nhân là nội dung, là tinh thần cốt lõi trong
học thuyết đạo đức nho giáo.
Lễ: đặt sau đức Nhân là đức Lễ nhằm giáo dục con người, duy trì các mối
quan hệ trong vòng trật tự kỷ cương.
Trước hết, Lễ là phạm trù chỉ tôn ti trật tự, kỷ cương của xã hội mà mọi
người, mọi giai cấp trong xã hội phải học, phải tn theo. Theo đó, trong xã hội
có vua-tơi, cha-con, chồng-vợ, có người trên kẻ dưới, có việc trái việc phải cho
nên phải có lễ để phân minh rõ ràng.

Thứ hai, lễ là những chuẩn mực, những quy tắc, những u cầu có tính bắt
buộc, ràng buộc với mọi hành vi, ứng xử của con người trong các mối quan hệ
xã hội cũng như trong các hoạt động khác của con người. Tuy nhiên, lễ không
phải là một tiêu chuẩn đạo đức hoàn toàn độc lập mà là một vấn đề luôn gắn liền
với Nhân. Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ thì nhân là gốc, là nội dung, cịn lễ
là biểu hiện của nhân. Ví dụ trong các tang lễ, xa xỉ chẳng bằng tiết kiệm, đầy đủ
mọi nghi thức chẳng bằng xót thương. Do đó “Người khơng có lịng nhân thì
thực hành lễ sao được” vì “Nói về lễ khơng phải chỉ có lụa ngọc mà thôi”.
Lễ không những là biểu hiện của nhân mà lễ cịn điều chỉnh đức nhân cho
đúng. Khổng tử nói “Cung kính mà khơng biết lễ thì mệt nhọc, cẩn thận mà
khơng biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà khơng biết lễ thì làm loạn, thẳng thắn
mà khơng biết lễ thì làm phật ý người khác”.
Và theo Khổng tử giữa tình và lễ thì lễ quan trọng hơn, vì thế ông đã nói
cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khn phép mà dùng hình phạt thì
dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo
đức đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lịng quy
phục. Như vậy, đức lễ có vai trò rất lớn trong việc cai trị dân, trong đường lối cai
trị nước của các bậc thiên tử ở thời đại phong kiến.
Trong giáo dục cũng chủ trương đề cao đức lễ, mục đích giáo dục là uốn
nắn nhân cách và bồi dưỡng nhân tài, vì vậy phương châm giáo dục quan trọng
nho giáo là “Tiên học lễ, hậu học văn”. Vì vậy, đức lễ có vai trị rất lớn, nó quy
định hình thức mối quan hệ giữa người với người trong xã hội.
Cùng với lễ, nhạc cũng có vai trị quan trọng. Nhạc mà chính trực, trang
nghiêm, hịa nhã có tác dụng ni dưỡng tâm tính, cảm hóa lịng người, hướng
cái tâm con người tới chân, thiện, mỹ.
Nghĩa: trong quan niệm của nho giáo, “Nghĩa vừa là phạm trù đạo đức
vừa là phạm trù chính trị xã hội. Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý
đến nghĩa và coi thường lợi. Ông coi nghĩa là phẩm chất cơ bản của người quân
tử “Bậc quân tử tinh tường về việc nghĩa” (quân tử dụ ư nghĩa) đồng thời người
quân tử phải hành động vì nghĩa “Người quân tử dùng nghĩa lí làm căn bản”

3


(quân tử nghĩa dĩ vi chất)”.
Nghĩa gắn liền với Nhân, Nhân thể hiện tình cảm sâu sắc thì nghĩa là
nghĩa vụ để thực hiện tình cảm đó.
Nghĩa cũng gắn liền với Dũng, muốn làm việc nghĩa mà khơng có dũng
thì không thể thực hiện được, Khổng tử trọng dũng gắn liền dũng với nghĩa,
trong đó nghĩa chỉ đạo dũng và dũng phải phù hợp với nghĩa.
Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lịng dũng cảm (dũng) và có Trí (trí
tuệ). Có trí mới biết cách giúp người mà khơng làm hại đến người, đến mình,
mới biết yêu và ghét người, mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ người
khơng ngay thẳng. Tuy nhiên, trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông không
phải là những tri thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên và xã hội để từ
đó chỉ đạo hành động của con người mà là những tri thức mang tính giáo điều,
chỉ gói gọn trong sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Tứ thư và Ngũ kinh).
Ngoài ra nghĩa cũng đồng nghĩa với cái tâm trong sáng, không bị những
ham muốn tầm thường ảnh hưởng. Người làm việc nghĩa với cái tâm trong sáng,
không bị những ham muốn tầm thường ảnh hưởng. Người làm việc nghĩa là
những bậc công tử mà “phú quý bất năng dâm bần tiện bất năng di, uy vũ bất
năng khuất” (phú quý không ham muốn, khơng vì nghèo đói mà hạ thấp mình,
khơng vì uy vũ mà bị khuất phục).
Chính danh: Coi chính danh là điều cơ bản để trị nước. Một trong những
nguyên nhân loạn lạc của xã hội là do danh thực không phù hợp nhau, vì theo
ơng nếu danh thực khơng phù hợp nhau; mà ngơn khơng thuận thì sự việc khơng
thành; sự việc khơng thành thì lễ nhạc khơng hưng thịnh. Danh là tên, khái
niệm, bản chất. Chính danh là người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với
cương vị đó, phải làm đúng danh phận, chức trách của mình.
Nhân, lễ, nghĩa, chính danh khơng chỉ đạo làm người, mà còn đạo trị
nước. Để cai trị đất nước, người cầm quyền trước hết phải có đạo đức.

Để cho đất nước thịnh trị, phải biết thượng hiền. Phải thực hiện 3 điều là
thực túc, binh cường, dân tín. Nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt những điều trên, thì
trước hết phải bỏ binh cường, sau đó bỏ thực túc, nhưng khơng bỏ lịng tin của
dân được, nếu khơng chính quyền sẽ sụp đổ.
Như vậy, có thể thấy đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều
hịa mâu thuẫn giai cấp, phản đối đấu tranh. Khuyên giai cấp thống trị phải biết
yêu thương, tôn trọng, chăm lo nhân dân. Dân phải an phận, lấy nghèo làm vui,
coi việc oán trách cảnh nghèo hèn, ưa dùng bạo lực là mầm móng của loạn.
* Mạnh Tử: Một trong những quan điểm quan trọng nhất của học thuyết
Mạnh Tử là thuyết tính thiện. Mạnh Tử đưa ra 3 căn cứ để lý giải bản tính của
của con người là bản tính thiện: tính thiện của con người biểu hiện ở 4 đức tính
lớn: nhân, nghĩa, lễ, trí. Bốn đức lớn đó bắt nguồn ở tứ đoan (4 đầu mối của
thiện), đó là lịng trắc ẩn (biết thương xót), lịng u tố (biết thẹn, ghét), lòng từ
4


nhượng (biết cung kính) và lịng thị phi (biết phải trái). Bản tính thiện của con
người cũng xuất phát từ cái chung của lồi người. Tính thiện của con người đều
bắt nguồn từ cái “tâm” của mỗi con người. Tâm là do trời phú cho ta, nhờ có cái
tâm mà phân biệt phải trái, thiện ác.
Ông phát triển học thuyết nhân của Khổng Tử thành học thuyết nhân
chính, chủ trương lấy đức để thu phục lòng người, phản đối việc cai trị bằng bạo
lực. Phân biệt vương chính (cai trị bằng nhân nghĩa) với bá chính “cai trị bằng
bạo lực”. Coi dân là quan trọng nhất, kế đến là giang sơn xã tắc, vua là thường.
Quan hệ vua tôi là quan hệ 2 chiều, tôn trọng lẫn nhau. Nếu vua coi bề tơi như
cỏ rác thì bề tơi coi vua như kẻ thù. Nếu vua khơng có đạo đức thì khơng cịn
xứng đáng là vua nữa và nhân dân có quyền lật đổ ngôi vua.
Do chế độ công hữu tan rã, chế độ tư hữu ra đời do đó chủ trương để cho
dân có hằng sản mới có hằng tâm tức dân có tư liệu sản xuất ổn định thì mới có
cái tâm ổn định.

* Tn Tử: Ơng cho rằng, con người phải hành động phù hợp với lẽ tự
nhiên, con người có thể cải tạo tự nhiên và xã hội để làm cho cuộc sống tốt đẹp
hơn. Phê phán việc tôn thờ trời, ỷ lại ở trời, khuyên con người nên tin vào sức
mình, ra sức phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, ăn ở điều độ, giữ gìn sức
khỏe thì trời sẽ khơng để cho nghèo đói, bệnh tật. Chủ trương sửa trị việc nước,
giáo dục đạo đức, lễ nghĩa làm cho xã hội tiến bộ văn minh hơn. Đó là chức
năng sánh ngang với trời. Phân chia đẳng cấp xã hội theo nghề nghiệp: sĩ, nông,
công, thương. Nghi thức cúng lễ nếu lấy làm văn minh thì tốt.
Tóm lại, quan điểm chính trị-xã hội của phái Nho gia là lấy nhân, nghĩa,
lễ, chính danh làm phạm trù cơ bản trong học thuyết chính trị-đạo đức. Đặc biệt
với Khổng Tử coi chính danh là điều cơ bản để trị nước; để cai trị đất nước
người cầm quyền trước hết phải có đạo đức. Khơng những thế để đất nước thịnh
trị phải biết thượng hiền và thực hiện 3 điều: thực túc, binh cường, dân tín.
Đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều hịa mâu thuẫn giai cấp, phản
đối chiến tranh. Mạnh Tử thì phát triển học thuyết nhân của Khổng Tử thành học
thuyết nhân chính, chủ trương lấy đức để thu phục lịng người, phản đối cai trị
bằng bạo lực. Phân biệt vương chính với bá chính, coi dân là quan trọng nhất và
quan hệ vua tôi là quan hệ hai chiều, tôn trọng lẫn nhau. Cịn Tn Tử phê phán
việc tơn thờ trời, ỷ lại ở trời và khuyên con người nên tin vào sức mình. Chủ
trương sửa trị việc nước, giáo dục đạo đức, lễ nghĩa làm cho xã hội tiến bộ, văn
minh hơn.
Tuân Tử đề cao lễ trị. Ông cho rằng lễ là do quân tử đặt ra để điều lý vạn
sự và giữ cỏi mối trị trong thiên hạ: trời đất là cái đầu sự sinh, lễ nghĩa là cái
đầu sự trị, quân tử là cái đầu lễ nghĩa. Lễ là cốt để phân biệt ra trật tự và định
giwois hạn cho minh bạch, khiến việc hành động của nhân dân khơng rối loạn,
ơng tin rằng dùng lễ có hiệu quả rất lớn về việc xã hội và quốc gia trọng lễ quý
nghĩa thì nước trị, giản lễ rẻ nghĩa thì quốc loạn. Theo ơng, lễ có ảnh hưởng
5



dến sự linh hoạt của người ta ở trong xã hội mà việc trị loạn đều bởi đó mà ra.
Ơng cho rằng làm vua muốn được dân yêu, dân quý tài phải có nhân, có nghĩa
hết nhân với thiên hạ thì ai cũng yêu, hết nghĩa với thiên hạ thì ai cũng quý.
Vậy lấy nhân nghĩa mà trị thiên hạ thì thiên hạ cho ngơi vua là gốc chung của
thiên hạ. Người dân tuy phải phục tùng theo vua nhưng khi vua là kẻ tàn ác thì
dân có quyền được trừ bỏ đi. Phạt người có tội là để khiến những kẻ gian ác
đừng làm những điều phi pháp và sự thưởng phạt của vua bao giờ cũng phải
công minh và xứng đáng.
* Từ những quan niệm về chính trị xã hội của Nho giáo nêu ở trên có
thể rút ra một số cống hiến và hạn chế như sau:
- Trong bối cảnh nước Trung Quốc thời Xuân Thu, một xã hội loạn lạc,
cha không ra cha, con không ra con, mọi giá trị đạo đức bị đảo lộn. Chủ trương
dùng “Nhân” để giáo hoá con người, cải biến xã hội từ loạn thành trị của Nho
gia đã biểu hiện tính tích cực, tính nhân bản của đạo Nho.
Quan niệm về đức nhân của Khổng Tử là một đóng góp lớn trong việc giáo
dục đào tạo con người giúp con người phát triển tồn diện, vừa có đức vừa có tài.
Tuy nhiên do hạn chế về lập trường giai cấp nên quan niệm về đức nhân của
Khổng Tử cũng có nội dung giai cấp rõ ràng khi ông cho rằng chỉ có người qn
tử mới có được đức nhân, cịn kẻ tiểu nhân tức nhân dân lao động khơng có đức
nhân; nghĩa là đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử là của giai cấp thống trị. Mặt
khác, do chưa hiểu rõ nguyên nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và bị những
quyền lợi giai cấp quy định nên phương pháp cải biến con người và xã hội của
Khổng Tử chỉ đạt ở mức cải lương, duy tâm chứ không phải bằng cách mạng hiện
thực. Mặt hạn chế khác, đó là tư tưởng của ơng nặng về giáo dục chính trị đạo đức
khơng coi trọng việc giáo dục tri thức khoa học, kỹ thuật. Khổng tử coi sản xuất
là công việc của kẻ tiểu nhân, không phải là trách nhiệm của người quân tử; chủ
trương theo khuôn mẫu cũ, khơng khuyến khích việc sáng tạo ra cái mới; đường
lối giáo dục không gắn khoa học với kỹ thuật và sản xuất.
Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt
hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng

tới tầm mức quốc gia, ngồi ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền
chặt hơn, có tơn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ,
anh-em, bạn-bè”. Khổng Tử hình dung quốc gia là một gia đình lớn, ơng vua là
người cha của gia đình ấy. Nho giáo đặt vua đứng đầu trong tam cương và ngũ
luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha mẹ, tận trung với vua. Một
người biết yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì mới biết u thương người
ngồi. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên là gia đình, từ đó
suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Coi trọng vai trị gia đình trong việc hình
thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và
vẫn cịn có ý nghĩa nhất định đối với ngày nay, bỡi lẽ, gia đình là một tế bào của
xã hội, xã hội không thể ổn định, thịnh trị nếu các gia đình lục đục và vơ đạo. Vì
vậy, người cầm quyền nếu khơng “tề gia” (cai quản gia đình) của mình thì cũng
6


không thể “trị quốc” (cai trị đất nước) được.
- Trong triết học của Khổng Tử các phạm trù “nhân” “lễ”, “nghĩa”, “chính
danh”.....có nội dung hết sức phong phú, thống nhất với nhau và luôn thâm nhập
vào nhau vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó ln cố gắng giải đáp những
vấn đề đặt ra của lịch sử và đây có lẽ là thành quả rực rỡ nhất trong triết lý nhân
sinh của ông.
Tư tưởng lễ của Nho giáo có tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng lễ
đã đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá phẩm hạnh con người.
Sự giáo dục con người theo lễ đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn, biết quý
trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ. Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở
những lời giáo huấn mà đã đi vào lương tâm của con người. Từ lương tâm đã
dẫn đến hành động đến mức trong các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà
chết chứ khơng bỏ lễ: chết đói là việc nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu
Hy). Nhờ tin và làm theo lễ mà các xã hội theo Nho giáo đã giữ được yên ổn
trong gia đình và trật tự ngồi xã hội trong khn khổ của chế độ phong kiến. Lễ

trở thành điều kiện bậc nhất trong việc quản lý đất nước và gia đình.
Về mặt hạn chế, lễ là sợi dây ràng buộc con người làm cho suy nghĩ và
hành động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ; lễ đã kìm
hãn sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Điều này nói lên rằng, tư
tưởng Nho giáo mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Khổng Tử đã từng
nói: “Ta theo lễ của nhà Chu vì lễ đó rực rỡ lắm thay” và ơng ln mong xã hội
lúc đó quay về thời đại Nghiêu, Thuấn. Khách quan mà đánh giá, thì hạn chế
trên của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tế lịch sử. Bởi vì, Khổng Tử sống
trong thời đại xã hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không
từ một thủ đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vương, để có bổng lộc chức tước.
Ơng hồi cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu. Tuy
nhiên, chính mặt hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn dư cho đến tận ngày
nay, nó trở thành phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và hành động
của khơng ít người ở các nước phương Đông, nơi tiếp nhận và chịu ảnh hưởng
của Nho giáo.
Theo Khổng Tử xã hội loạn lạc do Danh –Thực rối loạn, dẫn đến xã hội
xa rời đạo lý và nhân nghĩa. Ơng chủ trương phải giáo hố đạo đức và thực hiện
chủ nghĩa “chính danh, định phận’’, vì mọi người, mỗi vật sinh ra đều có địa vị,
cơng dung nhất định, ứng với một tên gọi nhất định.
Ý nghĩa tích cực của tư tưởng chính danh là làm cho con người ý thức
được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã
hội. Con người tồn tại trong vô vàn các quan hệ xã hội đan xen, ở mỗi mối quan
hệ đó con người có nghĩa vụ nhất định phải thực hiện. Điều này là cần thiết ở
mọi chế độ xã hội, ở mọi thời đại. Tư tưởng chính danh yêu cầu con người thực
hiện một cách đúng mức nghĩa vụ của bản thân trước cộng đồng và xã hội trong
khuôn khổ danh phận, góp phần vào duy trì bình ổn xã hội.
7


Tuy nhiên, tư tưởng này kìm hãm tự do của nhân cách tới mức khơng

chấp nhận bất kì sáng kiến nào của con người, làm cho con người luôn ở trạng
thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng theo chủ trương “thuật nhi bất tác” (chỉ làm
theo mà không sáng tác gì thêm). Tư tưởng chính danh đã q đề cao danh phận,
làm cho con người ln có tư tưởng hám danh, chạy theo danh, theo chức đến
mức nhiều người vì hám danh quên phận mà quên cả luân thường đạo lý.
- Do hạn chế bởi điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp nên trong triết học
của Khổng Tử luôn chứa đựng những mâu thuẫn giằng co, đan xen giữa những
yếu tố duy vật, vô thần với những yếu tố duy tâm, giữa những tư tưởng tiến bộ
với những quan điểm bảo thủ, phản ánh tâm trạng bị giằng xé của ơng trước biến
chuyển của thời cuộc. Tính khơng nhất quán ấy của ông đã là cơ sở để các thế hệ
sau khai thác, xuyên tạc theo khuynh hướng duy tâm, tơn giáo thần bí. Nhưng dù
sao ơng cũng xứng đáng với lịng suy tơn của nhân dân Trung Quốc.
Triết học của Mạnh Tử tuy còn nhiều yếu tố duy tâm, thần bí, nhất là
những quan niệm của ơng về tự nhiên về lịch sử xã hội cũng như về ln lý đạo
đức, nhưng trong quan điểm về chính trị xã hội, Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc
biệt là tư tưởng của ông về dân quyền, tức đề cao vai trị của quần chúng nhân
dân. Ơng cho rằng trong một xã hội thì quý nhất là dân rồi mới đến vua, đến của
cải xã tắc “dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi”. Với tinh thần ấy, Mạnh tử
chủ trương xây dựng một chế độ bảo dân, dưỡng dân tức là phải chăm lo, bảo vệ
nhân dân và ơng u cầu người trị vì đất nước phải quan tâm đến dân, phải tạo
cho dân có nhà cửa, ruộng vường, tài sản bởi vì họ “hàm sản mới hàm tâm”.
Ơng là người chủ trương khơi phục chế độ tĩnh điền để cấp đất cho dân. Ông
khuyên các bậc vua chúa tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân có chừng mực. Đó
là những quan điểm hết sức mới mẽ và tiên bộ của ông khiến ông mạnh dạn đưa
vào đường lối chính trị của trường phái Nho gia hàng loạt vấn đề mới mẽ toát
lên tinh thần nhân bản theo đường lối lấy dân làm gốc. Vì thế Mạnh Tử xứng
đáng được hậu thế phong ông là bậc á thánh.
Trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ thì những tư tưởng của triết học Nho
gia tuy cịn nhiều yếu tố duy tâm khi lý giải về những vấn đề xã hội, thiếu khách
quan khoa học nhưng so với các quan điểm duy tâm, tôn giáo, chiết trung, nguỵ

biện của bọn quý tộc cũ, đã là một bước tiến dài trong lịch sử triết học Trung
Quốc thời cổ đại.
Có thể nói những tư tưởng triết học của Nho gia xuất hiện vào thế kỷ VI
trước công nguyên, trải qua hơn hai ngàn năm cho đến nay, Nho gia đã để lại
cho đời những tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức chính trị – xã hội rất sâu sắc
và vơ cùng q giá.
II. Q TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO HỌC VÀO VIỆT NAM.
Nho giáo được du nhập vào Việt nam từ lâu và đã có vai trị đáng kể trong
đời sống tinh thần của nhân dân. Những trào lưu ấy được cải biến cho phù hợp
với truyền thống văn hóa của nhân dân và nhu cầu của đất nước và đã trở thành
8


nhân tố đến nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam. Nghiên cứu về
Nho giáo ở Việt Nam khơng thể tách rời nó với truyền thống văn hóa Việt Nam.
Nho gia được truyền bá vào Việt Nam bởi các nhân sĩ, những người có
quan điểm đối lập với quan điểm chính trị của nhà nước Trung Quốc chạy sang
Việt Nam. Ngay từ thời kỳ Bắc thuộc, Nho gia ở Việt Nam có sự phát triển nhất
định trong đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta, kể cả trong các tầng lớp
trên của xã hội.
Đến năm 1070 Lý Thái Tổ lập Văn Miếu thờ Chu Cơng-Khổng Tử mới có
thể xem là được tiếp nhận chính thức. Thế kỉ 15, do nhu cầu xây dựng đất nước
thống nhất, chính quyền tập trung, xã hội trật tự, Nho giáo thay Phật giáo trở
thành quốc giáo dưới triều Lê. Nho giáo, chủ yếu là Tống Nho, bám chắc vào cơ
chế chính trị - xã hội, vào chế độ học hành khoa cử, vào tầng lớp nho sĩ, dần
chiếm lĩnh đời sống tinh thần xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở
Việt Nam từng yếu tố riêng lẻ - nhất là về chính trị - đạo đức, chứ không bê
nguyên xi cả hệ thống.
Vào năm 1232 vua Trần đã đặt ra học vị đầu tiên cho thi cử Nho giáo ở
nước ta, đó là học vị Thái học sinh (về sau đổi thành tiến sĩ) và có Chu Văn An

đỗ thái học sinh nhưng khơng ra làm quan mà mở trường dạy học, đào tạo được
nhiều học trị. Năm 1236, Trần Thái Tơng lập Quốc tử viện, dùng nó vào việc
dạy Tứ thư, Ngũ kinh cho con em các nhà q tộc. Triều đình cịn đặt ra "tam
khôi" (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa), làm cho việc thi cử được đề cao, coi
trọng. Nho gia đã đào tạo được nhiều người hiền tài phò giúp các triều đại phong
kiến Việt Nam dựng nước, an dân.
Các nhà Nho thời kỳ này ra sức bài xích Phật giáo để khẳng định chỗ
đứng của mình. Tuy nhiên, đến cuối đời Trần, Nho giáo vẫn chưa được chấp
nhận rộng rãi. (Khơng cứ gì ở nơi nơng thơn, ngay ở chốn triều đình, các tập tục,
lề lối của khn mẫu Nho giáo cũng rất xa lạ với ta. Một lần có người đề nghị
cải tổ triều đình theo khn mẫu Phương Bắc đã bị vua Trần cự tuyệt và nói
rằng ta có cách của ta).
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, các nhà Nho, đứng đầu là
Nguyễn Trãi, tập hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn.
Với sự lớn mạnh của Nho giáo Việt nam, với nhu cầu cải cách đất nước đã dẫn
đến việc triều Lê chủ động đưa Nho giáo thành Quốc giáo; Nho giáo giữ địa vị
độc tơn. Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của các triều đại phong
kiến. Nhà Nguyễn lên cầm quyền, địa vị của Nho giáo một lần nữa khẳng định
để rồi tàn lụi dần khi phải đối mặt với sự tấn công của văn hóa phương Tây.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam khơng làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản
địa mà hồ quyện với các giáo phái khác làm cho các trường phái đều có những
biến thái nhất định. Nho giáo khơng hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ
Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở
việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh. Và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có
9


chuyện con cóc kiện cả ơng Trời, cũng như mơtíp người lấy tiên trong các chuyện
cổ tích. Đây chính là những nét riêng của văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA

NHO GIÁO ĐẾN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM.
Nét độc đáo của tư tưởng triết học Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai, nó
tiếp nhận từng yếu tố riêng lẻ và Việt Nam hoá để rồi cấu tạo lại theo cách của
riêng mình.
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để
khai thác những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và
quản lý đất nước.
Trước hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã
học tập rất nhiều ở cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử
để chọn người tài bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến
Việt Nam vận dụng ngay từ đầu thời Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn
chỉnh vào thời Lê. Chữ cổ đã mai một và mất hẳn thì người Việt sử dụng chữ
Hán (chữ Nho) làm văn tự chính thức trong giao dịch hành chính, trên cơ sở chữ
Hán, từ cuối thời Bắc thuộc, người Việt đã tạo ra chữ Nôm dùng trong sáng tác
văn chương. Thời Tây Sơn vua Quang Trung đã mở rộng sử dụng chữ Nơm
trong lĩnh vực hành chính và giáo dục.
Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù
hợp với truyền thống và tư tưởng của người Việt tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế
nhưng cách hiểu thì đã khác nhiều”.
1. Về chữ Trung và Hiếu
Trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẫn giữa Vua
và đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc luôn là cái quyết định, được đặt lên
trên hết. Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên
cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi,
“Trung quân” gắn liền với “Ái quốc”. Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa Vua với đất
nước, vua chúa trở thành kẻ phản động, bán nước như Lê Chiêu Thống cầu cứu
nhà Thanh, Nguyễn Ánh cầu cứu thực dân Pháp, thì đất nước, dân tộc là cái
quyết định; Lê Hồn thay nhà Đinh; Lý Công Uẩn thay nhà Lý … Khi triều đại
cũ khơng cịn đủ năng lực để lãnh đạo đất nước, nên đều được quân dân ủng hộ
như Nguyễn Trãi theo Lê Lợi và không theo con cháu nhà Trần, Ngô Thời Nhậm

theo Tây Sơn mà không theo nhà Lê; các nhà Nho yêu nước cuối thế kỷ XIV từ
Trương Định trở đi khơng theo triều đình nhà Nguyễn đầu hàng giặc, mà tiến
hành khởi nghĩa chống giặc (và chống triều đình) đều vì đặt nước trên Vua.
Trần Hưng Đạo quan niệm “trung nghĩa” tuy vẫn kiểu như Nho giáo, tức
là trung với vua nhưng trong đó đã bao hàm nội dung u nước; vì lúc đó quyền
lợi của vua gắn liền với quyền lợi của dân tộc. Đằng sau khái niệm “trung quân”
đã bao hàm cả sự trung thành với lợi ích của dân tộc.
10


Đến Nguyễn Trãi, khái niệm “trung nghĩa” đã được nâng lên với nội dung
mới, ở đây không chỉ trung với vua, mà được hiểu là trung với nước...ở ông,
nhân nghĩa trước hết là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước. Nhân
nghĩa ở Nguyễn Trãi có phạm vi rộng hơn, vượt ra ngoài chủ trương, đường lối
và ở mức độ cao hơn. Ơng nói: “đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng
làm của”; “phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải
lấy nhân nghĩa làm đầu” (thư trả lời Phương Chính). Trong tư tưởng cứu nước
của Nguyễn Trãi, cứu nước trước hết phải cứu dân đó là nét nổi bật trong tư
tưởng nhân nghĩa của ơng. Ơng viết: “việc nhân nghĩa cốt ở n dân” (Đại cáo
Bình Ngơ).
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nguời con tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam, đã kế thừa và phát huy những giá trị tinh tuý nhất của Nho giáo trong
cuộc đời cách mạng của mình, đưa dân tộc đi lên con đường phát triển mới của
thời đại. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới hoàn toàn: Không
phải “Trung với Vua” mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với nội dung được
mở rộng đến vô cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ khơng cịn hạn hẹp như khái
niệm của Nho giáo xưa kia.
Theo Nho giáo xưa kia thì “Phụ mẫu tại bất viễn du” tức là: cha mẹ cịn
con khơng được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vơ hậu vi đại”.Tức là: Có ba tội bất
hiếu, tội khơng có con nối dõi là tội nặng nhất.

Chính vì đặt đất nước lên hết, mà một người dịng dõi Nho gia như Hồ
Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân tộc, người
tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hẹp của Nho gia, để ra đi tìm đường
cứu nước. Người khơng lập gia đình để hy sinh tất cả cho đất nước, non sông.
Như vậy, chữ hiếu đã được mở rộng vượt ra ngồi khn khổ chật hẹp của Nho
giáo, hoà với chữ Trung là một,và chữ Trung cũng mang một nội dung hoàn toàn
hiện đại, như lời dạy của Bác đối với quân đội cách mạng.
Trung với Đảng, hiếu với dân
Trung và hiếu hai khái niệm hạn hẹp của Nho gia ngày xưa, nay đã được
mở rộng, gắn liền với khái niệm nhân dân, đất nước. Người chiến sĩ cách mạng
lỗi lạc, vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh của chúng ta vốn xuất thân từ dòng dõi
Nho gia nhưng đã vượt qua khỏi vòng cương toả khắc nghiệt của Nho gia, hiến
trọn đời mình vì nước vì dân, nên trở thành bất tử.
…Người khơng con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi người là Bác
Cuộc đời Người là của nước non
2. Trọng dụng người tài:
Kế thừa giá trị tốt đẹp của Nho giáo, ngay từ xưa dân tộc ta đã rất chú
trọng “Coi trọng người hiền tài”. Ở Văn miếu, ngay tấm bia đầu tiên, ghi khoa
11


thi năm 1442 đã viết một câu mà nay đã trở thanh danh ngôn của đất nước :
“Hiền tài là ngun khí quốc gia, ngun khí vững thì thế nước mạnh và thịnh,
ngun khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương
không ai khơng chăm lo xây dựng nhân tài”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay
từ những năm sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đãcó một tầm
nhìn rộng lớn, đề ra và giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Ngưới thấu
hiểu vai trị của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng

đất nước.
Ngay sau khi cách mạng Tháng 8 thành công, Người nói đến việc diệt trừ
“giặc dốt”, Người phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống nạn thất
học. Người khun bảo thầy trị ngành giáo dục “Dù khó khăn gian khổ đến đâu,
cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”…
Suốt cuộc đời mình lúc nào Người cũng hết mực chăm lo thế hệ tương lai
của đất nước.Trước lúc phải đi xa, Bác vẫn không quên dặn dò chu đáo trong di
chúc của Người: “…Bồi dưỡng cách mạng đời sau là việc làm rất quan trọng và
cần thiết. Đảng phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ để họ trở
thành…vừa hồng vừa chuyên…”.
Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một
trong những mục tiêu quan trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta hết sức
quan tâm. Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các
quỹ học bổng , quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở học sinh, sinh
viên nghèo hiếu học, và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng người hiền
tài trong xã hội ngày nay
3. Chữ Nhân, Lễ, trí, dũng
Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất
tâm đắc và nó trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta. Trong
xã hội ngày nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống:
“Mình vì mọi người ,mọi người vì mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn
minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện
“Gia đình văn hố”, “Ơng bà, cha mẹ mẫu mực con cháu thảo hiền”, “Khu dân
cư lối sống văn hóa”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong xã hội như “ Lá
lành đùm lá rách”, “ Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”… Đó chính là biểu hiện
tốt đẹp của chữ Nhân trong cả phạm vi rộng và hẹp của xã hội Việt Nam xưa kia
cũng như ngày nay.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm tồn diện trong giáo
dục và đào tạo.Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong
chữ Tài và Đức, Hồng và Chuyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời đã dạy:

“Người có tài mà khơng có đức là người vơ dụng. Người có đức mà khơng có tài
làm việc gì cũng khó”.
12


Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải được rèn luyện ngay từ
khi còn nhỏ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt gặp câu khẩu
hiệu: “Tiên học lễ hậu học văn” trong các trường học.
Đó chính là nội dung giáo dục tồn diện đối với thế hệ trẻ Việt Nam
Đối với người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở thành
con người toàn diện phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Hồ chủ Tịch dạy phải
cần kiệm liêm chính, phải chí cơng vơ tư, xứng đáng là đầy tớ trung thành của
nhân dân.
4. Tư tưởng Nhân chính, Bảo dân
Học thuyết về chính trị, xã hội với tư tưởng nhân chính, bảo dân có ý
nghĩa tiến bộ phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lực lượng xã hội.
Chịu ảnh hưởng ít nhiều của Nho giáo. Từ mấy trăm năm trước, Nguyễn Trãi
cũng từng nói : “ Lật thuyền mới biết dân như nước”; :Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có nghĩa người dân mới là quan trọng nhất
đối với một quốc gia.
Ở Đền Trần, Nam Định, nơi thờ phụng các vị vua nổi tiếng nhà Trần,
ngay tại cổng Ngũ Mơn cịn ghi khắc đơi câu đối :
“Bảo quốc hộ dân, ngoại tặc chí kim do bạch phát. Nhân hoà đức trị, nội
bang tự cổ tạ hoàng ân” (Giữ nước, giúp dân, đến nay giặc ngoại xâm đầu cịn
bạc trắng vì khiếp sợ. Lấy đức trị nước, từ xưa dân trong nước khắp nơi đều tạ
ơn vua).
Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, chăm lo tới đời sống của người dân ln là
tư tưởng chính thống, chủ đạo, là quy chuẩn quan trọng nhất, là “sách lược ngàn
năm” dựng nước và giữ nước của dân tộc, là cẩm nang điều hành đất nước cho
mọi ông vua, mọi triều đại ở Việt Nam. Điều này cũng đã được ghi nhớ và đúc

kết lại thành một nguyên tắc cai quản đất nước :
“Dân vi bang bản thiên niên sách. Công tại nhân tâm vạn cổ trường” (Lấy
dân làm gốc, đó là sách lược ngàn năm. Cơng lao ở lịng người sẽ ghi tạc muôn
thuở). (Câu đối ở Đền Trần- Nam Định)
Trong Đại Việt sử ký toàn thư chúng ta thấy quan điểm chung của nhà
nước lúc nào cũng phải nhấn mạnh “chỉnh đốn pháp luật sao cho giảm bớt nỗi
khổ của dân, xóa bớt bất cơng trong thiên hạ”. Nhân có hồ thì nước mới thái
bình, chính sách có đáp ứng được với tâm tư, nguyện vọng của người dân thì
dân mới phấn khởi, lòng dân mới yên, đất nước mới ổn định và phát triển.
Trong những thời điểm đất nước lâm nguy, cần đến những quyết sách lớn,
Nhà nước bao giờ cũng phải thăm dị, tìm hiểu ý kiến của người dân. Lịch sử
cũng còn ghi rõ về nội dung hội nghị Diên Hồng, lấy ý kiến của các vị bô lão
trong việc chống giặc Nguyên Mông. Dựa vào dân, quan tâm đến cuộc sống của
người dân là bí quyết để gây dựng mối đoàn kết toàn dân.
13


Bàn về vấn đề này Chủ Tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tất cả cán bộ từ
chính phủ đến các làng bản đều là cơng bộc của dân...việc gì có lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Người cán bộ, đảng
viên phải ln tự nhủ mình: phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ thật
trung thành của nhân dân; đó là con người vừa có đức vừa có tài, vừa hồng vừa
chuyên, trong đó đức là cái gốc của người cách mạng. Khi cịn sống Chủ Tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ đảng
viên. Theo Người: cán bộ đảng viên phải là người đầy tớ trung thành của nhân
dân, là công bộc của dân. Bác dạy người cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng, vơ tư. Bác nhắc nhở Đảng ta là phải biết chăm lo cho nhân dân. Điều mà
Bác thường mong muốn là: nhân dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành, mọi người dân được hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trọn
đời mình, Chủ Tịch Hồ Chí Minh ln suy nghĩ và hành động theo phương

châm ấy.
5. Thuyết chính danh
“Minh Mệnh chính yếu” là tác phẩm cơ bản của hệ tư tưởng triều Nguyễn
mà nho giáo đóng vai trị nòng cốt của hệ tư tưởng này. Trong tác phẩm, Minh
Mệnh chỉ rõ chính danh và đánh giá về vai trị của người làm vua, Ơng viết: “Ta
là vua của một nước, vẫn nghĩ sâu sắc rằng mình là gốc của phong hố, phải làm
gương cho thiên hạ”. Khơng chỉ trau dồi về đạo đức, ơng cịn chủ trương phải
siêng năng với cơng việc, vì ơng hiểu rằng: “Trẫm đang độ tuổi trẻ, có sáng suốt
về tinh thần, mạnh mẽ về sức lực, lên trẫm hằng chăm lo về triều chính. Phàm
việc gì cũng khơng muốn để chậm trễ, vì trễ trước phải siêng năng sau mới được
hưởng thụ”. (Tập 2, tr 10).
Thuyết chính danh xưa của Nho gia, nếu xét theo những khía cạnh tiến bộ
và tích cực của nó vẫn hết sức cần thiết trong xã hội hiện nay.
Vì vậy từ cán bộ lãnh đạo cho đến thứ dân, người nào cũng phải trọn trách
nhiệm của người ấy, cho đúng với danh vị và chức phận của mình. Nếu mọi
người trong xã hội chúng ta ngày nay đều xứng đáng, đều tuân thủ đúng với
danh vị và chức phận của mình thì xã hội tất sẽ khơng rối loạn khơng có nạn
tham nhũng, hối lộ, tham ơ và khơng có những tệ nạn tiêu cực, xấu xa hủ bại.
* Trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho
giáo đã bộc lộ những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam
hóa, làm cho Nho giáo ở Việt Nam khơng cịn trạng thái nguyên sơ của nó
nữa.
Những điểm tương đồng đã được chú trọng phát huy:
a. Nét tương đồng lớn nhất là sự trọng tình người. Vì trọng tình người
vốn là truyền thống lâu đời của nền văn hóa Việt Nam, cho nên khi tiếp nhận
Nho giáo, người Việt Nam tâm đắc với chữ “Nhân” hơn cả. Nhưng ở đây là lịng
thương người “Tấm lịng đã thấu trời xanh. Bán mình là hiếu, cứu người là
nhân” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Nhân nghĩa trong Nho giáo là tình cảm,
14



nghĩa vụ của bầy tôi đối với nhà Vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng,
nhưng ở Nguyễn Trãi và các nhà trí thức Việt Nam thì “Điều cốt yếu ở nhân
nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình và đạo qn chính
nghĩa nhằm tiêu diệt những qn tàn bạo” (Bình Ngơ Đại Cáo). Đối với người
bình dân, “Nhân” cịn đồng nghĩa với “Tình” các từ nhân tình, nhân ngãi, nhân
duyên trong tiếng Việt là nói về tình u trai gái.
b. Nét tương đồng lớn thứ hai là xu hướng ưa ổn định: Truyền thống
văn hóa nơng nghiệp ln chỉ muốn có cuộc sống ổn định. Mục đích của Nho
giáo nguyên thủy là tạo ra một xã hội ổn định. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, các triều
đại phong kiến chỉ dùng Nho giáo để giữ Ngai vàng, cịn đối ngoại ln bành
trướng, xâm lăng. Ở Việt Nam, nhu cầu duy trì ổn định khơng chỉ có ở dân mà ở
cả Triều đình, khơng chỉ ở đối nội mà ở cả đối ngoại. Các cuộc chiến tranh mà
người Việt Nam từng thực hiện đều mang tính tự vệ.
c. Nét tương đồng thứ ba là xu hướng trọng văn: Trọng văn là truyền
thống văn hóa nông nghiệp Việt Nam. Nho giáo cũng rất trọng vẻ sỹ, trọng văn,
trọng văn hóa. Xã hội Trung Hoa sau thời đại nhà hán có trọng văn, nhưng nhìn
chung cũng chỉ ngang hàng quan võ. Cịn ở Việt Nam thì trọng văn hơn cả võ.
Việt Nam chiến tranh liên miên, thế nhưng người Việt ít ai biết đến các kỳ thi võ
mà chỉ lo nấu sử sôi kinh. Nhà cầm quyền Việt Nam nhìn thấy ở Nho giáo một
cơng cụ cai trị, cịn người bình dân thì thấy ở Nho giáo một cơng cụ văn hóa,
một con đường làm nên nghề nghiệp lớn :”Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham vì
cái bút cái nghiêng anh đồ”.
Những luận điểm chính trị xã hội của Nho giáo được Việt Nam vận
dụng khai thác:
a. Ở Nho giáo, tư tưởng trung quân đóng vai trị quan trọng, cịn tư tưởng
u nước thì khơng được đề cập đến. Trong khi đó thì ở Việt Nam tinh thần yêu
nước Và tinh thần dân tộc, là truyền thống rất mạnh. Người Việt Nam tiếp thu tư
tưởng trung quân Nho giáo trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc
sẵn có, khiến có cái trung quân bị biến đổi. Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa Vua

với đất nước, thì đất nước, dân tộc là cái quyết định. Lê Hồn thay nhà Đinh; Lý
Cơng Uẩn thay nhà Lý … Khi triều đại cũ khơng cịn đủ năng lực để lãnh đạo
đất nước. Nên đều được quân dân ủng hộ. Nguyễn Trãi theo Lê Lợi và không
theo con cháu nhà Trần, Ngô Thời Nhậm theo Tây Sơn mà không theo nhà Lê;
các nhà Nho yêu nước cuối thế kỷ XIV từ Trương Định trở đi không theo triều
đình nhà Nguyễn đầu hàng giặc, mà tiến hành khởi nghĩa chống giặc (và chống
triều đình) đều vì đặt nước trên Vua.
b. Hệ thống thi cử của Nho giáo đã được nhà nước phong kiến vận dụng
ngay từ đầu triều Lý. Từ kỳ thi đầu tiên năm 1075.
c. Người Việt Nam cũng đã sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức trong
giao dịch. Trong tâm thức người Việt Nam, chữ Hán và Nho giáo không tách rời
nhau, chữ Hán được coi là cái thiêng liêng nhất “chữ Thánh hiền”. Trên cơ sở
chữ Hán người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm dùng trong sáng tác văn chương.
15


KẾT LUẬN
Nho giáo từ khi ra đời đến nay đã trên 2500 năm và đã từng ảnh hưởng
toàn diện và sâu sắc đến xã hội Việt Nam; các quan điểm chính trị xã hội về
Nhân, Lễ, Nghĩa, chính danh của ngày xưa cho đến nay vẫn là một nét đẹp đáng
trân trọng ở góc nhìn đúng đắn, đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh vượng,
ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất.
Người Việt Nam đã sáng tạo những tư tưởng có giá trị cao, mang tính
nhân loại sâu sắc, tuy là sản phẩm của một thời, của một dân tộc nhưng vẫn có
tính lâu dài và phổ biến, bởi vì nó đã sản sinh từ những cơ sở lý luận tiến bộ
chính nghĩa-nhân bản, từ cuộc chiến đấu để giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ khối thống nhất đất nước, đấu tranh để được tồn tại, để chống nô dịch,
đồng hóa, đấu tranh cho cuộc sống cơng bằng và ấm no hơn-chiến đấu cho độc
lập-tự do-hạnh phúc của dân tộc. Người Việt Nam không phải chỉ nghĩ ra, viết ra
mà chủ yếu là sống cho, sống với những tư tưởng cao cả đó. Do đó khơng có

mâu thuẫn tư tưởng đạo đức với hành vi, giữa nói và làm. Chúng ta có quyền tự
hào rằng: Dân tộc Việt Nam đã cống hiến cho nhấn loại những nguyên tắc triết
lý cao cả, sáng ngời tin thầnh nhân bản. Chừng nào nhân loại đang cần đấu tranh
cho độc lập-tự do-bình đẳng dân tộc-đấu tranh xây dựng cuộc sống đồn kết
thân ái thì nó vẫn cịn ý nghĩa.
Vì vậy mỗi người dân Việt Nam cần có ý thức sâu sắc về bổn phận, về
nghĩa vụ của mình, tự thấy mình phải có nghĩa vụ, phải có bổn phận làm vẻ vang
cho gia đình, dân tộc, làng xóm và đất nước. Đất nước, Tổ quốc là cộng đồng có
sức mạnh nhất đối với mỗi thành viên. Hy sinh cho Tổ quốc là một vinh dự,
quan niệm ấy đã trở thành ý thức của xã hội Việt Nam. Tổ quốc vừa có thính
hiện thực, vừa có tính thiêng liêng, vừa là nơi sinh sống, vừa là nơi yên nghỉ,
vừa là đất phần mộ của tổ tiên, vừa là nơi ở của con cháu mai sau… Quan niệm
về Tổ quốc của người Việt Nam phong phú và sâu sắc vô cùng: “Nước mất, nhà
tan”, người Việt Nam nào cũng hiểu như thế. Người Việt Nam đã gắn vận mệnh
gia đình với vận mệnh tổ quốc. Cho nên Nguyễn Phi Khanh đã dặn Nguyễn
Trãi: Lo trả thù nước ấy là đại hiếu.
Do đó, nâng cao bản lĩnh chính trị cho mỗi cán bộ đảng viên đặc biệt là lực
lượng vũ trang trong nhận thức cũng như trong hành động, trong mỗi việc
làm.Trong đó giáo dục lịng thương yêu con người phải được nâng lên thành tình
yêu đồng chí đồng đội với ngun tắc “mình vì mọi người, mọi người vì mỗi
người”. Xây dựng lịng trung hiếu như trung thành với Đảng, với nước, hiếu với
dân với cha mẹ và người thân trong gia đình...Ra sức phấn đấu học tập nâng cao
trình độ mọi mặt, thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ, bảo vệ vững chắc nền độc
lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc; ra sức thi đua nhằm hướng tới xây
dựng một xã hội công bằng, văn minh hơn và giàu đẹp hơn.

16




×