TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
Nhận định về giá trị và hạn chế của các quan niệm về chính trị trong triết học
Trung Hoa cổ đại (triết học của Nho gia và Pháp gia) từ góc độ hoạt động quản lý.
Giáo viên giảng dạy : TS.
Lớp chuyên ngành : Cao học Quản lý Kinh tế 22Q
Nhóm thực hiện : Nhóm 3
Hà Nội, tháng 01 năm 2014
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3
STT MÃ SỐ HỌC VIÊN HỌ VÀ TÊN
1 CH 220743 Nguyễn Quốc Anh
2 CH 220495 Lê Tân Bình
3 CH 220744 Phạm Thị Thanh Bình
4 CH 220756 Phạm Hiệp
5 CH 220758 Nguyễn Phương Hoa (Nhóm Trưởng)
6 CH 220772 Ngô Thị Thùy Ngân
7 CH 220499 Cao Thị Hồng Nhung
8 CH 220774 Trịnh Xuân Sinh
9 CH 220784 Trần Quốc Việt
10 CH 220785 Giang Thị Bích Vượng
11 Phatsalinh Phomavanh
1
I. Đặt vấn đề
Sự hình thành và phát triển của triết học có tính quy luật và gắn liền với sự phát
triển điều kiện kinh tế - xã hội, với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã
hội; với các thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; với sự thâm nhập và đấu
tranh giữa các trường phái triết học với nhau. Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của
xã hội, mỗi giai cấp, mỗi lực lượng xã hội khác nhau sẽ xây dựng nên các hệ thống triết
học khác nhau. Sự phát triển và thay thế lẫn nhau giữa các hệ thống triết học trong lịch
sử là phản ánh sự biến đổi và thay thế lẫn nhau giữa các chế độ xã hội. Chính vì vậy,
nghiên cứu các tư tưởng triết học không thể tách rời điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện
giai cấp và đấu tranh giai cấp đã sinh ra nó.
Thời cổ đại, khi mới bắt đầu có sự phân chia giữa lao động trí óc và chân tay, tri
thức của loài người còn rất ít, chưa có sự phân chia giữa triết học với các khoa học
khác thành các khoa học độc lập. Phương Đông cổ đại có nhiều trường phái triết học,
tuy nhiên Trung Hoa và Ấn Độ là hai trung tâm triết học có ảnh hưởng nhiều đến lịch
sử tư tưởng, văn hoá Việt Nam.
Triết học Trung Hoa cổ đại ra đời trong thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô
lệ sang chế độ phong kiến. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn, chiến tranh
xảy ra liên miên. Lịch sử gọi thời kỳ này là “Bách gia chư tử”, và chính trong điều kiện
như vậy đã sản sinh ra các nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học
khá hoàn chỉnh.Các trường phái này luôn lấy con người và xã hội làm trung tâm nghiên
cứu, có xu hướng chung là giải quyết các vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã
hội, mở đường cho xã hội phát triển. Dựa trên nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ trung
đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng, tôn giáo, triết học Ấn Độ chịu ảnh hưởng
rất lớn của những tư tưởng tôn giáo, giữa triết học và tôn giáo rất khó tách biệt.
Đứng từ góc độ hoạt động quản lý, những tư tưởng của triết học Trung Hoa cổ,
trung đại có tầm ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa và phong cách quản lý ở Việt Nam.
Tiêu biểu nhất là thuyết “Đức trị” của Nho gia và thuyết “Pháp trị” của Pháp gia. Bên
cạnh những giá trị to lớn mà những tư tưởng này mang lại và phát huy đến ngày nay thì
luôn có những hạn chế do tính chất lịch sử và hệ tư tưởng quy định. Do đó, chúng ta
cần nhận định rõ những giá trị tích cực cần kế thừa đồng thời cần thấy được những hạn
chế của những tư tưởng trên và tìm cách khắc phục, nhằm vận dụng một cách triệt để
nhất vào hoạt động quản lý với mục tiêu đạt hiệu quả cao nhất.
2
.
II. Giải quyết vấn đề
2.1 Nho gia
2.1.1 Tư tưởng chính trị của Triết học Nho gia
Nho gia là một trong những trường phái triết học chính của Trung Hoa cổ đại.
Phái Nho gia được Khổng Tử sáng lập, Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên
nghiệm và Tuân Tử phát triển về phía duy vật.
Quan điểm chính trị - xã hội của Khổng Tử:
Khổng Tử là người sáng lập ra đạo Nho, ông được phong là “Chí thánh tiên sư,
Vạn thế sư biểu”, nghĩa là thầy, thánh của muôn đời, muôn nhà.
Khổng Tử coi xã hội là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, trong
đó có các quan hệ như: Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ, Anh-em, Bạn bè. Năm mối quan
hệ này về sau được phái Nho gia gọi là Ngũ luân, trong đó 3 mối quan hệ Vua-tôi,
Cha-con, Chồng-vợ là những mối quan hệ cơ bản nhất và được gọi là Tam cương.
Những phạm trù cơ bản trong thuyết Chính trị - Đạo đức của Khổng Tử là
Nhân, Lễ, Nghĩa và Chính danh:
- Nhân: là lòng thương người. Người có nhân là người có đạo đức hoàn toàn.
Trung và Thứ là hai khía cạnh của Nhân: Trung là tính ngay thẳng với người, điều
mình muốn thì hãy làm cho người; Thứ là lòng vị tha, điều mình không muốn thì đừng
làm cho người. Trong đạo nhân, hiếu là gốc - hiếu không chỉ thể hiện ở việc phụng
dưỡng cha mẹ mà quan trọng nhất là lòng thành kính. Khổng Tử nói: “Nuôi cha mẹ mà
chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật”.
-Lễ: là hình thức thể hiện lòng nhân. Lễ bao gồm mối quan hệ rộng lớn, từ quan
hệ thần linh đến quan hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo đức, phong tục, tập
quán, quan hệ nhà nước, luật pháp … Tuân theo lễ là một điều kiện để thực hiện nhân
đức. Người quân tử không bao giờ làm trái với lễ.
- Nghĩa: là hành vi đạo đức thể hiện đức nhân. Người làm việc nghĩa thì hy sinh
lợi ích của mình vì người khác. Nghĩa và lợi không thể dung hợp với nhau. Khổng Tử
nói: “Quân tử biết rõ về nghĩa, tiểu nhân biết rõ về lợi”.
- Chính danh: có nghĩa là phải bố trí người ở cương vị phù hợp với năng lực,
người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó, phải làm đúng danh phận,
3
chức trách của mình “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Nói và làm không được
vượt chính danh:
+ Khổng Tử đề cao người hiền tài với tư tưởng Thượng hiền và khuyên các nhà
cai trị nên sử dụng người hiền tài quản lý đất nước và loại bỏ dần những kẻ bất tài
trong bộ máy cai trị.
+ Phải thực hiện ba điều: thực túc, binh cường, dân tín.
+ Ông khuyên giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng chăm lo nhân dân.
Đồng thời ông khuyên dân phải an phận, lấy nghèo làm vui, nghèo không oán trách
+ Tuy nhiên những kế sách chính trị của ông chỉ dừng lại ở tính chất cải lương
và duy tâm chứ không phải phải bằng cách mạng hiện thực (hạn chế).
Quan điểm chính trị - xã hội của Mạnh Tử:
Tư tưởng về chính trị - xã hội của Mạnh Tử thể hiện ở triết lý nhân sinh (triết lý
về cuộc đời) mà trung tâm là học thuyết về tính thiện. Ông nói: “Nhân chi sơ tính bản
thiện”. Tính thiện của con người có ở 4 đức tính lớn vốn có bẩm sinh, đó là Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí và chúng bắt nguồn từ tứ đoan:
- Ai sinh ra cũng có lòng thương xót nên phải lấy Nhân mà cảm hoá
- Ai sinh ra cũng có lòng ghen ghét nên phải lấy Nghĩa mà điều chỉnh
- Ai sinh ra cũng cung kính nên phải lấy Lễ mà giáo hoá
- Ai sinh ra cũng biết phải trái nên phải lấy Trí mà phân biệt đúng sai.
Tính thiện của con người vốn bắt nguồn từ cái tâm do trời phú để cho con người
ta biết suy nghĩ, phân biệt phải trái đúng sai để ứng xử với con người và vạn vật.
Dựa trên thuyết tính thiện và tư tưởng đức trị của Khổng Tử, Mạnh Tử đưa ra
thuyết “Nhân chính”, tức là cái trị là chính, phải vì nhân chứ không phải vì lợi. Chủ
trương của thuyết này là lấy đức để thu phục lòng người, phản đối việc cai trị bằng bạo
lực.
Trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chủ trương nhân chính, Mạnh Tử đã đề ra
một quan điểm rất độc đáo đó là dân bản. Ông coi dân là quan trọng nhất, kế đến là
giang sơn xã tắc, vua là thường thôi “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Và
ông giải thích là có dân mới lập nên nước, có nước mới lập nên vua, chứ vua không thể
sinh ra dân. Quan hệ vua tôi là quan hệ hai chiều, tôn trọng lẫn nhau.
4
Tóm lại, triết học của Mạnh Tử tuy còn mang yếu tố duy tâm và thần bí nhưng
trong học thuyết về chính trị - xã hội với tư tưởng “nhân chính”, “dân bản” có ý nghĩa
tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử xã hội.
Quan điểm chính trị - xã hội của Tuân Tử:
Tuân Tử là người phát triển học thuyết của Khổng Tử, đề cao nhân, nghĩa, lễ
nhạc và chính danh. Tuy nhiên, ông phản đối quan niệm của Khổng Tử và Mạnh Tử về
những vấn đề chính trị và đạo đức. Tuân Tử đứng trên quan điểm duy vật và vô thần,
ông cho rằng tự nhiên gồm ba bộ phận: trời, đất và người. Trời chỉ là một bộ phận của
tự nhiên, bản thân tự nhiên là cơ sở hình thành và biến hoá của vạn vật. Như vậy, trời
không quyết định vận mệnh của con người, con người là sản phẩm cao nhất của giới tự
nhiên. Việc trị hay loạn, lành hay dữ là do con người làm ra chứ không phải tại trời.
Nếu con người hành động thuận với lẽ tự nhiên thì lành, trái lại sẽ gặp loạn “Lấy sự trị
mà đối phó với đạo thì lành, lấy sự loạn mà đối phó với đạo ấy thì dữ”.
Không chỉ hành động phù hợp với tự nhiên mà con người có thể cải tạo tự nhiên
và xã hội để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông phê phán mê tín dị đoan, việc tôn thờ
trời, ỷ lại trời, khuyên con người nên tin ở sức mình, ra sức phát triển sản xuất, thực
hành tiết kiệm, ăn ở điều độ, giữ gìn sức khoẻ thì trời sẽ không để cho nghèo khó và
bệnh tật.
Về đạo đức ông đưa ra thuyết tính ác cho nên ông chủ trương sửa trị việc nước,
giáo dục đạo đức, lễ nghĩa làm cho xã hội tiến bộ, văn minh hơn. Ông đề cao “lễ trị”,
ông cho rằng lễ nghĩa và đẳng cấp trong xã hội là cần thiết để duy trì trật tự xã hội.
Có thể thấy, Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò
to lớn của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận
bàn về đạo đức.
Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người được gọi
là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh em, bạn
bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là Tam cương - ba sợi
dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Đức chính là các
phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ
cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí, dũng); ở Mạnh Tử là “Tứ
đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín).
Tam cương và ngũ thường được kết hợp và gọi tắt là đạo cương - thường.
5
Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là
nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá
phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần điều chỉnh hành vi
của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ pháp của nhà Chu trước
đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương - thường là nhân tố quan trọng
làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm bảo quyền thống trị của thiên tử.
Mặt khác, đạo cương - thường với nội dung “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”,
“phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” (vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không
có lòng trung, cha xử con chết, con không chết là không có hiếu) là sợi dây trói buộc
con người, làm cho con người thụ động trong cả suy nghĩ và hành động. Tư tưởng này
là lực cản sự phát triển của xã hội và là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội
phương Đông trì trệ.
Phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo cương - thường là Nhân (đức
nhân). Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù trung tâm này. Từ
đức nhân mà phát ra các đức khác và các đức khác lại quy tụ về đức này. Cả cuộc đời
mình, Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết để làm cho đức nhân trở thành hiện thực.
Ông mong muốn các học trò rèn luyện để đạt được đức nhân và ứng dụng nó trong
thực tiễn. Đức nhân được Khổng tử bàn đến với nội dung cơ bản sau:
- “Nhân” có nghĩa là yêu người : “Phàn Trì hỏi về người nhân, Khổng Tử nói:
đó là người biết yêu người” (Phàn Trì vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”).
- “Nhân” có nghĩa là trung và thứ. Bàn về chữ “trung”, ông giải thích:“Người
nhân là người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt
thì cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi
đạt nhân). Về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ thi hành cho người
khác” (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân). Như vậy, trung thứ tức là từ lòng mình suy ra
lòng người, phải giúp người. Khổng Tử khuyên rằng nên làm cho người những cái mà
mình muốn và đừng làm cho người những cái mình không muốn.
- Đối với bản thân mình, người có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ: “Dẹp bỏ
tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi nhân). Lễ là hình thức
thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực của Ngũ thường.
Phạm trù Đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc và cốt
lõi của nhân là hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng
và vợ, giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) là những tình cảm tự nhiên, vốn có
6
thuộc về bản tính con người. Từ cách hiểu này, ông cho rằng, trong gia đình nếu người
cha đứng đầu thì mở rộng ra trong nước có ông vua đứng đầu. Khổng Tử hình dung
quốc gia là một gia đình lớn, ông vua là người cha của gia đình ấy. Nho giáo đặt vua
đứng đầu trong tam cương và ngũ luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha
mẹ, tận trung với vua. Một người biết yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì mới biết
yêu thương người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên là gia
đình, từ đó suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Coi trọng vai trò gia đình trong việc
hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và
vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với ngày nay, bỡi lẽ, gia đình là một tế bào của xã
hội, xã hội không thể ổn định, thịnh trị nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Vì vậy,
người cầm quyền nếu không “tề gia” (cai quản gia đình) của mình thì cũng không thể
“trị quốc” (cai trị đất nước) được.
“Nhân” còn gắn liền với “Nghĩa” (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để
giúp người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi thường lợi.
Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lòng dũng cảm (Dũng) và có trí tuệ (Trí). Có trí
mới biết cách giúp người mà không làm hại đến người, đến mình, mới biết yêu và ghét
người, mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ người không ngay thẳng. Tuy nhiên,
Trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông không phải là những tri thức phản ánh thực
tại khách quan của tự nhiên và xã hội để từ đó chỉ đạo hành động của con người mà là
những tri thức mang tính giáo điều, chỉ gói gọn trong sự hiểu biết sách vở của Nho giáo
(Tứ thư và Ngũ kinh).
Như vậy, đối với Khổng Tử, nhân chính là đạo lý làm người, vừa thương người
(ái nhân), vừa phải giúp người (cứu nhân). Ông cho rằng, khi thi hành điều nhân phải
phân biệt thân sơ, trên dưới. Nếu ở Khổng Tử đức nhân mang tính phức tạp rất khó
thực hiện, nó vừa là lý tưởng nhưng lại mang yếu tố không tưởng thì đến thời Hán, đức
nhân lại được khoác thêm cái vỏ tôn giáo thần bí, do vậy càng không tưởng hơn.
Về phạm trù Lễ, theo Nho giáo, lễ là quy định về mặt đạo đức trong quan hệ
ứng xử giữa người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với
vua, chồng vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè phải giữ
được lòng tin. Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân theo. Lễ là sợi
dây buộc chặt con người với chế độ phong kiến tập quyền. Khổng Tử yêu cầu, từ vua
cho đến dân phải rèn luyện và thực hiện theo lễ. Đến Đổng Trọng Thư, lễ đã được đẩy
lên đến cực điểm của sự khắt khe. Chỉ vì giữ lễ mà dẫn đến những hành vi ngu trung,
ngu hiếu một cách mù quáng ở không ít người trong xã hội trước đây.
7
Tư tưởng Lễ của Nho giáo có tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng Lễ đã
đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá phẩm hạnh con người. Sự giáo dục
con người theo lễ đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn, biết quý trọng người có lễ
và khinh ghét người vô lễ. Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở những lời giáo huấn mà đã
đi vào lương tâm của con người. Từ lương tâm đã dẫn đến hành động đến mức trong
các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà chết chứ không bỏ lễ: chết đói là việc
nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu Hy). Nhờ tin và làm theo lễ mà các xã hội
theo Nho giáo đã giữ được yên ổn trong gia đình và trật tự ngoài xã hội trong khuôn
khổ của chế độ phong kiến. Lễ trở thành điều kiện bậc nhất trong việc quản lý đất nước
và gia đình. Yếu tố hợp lý này chúng ta có thể học tập.
Về mặt hạn chế, Lễ là sợi dây ràng buộc con người làm cho suy nghĩ và hành
động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ; lễ đã kìm hãn sự phát
triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Điều này nói lên rằng, tư tưởng Nho giáo mang
tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Khổng Tử đã từng nói: “ Ta theo lễ của nhà Chu vì
lễ đó rực rỡ lắm thay” và ông luôn mong xã hội lúc đó quay về thời đại Nghiêu, Thuấn.
Khách quan mà đánh giá, thì hạn chế trên của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tế lịch
sử. Bởi vì, Khổng Tử sống trong thời đại xã hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau,
chém giết nhau không từ một thủ đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vương, để có bổng
lộc chức tước. Ông hoài cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, chính mặt hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn dư cho đến tận ngày nay,
nó trở thành phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của không ít
người ở các nước phương Đông, nơi tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Tín là đức tính thứ năm trong Ngũ thường. Tín có nghĩa là lời nói và việc làm
phải thống nhất với nhau, là lòng tin của con người với nhau. Tín góp phần củng cố
lòng tin giữa người với người. Trong ngũ luân thì tín là điều kiện đầu tiên trong quan
hệ bè bạn. Tuy nhiên, nội hàm của đức tín không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ duy
nhất này mà nó còn bao gồm cả lòng tin vô hạn vào đạo lý của bậc thánh hiền và các
mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Theo quan niệm của Nho giáo thì đức tín là
nền tảng của trật tự xã hội.
Để thực hiện Nhân và Lễ, Khổng tử đã nêu ra tư tưởng Chính danh (danh nghĩa
là tên gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là đúng, là chấn chỉnh lại cho đúng tên gọi
và danh phận). Do đó, chính danh là làm cho mọi người ai ở địa vị nào, danh phận nào
thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, cũng không giành vị trí của người khác,
không lấn vượt và làm rối loạn. Ông cho rằng nguyên nhân hỗn loạn ở thời Xuân Thu
8
là do thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm (không làm đúng danh) để quyền
lợi vào tay chư hầu; chư hầu không làm đúng danh nên sĩ đã lấn át. Vì vậy, để xã hội
ổn định thì mọi người cần làm đúng danh phận. Theo ông, “Danh không chính thì lời
nói chẳng thuận, lời nói không thuận thì việc chẳng nên, việc không nên thì lễ nhạc
chẳng hưng vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì hình phạt chẳng trúng, hình phạt
không trúng ắt dân không biết xử trí ra sao” (danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn
bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc
hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc). Riêng đối với người
cầm quyền vua- thiên tử được thay trời cai trị thì càng phải làm đúng danh của mình,
như vậy mọi người mới noi theo. Đặc biệt, trong việc chính sự (việc nước), điều đầu
tiên nhà vua phải làm là lập lại chính danh, phải xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và
trách nhiệm của từng người để họ hành động cho đúng. Khổng tử cho rằng không ở
chức vị ấy thì không được bàn việc của chức vị đó, không được hưởng quyền lợi, bổng
lộc của chức vị ấy.
Mục đích của Chính danh mà Nho giáo đề cao là sự ổn định xã hội, suy cho
cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì sự phân biệt đẳng cấp. Chính danh không
những chỉ là nội dung tư tưởng chính trị của Nho giáo, mà còn mang ý nghĩa đạo đức,
là một yêu cầu về mặt đạo đức của con người. Chúng ta biết rằng, một trong những
phạm trù đạo đức đó là lương tâm, trách nhiệm. Nếu xét theo nghĩa này thì một người
làm tròn nghĩa vụ và bổn phận của mình tức là người đó có đạo đức.
Ý nghĩa tích cực của tư tưởng chính danh là làm cho con người ý thức được
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Con
người tồn tại trong vô vàn các quan hệ xã hội đan xen, ở mỗi mối quan hệ đó con
người có nghĩa vụ nhất định phải thực hiện. Điều này là cần thiết ở mọi chế độ xã hội,
ở mọi thời đại. Tư tưởng chính danh yêu cầu con người thực hiện một cách đúng mức
nghĩa vụ của bản thân trước cộng đồng và xã hội trong khuôn khổ danh phận, góp
phần vào duy trì bình ổn xã hội. Tuy nhiên, tư tưởng này lại kìm hãm tự do của nhân
cách tới mức không chấp nhận bất kì sáng kiến nào của con người, làm cho con người
luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng theo chủ trương “thuật nhi bất tác” (chỉ
làm theo mà không sáng tác gì thêm). Tư tưởng chính danh đã quá đề cao danh phận,
làm cho con người luôn có tư tưởng hám danh, chạy theo danh, theo chức đến mức
nhiều người vì hám danh quên phận mà quên cả luân thường đạo lý.
2.1.2 Giá trị và hạn chế trong tư tưởng triết học Nho gia
9
• Giá trị tích cực của tư tưởng triết học Nho gia
Mặc dù có những quan niệm khác nhau, nhấn mạnh đức này hay đức khác của
con người nhưng nói chung, các nhà Nho đều cho rằng con người cần phải có những
phẩm chất đạo đức cơ bản: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến.
Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư
tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trò chính yếu,
nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư
tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được
các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh
hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Nho giáo đã đưa ra những tiêu chuẩn đạo đức nhằm
cải tạo con người, hoàn thiện nhân cách của con người.Những tiêu chuẩn đạo đức mà
Nho giáo đưa ra để khuyên răn, dạy bảo mọi người có rất nhiều tác dụng đối với sự
hình thành nhân cách của mỗi người trong xã hội, chính vì những tư tưởng đó mà Nho
giáo còn có ảnh hưởng lớn đến xã hội ngày nay.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái,
khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con
người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo
phương diện pháp luật thì Lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật
tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong
nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia
pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới
nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc
biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền). G.S. Vũ
Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người
trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho nên
đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người
cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử
khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề
cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp
người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng
10
ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của
Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu
để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi
ích của vua quan. Cho đến ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người
cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu,
kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói
rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân
nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải
luôn “tu, tề, trị, bình”.
Nho giáo đưa ra những quan điểm về quản lý xã hội. Thực hiện thuyết chính
danh: Chủ trương làm cho xã hội có trật tự, ổn định. Mỗi người làm đúng danh của
mình thì xã hội sẽ có trật tự, kỉ cương, gia đình yên ấm. Nho giáo đề cao nguyên lí
công bằng xã hội.
• Hạn chế trong tư tưởng triết học Nho giáo
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ thể là:
- Về chính trị:
+ Phong kiến dựa vào Nho giáo để cai trị với những thủ tục hà khắc trong quan
hệ tam cương – ngũ thường. Theo Nho giáo mọi người trong xã hội đều bị trói buộc
bởi 5 mối quan hệ tự nhiên: Vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em, bạn bè. Trong
xã hội phong kiến, mỗi gia đình được củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ tông
trưởng, còn các quan hệ xã hội được duy trì bằng chế độ chính trị đẳng cấp. Tương ứng
với mối quan hệ đó Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính quy phạm đạo đức và
được pháp luật ngầm bảo trợ. Chính vì thế, mà những mối quan hệ dựa trên Nho giáo
trở nên quá cứng nhắc, khô khan, khuôn mẫu. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị
trói buộc bởi tam tong tứ đức, họ không có quyền tự do quyết định cuộc sống của
mình. Thái độ chuộng đức và đề cao tu dưỡng của Nho giáo một mặt làm cho con
người ngoan ngoãn chấp nhận quân quyền, phụ quyền, nam quyền có tính áp bức.
+ Nho giáo thể hiện tính nguyên tắc: Theo Nho giáo mỗi người phải có vị trí,
nhiệm vụ của mình trong xã hội. Những lễ chế của Nho giáo đè nặng lên con người và
bóp nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sang, những tình cảm tự nhiên
và chân thực của con người bị xã hội phong kiến làm nó trở nên phản động, cổ hủ lạc
hậu.
11
+ Nho giáo ở vị trí độc tôn thời phong kiến làm cho bệnh khuôn sáo phát triển
mạnh trong tư tưởng giáo dục. Các học sĩ, quan lại đều lấy thánh kinh, huyền truyện
của Nho giáo làm “khuôn vàng thước ngọc” cho mọi suy nghĩ, hành động của mình;
lấy xã hội của thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã hội, lấy những
tích cực điều phạm trong kinh thư, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự
việc. Bệnh giáo điều này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học nghệ thuật, nhất là
trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những
cái khuôn có sẵn.
Khi đã chiếm được vị trí thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt Nam
không tiếp tục đi sâu vào khám phá bản chất của đời sống con người và vũ trụ, mà nó
chỉ chú trọng đến những quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Nên khi xã hội phong
kiến rối loạn, vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo
trở thành bất lực.
- Về kinh tế:
Các nhà Nho chỉ chăm lo vào học hành thi cử mà không chăm lo phát triển kinh
tế, xa rời thực tế dẫn đến nền sản xuất kém phát triển. Chính sách kinh tế của Nhà nước
là trọng nông, ức thương, nhiều chính sách xã hội và văn hóa cũng nhằm ngăn can cải
cách làm ăn. Nho giáo coi thường những người chạy theo lợi nhuận, làm giàu là vì “vi
phú bất nhân, vi nhân bất phú”, coi thương nhân là hạng bét, coi việc hưởng dụng của
cải do thương nghiệp tạo ra là một việc bẩn thỉu. Chính vì thế, các giai cấp phong kiến
thường sử dụng các biện pháp bế quan tỏa cảng, không buôn bán giao lưu với nước
ngoài, làm kinh tế kém phát triển.
- Về văn hóa – xã hội:
Nho giáo mang tính hai mặt đan xen giữa các yếu tố vô thần duy tâm tôn giáo.
Học thuyết của Nho giáo còn mang tính cải lương duy tâm.Nho giáo hạn chế vai trò
của người phụ nữ, trọng nam khinh nữ, phân biệt đẳng cấp.
Có thể thấy, một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các
công việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi
phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo
đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông,
nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có
chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan mình
đang quản lý. Sắp xếp và bố trí nhân sự không theo năng lực, trình độ và đòi hỏi của
12
công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ. Trong
công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa
phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với những sai
lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả
nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của
chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số
người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc chung. Một trong những
phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc
đoán, chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo
thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp
trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của
không ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong kiến phụ
quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là gia trưởng, đứng
đầu dòng họ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ
thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia đình lớn –
quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trưởng”.
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục tùng bề
trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ xã hội, ở tổ chức
nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha, người chồng :”cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan
là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng,
bè phái thì ở đó quần chúng nhân dân sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ
động được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đang rất cần những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu
trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên nhiều
người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú cháu”, “anh
em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với khuyết điểm của họ
vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề của xã hội thông qua
lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu khách quan, không công
bằng. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào
khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người
thừa hành mà không được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại cho việc đấu tranh
13
vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy theo chức
quyền. Trong xã hội phong kiến, địa vị luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa vị
càng cao thì quyền và lợi càng lớn. Hơn nữa, khi có chức, không những bản thân được
vinh hoa phú quý mà “một người làm quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách
để có danh, để thăng quan, tiến chức đã trở thành lẽ sống của một số người. Thậm chí
việc học tập theo họ cũng là “học để làm quan”.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng nhắc đã tạo
nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. Những tàn
dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc xây đựng đạo đức mới và
xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho giáo
đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt vừa có tính
tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Để xây dựng đạo đức mới cho con người Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế
thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tư
tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và
lâu dài.
2.2 Pháp gia
2.2.1 Tư tưởng chính trị của Triết học Pháp gia
Pháp gia là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương
dùng những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói đại
diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế độ công
xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương thời. Tư tưởng
Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu
dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Thuyết Pháp trị: chủ trương lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị . Những
người trong học thuyết này cho rằng bản tính con người rất yếu hèn, dễ sai lầm, nên
phải dựa vào pháp luật là những quy tắc khái quất được nhà cầm quyền đưa ra và áp
dụng cho mọi người một cách đồng đều, không thiên vị, không phân biệt quý tộc hay
thường dân. Tư tưởng pháp trị ban đầu còn rời rạc, được hệ thống hóa dần dần, sau
được tập hợp lại thành lý thuyết hoàn chỉnh. Pháp trị chủ trương nhà cầm quyền không
phải chú trọng nhiều đến việc tu thân mà cốt là đặt ra pháp luật cho rõ ràng và ban bố
14
cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh. Thực tế, muốn thi hành được các
chủ trương của Pháp gia nêu ra, xã hội cần có đức Vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc
pháp trị và chịu khép mình theo nguyên tắc đó.
Học thuyết “Pháp trị” của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời
kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Người mở đường cho phái Pháp gia là Quản Trọng. Ông là tướng quốc cho vua
Tề Hoàn Công, nước Tề. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản
Tử, bao gồm 86 thiên (còn lại), với những điểm chủ yếu: 1- Lời bàn luận không cao xa
mà dễ thi hành; 2- Mục đích trị quốc là làm cho quốc phú, binh cường. Ông chú trọng
đến sự phú quốc vì "Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục". 3-
Để cho quốc phú, binh cường ông có chủ trương “ngụ binh ư nông” tức việc binh vào
nghề nông. 4- Chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật là
để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để
trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ
phải. 5-Trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm trong
phép trị nước…
Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất Hại, là người gốc ở đất Kinh, nước Trịnh.
Chuyên học về hình danh, ông được vua nước Hàn dùng làm tướng quốc. Ông đưa ra
chủ trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước. Ông
cho rằng "thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề
tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình bởi điều
đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua.
Khác hẳn các đại biểu của Pháp gia, Thận Đáo thuần túy là một tư tưởng gia. Ông
người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử,
nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho
rằng Pháp luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan,
riêng tư của người cầm quyền. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò
của "Thế". Ông cho rằng: "Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ,
địa vị thấp: kẻ bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao. Nghiêu hồi còn
làm dân thường thì không trị được ba người mà Kiệt khi làm thiên tử có thể làm loạn
cả thiên hạ, do đó biết rằng quyền thế và địa vị đủ để nhờ cậy được mà bậc hiền, trí
không đủ cho ta hâm mộ. Cây ná yếu mà bắn được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa
15
đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do đó
mà xét thì hiền và trí không đủ cho đám đông phục tùng, mà quyền thế và địa vị đủ
khuất phục được người hiền".
Một đại biểu khác của Pháp gia, là Thương Ưởng. Ông người nước Vệ, sau sang
Tần và giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh tế làm cho nước Tần trở
nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao "Pháp" theo nguyên tắc "Dĩ
hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Chủ trương của ông là pháp luật
phải nghiêm, ban bố khắp trong nước cho ai cũng biết, và từ trên xuống dưới ai cũng
phải thi hành, không phân biệt giai cấp; Pháp đã định rồi thì không ai được bàn ra bàn
vào, không được “dùng lời khéo mà làm hại pháp”. Thương Ưởng chủ trương: Tổ chức
liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa,
thưởng người có công, phạt người phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ
hạ xuống làm người thường dân. Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi
hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường thống nhất nhờ đó chỉ sau một thời
gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên và sau này lần lượt thôn tính các nước khác,
thống nhất Trung Quốc.
Người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng trị nước của pháp gia đã kể trên là
Hàn Phi (280 - 233 tr. CN). Ông người nước Hàn, chủ trương đề cao vai trò của pháp
trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo
"đạo đức" của Nho, "Kiêm ái" của Mặc, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước, mà cần
phải dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng lịch sử
xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có
những đặc điểm dấu ấn riêng. Vì thế, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn,
cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại
hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp gia thành một
đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu
tố Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời
trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách
cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn
"Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều
là công cụ của bậc đế vương.
16
Trước hết nói về "Thế", là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia
cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành
thì nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương: 1-
Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua; 2- Vua
phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách mạng, không
được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất trung. Điều này gần
với tư tưởng Trung quân của Nho gia, Hàn Phi chê việc vua Nghiêu nhường ngôi cho
vua Thuấn là trái đạo quân thần, ý này trái hẳn chủ trương của Khổng; 3- Đưa sự
thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện hiệu nghiệm nhất để
cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng phạt chứ không cần dùng
giáo hóa, lễ nhạc.
Hàn Phi cho cách thưởng phạt là mầm trị hay loạn của quốc gia, trong đó dựa
theo nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất; Thưởng thì phải trọng hậu, phạt
thì phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí công vô tư; Vua phải nắm
hết quyền thưởng phạt.
"Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc
hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy
Kiệt làm thiên tử chế ngự được thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu
thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp". "Thế" không chỉ là
địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước
(xu thế lịch sử). Hàn Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được mũi tên lên cao là nhờ có
"gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ kém tài lại
cai trị được thiên hạ”.
Sau “Thế”, trong tư tưởng của Pháp gia phải kể đến yếu tố thứ hai là "Pháp".
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ
chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật
lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư tưởng Pháp trị của
pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố ở các công sở,
thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp
luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Tính cách của pháp luật theo
Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia, là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua
nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải
dựa trên những nguyên tắc chính như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải
soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính
17
cách phổ biến. Với Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định
danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một
mối, đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
Chủ trương của Pháp gia là bậc vua chúa phải làm cho dân theo đúng pháp luật, như
vậy là trị nước. Công việc trị nước của vua phải thông qua bộ máy cai trị, là quan lại.
Hàn Phi cho rằng cái lợi của vua và bề tôi khác nhau, mà bản tính con người nói chung
là tư lợi nên bọn thần đều mang ít nhiều lòng phản nghịch. Như vậy vua trực tiếp trị
quan lại chứ không trị dân. Để trị được tầng lớp quan lại, đa phần là những kẻ hơn
người hoặc tài năng hoặc sức mạnh hoặc thế lực… bắt buộc bậc minh chủ phải có
thuật. Tư tưởng của Pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối pháp trị. "Thuật"
trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người,
dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện và
nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi, “Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ
thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để
chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra.
Về Tâm thuật thì rất nhiều và thiên biến vạn hóa, thường không theo quy tắc nào
ngoài quy tắc gạt bỏ người sao cho có kết quả. Chẳng hạn như: Làm bộ như ra lệnh và
ra lệnh giả; Giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều khác; Nói ngược
lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại những kẻ bề tôi mình
không cảm hóa được…
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ
gian và dùng người. Ông kể ra những hạng gian thần và có thể làm loạn là: kẻ thân
thích của vua và quần thần. Đó là hai hạng đều đánh vào tình cảm thị dục, nhược điểm
của vua để lung lạc, che giấu vua. Để ngăn cấm bọn đó, Pháp gia chủ trương, vua phải:
Không để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình; Không cho họ biết mưu tính của mình;
Nếu không phải việc riêng thì không để họ tự ý hành động, việc gì cũng phải hỏi mình
trước; Bắt họ phải theo đúng luật mà chính vua cũng phải theo đúng pháp luật trong
việc thưởng phạt họ; Xem hành động của họ có hợp với lời nói của họ không… Tìm kẻ
gian thì khi một việc xảy ra, hại cho nước hoặc cho người khác thì xét xem ai là kẻ có
lợi. Muốn kiềm chế hạng người có địa vị cao, trách nhiệm lớn thì: 1- Nếu là người hiền
thì có thể bắt người thân yêu của họ làm con tin; 2- Nếu là kẻ tham lam thì cho họ tước
lộc thật hậu để an định họ; 3- Nếu là kẻ gian thì phải làm cho họ khốn khổ bằng cách
trừng phạt. Nếu dùng những cách đó mà vẫn không cảm hóa được họ thì phải trừ họ,
bằng cách mượn tay kẻ thù của họ hoặc đầu độc để mình không bị thương tổn danh
18
tiếng. Nhưng cách tốt nhất là không dùng những không nên dùng để khỏi phải đề
phòng họ. Hàn Phi cho biết một số hạng người không nên dùng: Hạng người coi khinh
tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ mà đi nơi khác; Hạng đặt lời giả dối trái pháp luật; Hạng
người lánh đời, ở ẩn, chê bai vua; Hạng vì tư lời mà làm thân các chư hầu; Hạng vì
người thân quen mà làm việc riêng tư… Tuy nhiên Hàn Phi cũng cho rằng có kẻ rất tài
giỏi lại là gian thần, nếu vua có thuật để khống chế họ thì vẫn có thể dùng.
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Quy tắc cơ bản của thuật dùng
người theo Pháp gia là thuyết Hình danh. Thuyết này là Pháp gia kế thừa từ Khổng
Tử, và Phái Danh gia. Nhưng Hàn Phi có óc thực tế, không bàn về tri thức luận mà
đem học thuyết của Nho gia vào chính trị, ông chỉ thu hẹp vào việc dùng người, gạt bỏ
những vấn đề về đạo đức, luân lí. Ông không nói đến "Chính danh", mà chỉ nói đến
"Hình danh", hay là "Thực danh". Danh và hình hay thực phải hợp nhau. Ví như một
người hứa đến thăm ta, lời hứa đó là "Danh" và hành động tới thăm là "Hình" hay
"Thực" vậy. Nếu người đó đến thăm thực thì chứng tỏ danh và hình hợp nhau, nếu
không thì chỉ có danh mà không có hình hay không có thực. Nếu pháp luật là danh thì
sự việc là hình, sự việc hợp pháp luật thì danh và thực hợp nhau. Nếu quan vị là danh
thì chức vụ là hình, chức vụ không hợp với quan vị thì danh và hình không hợp nhau.
Hàn Phi cho quy tắc hình và danh hợp nhau là quan trọng nhất trong việc trị quan lại,
nếu không theo thì sao có thể phân biệt được kẻ hay người dở, người giỏi kẻ gian, khó
thưởng phạt đúng được, như vậy nước khó mà trị được.
Muốn dùng quy tắc hình danh hợp nhau để thu phục bề tôi thì vua phải tự mình
kiểm xét xem có chính đáng không, vì nếu chỉ nghe lời giới thiệu thì có thể người giới
thiệu hoặc vì tư lợi hoặc vì tình riêng hoặc vì bè phái mà đề cử kẻ bất tài hay gian thần.
Để không bị lừa gạt thì phải thận trọng, tham bác ý kiến nhiều người, rồi đích thân xét
tài đức, sau đến mới giao việc. Hàn Phi khôn chỉ đưa ra cách xét người, mà còn chỉ ra
phương pháp “Thỉnh ngôn”, “Tham nghiệm”, và “Thí chi giao chức”. Thính ngôn tức
phương pháp nghe, là: Khi bề tôi nói thì vua phải trầm mặc, lầm lì không khen không
chê, không để lộ ý nghĩ và tình cảm của mình; Phải bắt bề tôi nói, không được làm
thinh, mà nói thì phải có đầu có đuôi có bằng cớ; Lời nói của bề tôi không được trước
mâu thuẫn với sau; Bề tôi phải đưa ra ý kiến rõ rệt, không được mập mờ, ba phải để
trốn tránh trách nhiệm; Quan trọng nhất lời nói phải thiết thực, có công dụng, không
phải là hư ngôn. Tham nghiệm là khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi và để xem lời
nói của họ có giá trị không. Hàn phi cho rằng muốn biết lời nói của họ có thành thực
không thì phải kiểm tra việc đã qua để biết lời nói có đúng không; để bề tôi ở gần mình
19
để biết nội tình của họ; dùng những điều mình biết rồi để tra hỏi những điều chưa biết;
nói những điều trái ngược để biết ý tứ kẻ dưới… Giao chức tức cho họ làm việc rồi
mới biết thực hay hay dở. Khi giao chức phải nhớ quy tắc: Mới đầu giao một việc nhỏ
rồi tăng dần; Không cho kiêm nhiệm; Đã giao trách nhiệm cho một người thì đừng
dùng kẻ khác để nhòm ngó kẻ đó.
Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm
trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao
nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được
Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống
nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Tần Thủy Hoàng đã sử dụng học thuyết này và đã thống nhất được Trung Quốc
năm 221 TCN. Mục đích chính của Hàn Phi Tử là “khiến cho kẻ mạnh không lấn át
người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô
độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con
giữ gìn cho nhau”. Vì mục đích đó, cho nên, pháp trị hay pháp trở thành tiêu chuẩn
khách quan để đánh giá, phân định phải – trái, tốt – xấu, đúng – sai của hành vi và là
tiêu chuẩn để phân định danh phận. Pháp là cơ sở để mọi người biết rõ bổn phận trách
nhiệm, là khuôn phép để khen – chê, thưởng – phạt. Sự hiện diện của pháp luật sẽ giúp
nhân tâm, vạn sự quy về một mối. Lấy pháp làm chuẩn nên pháp là cái gốc của thiên
hạ. Bởi vậy, từ mục đích, tính chất…đến ý nghĩa tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử
tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời, ngày nay vẫn được đánh giá rất cao
bởi tính thực tiễn và có thể áp dụng để xây dựng nhà nước.
Là dùng Pháp trị nhưng lại trọng dân, trước khi đặt ra luật lệ mới, ông để cho
dân tự phê bình. Còn lập pháp thuộc về nhà vua: quy tắc lập pháp phải lấy tính người
và phép trời làm tiêu chuẩn. Hành pháp thì phải công bố luật cho rõ ràng, thi hành cho
nghiêm chỉnh, tránh thay đổi, phải "chí công vô tư vua tôi sang hèn đều phải theo pháp
luật " thưởng phạt phải nghiêm minh "danh chính pháp hoàn bị thì bậc minh quân
chẳng có việc gì phải làm nữa, vô vi mà được trị".
Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân muốn gì thì phải cấp cho cái đó, không
muốn cái gì thì trừ cho cái đó. Hàn Phi tử đưa ra quan điểm; bản chất con người là ác,
muốn quản lý xã hội phải khởi xướng ra lễ nghĩa và chế định ra pháp luật để uốn nắn
tính xấu của con người. Trong cai trị - quản lý thì "tiên phú, hậu giáo" trước hết là làm
cho dân giàu sang sau đó thì giáo dục họ, trong giáo dục thì" tiên học lễ - hậu học văn"
20
Nho gia chủ trương cai trị bằng đạo đức, bằng văn và đã phát triển học thuyết- phương
pháp đức trị. Ngựơc lại, pháp gia đã đưa ra một học thuyết và phương pháp cai trị mới
- pháp trị " pháp bất vị thân", pháp phải hợp thời, pháp luật phải soạn sao cho dân dễ
biết dễ thi hành; pháp luật phải công bằng bênh vực kẻ thiểu số; thường phải có trọng
hậu, phạt phải nặng. Đó là tư tưởng về chính trị xã hội.
2.2.2 Giá trị và hạn chế trong tư tưởng triết học Pháp gia
• Giá trị tích cực của tư tưởng Pháp gia
Tư tưởng chính trị của Pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố
tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng pháp gia vẫn còn nhiều
yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
Pháp gia coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo. Là một bước tiến lớn, trong tư tưởng
chính trị cổ đại Trung Quốc. Mục đích chính của quyền lực là để giúp cho nhà lãnh đạo
có đủ phương tiện, mưu cầu quốc gia phú cường, bằng chính sách "Canh chiến" do
Hàn Phi đề xướng. Được như vậy thì vào thời bình, nhân dân sẽ nỗ lực canh tác, làm
cho nước giàu, nhờ có pháp lệnh khuyến khích; một khi xây ra chiến tranh, thì khối
nông dân đã được tổ chức sẵn trong thời bình, đều trở thành lính chiến, có thể đưa ngay
ra chiến trường chống giặc, như Hàn Phi đã nói: vô sự tắc quốc phú, hữu sự tắc binh
cường". Mấy ngàn năm đã qua, chúng ta có thể chắc chắn một điều là không có gì hoàn
toàn cả. Tư tưởng Pháp gia cũng vậy, nó có những điểm tiêu cực, thậm chí là phản
động nhưng nó cũng có những điểm rất tiến bộ, mà ngay cả ngày nay cũng là lý tưởng.
• Hạn chế của tư tưởng Pháp gia
Có ba hạn chế lớn trong đường lối Pháp trị của Pháp gia:
+ Hàn phi chỉ nhìn thấy con nguời ở khía cạnh vụ lợi và phủ nhận Đức trị. Việc
nhìn nhận con nguời thế nào sẽ ảnh hưởng tới việc quản lý con nguời ra sao. Hàn Phi
cho rằng tính nguời là “ác” một cách triệt để nên cho rằng chỉ có thể bằng lợi ích (để
dụ) và bằng hình phạt (để đe dọa, ép buộc), cùng với việc điều khiển bên ngoài thông
qua giám sát chặt chẽ thì mới có thể buộc những nguời làm việc cho mình cố gắng hết
sức. Đây là cách nhìn nguời một cách phiến diện. Vì trên thực tế, con nguời có những
lý tưởng cao đẹp và trong những hoàn cảnh nhất định, sẵn sàng vì các lý tuởng ấy, có
thể tạm quên đi các quyền lợi cá nhân của mình. Quốc gia bị xâm lược là một hoàn
cảnh cụ thể có thể minh họa tốt nhất cho việc cá nhân có thể hi sinh lợi ích của mình.
Tuy nhiên, trong thời đại của Hàn Phi, khái niệm “trung quân” lại hàm nghĩa trung với
nguời nuôi mình, không cùng nghĩa với yêu nước. Các học giả Xuân Thu - Chiến Quốc
21
chu du từ nước này qua nước khác để kiếm nguời nuôi mình, phát huy cái tài của mình
và sẵn sàng vì nguời nuôi mình, tiêu diệt chính nước mình. Ngũ Tử Tư, mà văn hóa
Trung Quốc cho là vị thần điển hình, đem quân Ngô về đánh bại nước Sở, nước của
chính mình, rồi hi sinh cho nước Ngô là một thí dụ. Chính bản thân Hàn Phi cũng là ví
dụ. Mặc dù là công tử nước Hàn, sau khi không thuyết phục được vua Tần đánh Hàn,
ông sẵn sàng nói cách phá kế hoạch hợp tung của thiên hạ, lấy nước Triệu, diệt nước
Hàn…(Thiên Lần đầu yết kiến vua Tần-Hàn Phi Tử) để phục vụ sự nghiệp thống nhất
thiên hạ của vua Tần. Hoàn cảnh lịch sử là vậy, bản thân Hàn Phi là vậy, ông sao tránh
khỏi việc nhìn nhận bản tính con nguời chỉ vì lợi ích cá nhân mà phục vụ cho vua còn
vua chỉ có thể kiểm soát, khống chế bề tôi bằng lợi ích và thủ đoạn. Cũng từ chỗ nhận
thức bản tính con nguời là Đại ác và ra đời trên cơ sở chống lại tư tuởng Nho giáo, Hàn
Phi chủ trương loại trừ Đức trị trong trị quốc. Đây cũng là sai lầm cơ bản vì theo lẽ tự
nhiên có âm phải có dương, có cương phải có nhu, đạo trời là ở lấy chỗ thừa bù chỗ
thiếu… Pháp luật là quan trọng để quản lý xã hội nhưng nếu chỉ sử dụng pháp luật thì
mọi hoạt động sẽ trở nên cứng nhắc. Xét một cách tổng quát, cái gì quá đều không tốt:
Đức trị quá mức, lòng dân coi thường mà loạn. Pháp trị quá mức, lòng dân sinh oán mà
loạn. Vì thế, trong quản lý xã hội, Pháp trị và Đức trị phải thống nhất bổ sung cho
nhau, tùy thời mà đổi vị trí chính, phụ thì xã hội mới có thể ổn định và phát triển.
- Xây dựng Pháp luật của vua, do vua, vì vua: Do điều kiện lịch sử khách quan,
dựa trên nhu cầu cai trị của vua, Pháp trị của Hàn Phi là pháp luật của vua, là việc vua
sử dụng pháp luật để cai trị thiên hạ. Trong đường lối Pháp trị, thân phận của nguời
dân, dù được nêu ra theo hướng bình đẳng trước pháp luật, nhưng không phải với nghĩa
“dân chủ” và pháp luật được “thượng tôn” nhưng vua vẫn đứng trên pháp luật. Chi có
vua là chủ, có quyền sở hữu, còn tất cả chỉ có quyền hưởng dụng. Pháp trị của Hàn Phi
là pháp trị phục vụ quyền lợi một nguời chứ không phải pháp trị phục vụ một giai cấp,
càng không phải pháp trị phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Chủ trương mọi nguời bình
đẳng trước pháp luật của Pháp trị, tuy chống lại tư tuởng phân chia đẳng cấp của Nho
giáo, nhưng đồng thời lại làm nổi bật hơn thân phận nô lệ của nguời dân. Biện pháp thi
hành pháp trị là sử dụng Thế và Thuật, cũng chỉ để đề cao vị thế của vua và sử dụng
thủ đoạn để cưỡng ép dân thi hành pháp lệnh của vua.
- Tập trung quyền lực vào một cá nhân (vua): Pháp gia tuy khác Nho gia ở quan
điểm trị nước nhưng hoàn toàn giống Nho gia ở quan điểm khẳng định quyền lực tối
thượng của vua. Việc xây dựng một lý thuyết pháp trị vững chắc dựa trên quyền lợi của
một cá nhân là không nên và sẽ không thành công. Đường lối pháp trị này đem lại rủi
22
ro rất lớn đối với lợi ích quốc gia. Về lý thuyết, Hàn Phi cho rằng nếu biết dùng pháp-
thuật-thế, vua không giỏi cũng có thể trị được nước. Nhưng trên thực tế, nếu vận dụng
hiệu quả Pháp trị của Hàn Phi, ông vua đó nhất định phải là bậc thánh nhân. Muốn
Pháp được thực hiện tốt, thì những nguời hành pháp phải mạnh. Muốn có nguời hành
pháp mạnh, thì vua phải giỏi Thuật, và thực hiện được “Vô Vi”. Thuật có giỏi thì Thế
mới vững. Thế có vững thì Pháp trị mới thành công. Hơn nữa, ngoài nắm vững Pháp -
Thuật - Thế, bậc vua sáng còn phải biết Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị
thích hợp theo thời thì có công lao…Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi
thì sinh loạn. Biết cai trị dân chúng nhưng lệnh ngăn cấm không thay đổi thì nước bị
cắt. Cho nên bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi, và sự ngăn
cấm theo khả năng mà thay đổi (Thiên Tâm độ - Hàn Phi Tử). Việc nước Tần dùng
Pháp trị của Hàn Phi mà bình được loạn, thống nhất được thiên hạ nhưng đến khi cai trị
thiên hạ, vẫn lối cũ mà làm, cũng chỉ được hiệu quả thời gian đầu, về sau lại vì pháp trị
mà sụp đổ, không phải do Pháp trị dở mà là do nguời thực hiện Pháp trị dở. Xây dựng
học thuyết dựa trên tài năng của một cá nhân là một hạn chế lịch sử mà Hàn Phi không
thể vượt qua.
Như vậy, có thể nói, trong đường lối Pháp trị của Pháp gia, dân vẫn chỉ có thể vui
buồn, ơn oán và mơ ước, chờ đợi vua giỏi, tôi hiền. Các hạn chế dân chủ và chủ trương
quyền lực của pháp trị làm cho nó trở nên không bền vững và không thể phù hợp với
thời đại chúng ta đang sống. Vì thế, khi xây dựng và hoàn thiện Pháp luật, Việt Nam
cần tránh những hạn chế trên, phải xây dựng được một chế độ phân quyền theo mô
hình tam quyền phân lập (tư pháp - hành pháp - lập pháp), thượng tôn pháp luật, theo
đúng nghĩa không ai đứng trên pháp luật; pháp luật phải của dân, do dân, và vì lợi ích
nhân dân; dân phải có quyền giám sát việc thực thi pháp luật.
3. Vận dụng những giá trị và hạn chế của tư tưởng triết học Nho gia và Pháp gia
trong hoạt động quản lý
Khổng Tử chủ trương trị người bằng đức là chính, nghĩa là để thu phục và dẫn
dắt người khác, nhà quản trị phải tự mình học tập và tu dưỡng để có được những đức
tính cần thiết, chẳng hạn như: nhân, nghĩa, trí, tín, dũng, liêm Trong đó, đức nhân
được đặt lên hàng đầu và là trung tâm: vì con người và từ con người. Khổng Tử coi
nhân là gốc, lễ là ngọn, nhân là mục tiêu, còn lễ là chính sách. Để thực thi được đạo lý
và mục tiêu, Khổng Tử chủ trương sử dụng phương thức chính danh. Khổng Tử cho
rằng chỉ có một số ít người có năng lực đặc biệt và có nhân cách đặc biệt mới có thể
hiểu và thực hành được công việc quản trị vì vậy, học thuyết của ông đề xướng thường
23
tồn tại dưới dạng các nguyên lý, nguyên tắc. Ông chủ trương: “đã chỉ cho một góc rồi
mà không suy ra ba góc còn lại thì không dạy nữa”, hoặc là “ôn cũ, biết mới”
Khổng Tử cũng chỉ rõ các nguyên tắc liên quan đến các nội dung và các công
việc cụ thể của công tác quản trị nhân sự như: sử dụng, đánh giá, đãi ngộ, đào tạo nhân
sự Chẳng hạn, về sử dụng nhân sự, Khổng Tử chủ trương “sử dân dĩ thời’ (sử dụng
người đúng lúc); biết đánh giá bản chất của người; “đề bạt người chính trực (ngay
thẳng) lên trên người cong queo”; khách quan, không thành kiến, sử dụng tuỳ theo tài
năng, đạo đức của từng người; Trong đãi ngộ nhân sự, nguyên tắc phân phối quân bình,
không nên quá chênh lệch trong phân phối: “không sợ thiếu, chỉ sợ không đều” đã
được đề cao; Về đào tạo nhân sự, nhà quản trị phải chịu khó dạy dỗ, thiếu cái gì dạy cái
ấy, nhà quản trị phải là tấm gương để người dưới học tập: “học không biết chán, dạy
không biết mỏi”.
Bên cạnh học thuyết “Đức trị” chủ trương lấy “Đức” làm phạm trù hạt nhân,
tức là đề cao vai trò của nhà quản trị, cần phải nói thêm về một học thuyết mà tuy
không trở thành nền tảng chính của tư tưởng quản trị nhân sự Phương Đông nhưng có
một số ảnh hưởng nhất định đến nó, đó là học thuyết “Pháp trị” do Hàn Phi Tử - một
danh sĩ đời Tần Thuỷ Hoàng sáng lập. Nội dung của “Pháp trị” được thể hiện chủ yếu
trong tác phẩm “Hàn Phi Tử”. Tư tưởng quản trị nhân sự trong học thuyết của Hàn Phi
Tử dựa trên cơ sở nhận thức của Ông về bản chất con người, đó là, ngoại trừ một số ít
thánh nhân, còn thì phần lớn con người: (i) tranh nhau vì lợi; (ii) lười biếng, khi có dư
ăn rồi thì không muốn làm nữa; (iii) chỉ phục tùng quyền lực.
Trên cơ sở nhận thức về bản chất con người khác với trường phái “Đức trị”,
Hàn Phi Tử đã xây dựng một học thuyết xoay quanh ba phạm trù: Pháp, thế, thuật.
Trong học thuyết của mình, Hàn Phi Tử đã chỉ rõ và quy trình hoá các nội dung liên
quan đến sử dụng nhân sự, đãi ngộ nhân sự: dùng người phải đúng hình danh, theo
đúng quy trình khách quan (phải phát huy được sức lực và trí tuệ, các loại công việc
khác nhau đòi hỏi các kỹ năng không giống nhau, giao việc phải từ nhỏ đến lớn ); đãi
ngộ theo nguyên tắc, quy tắc, quy chế chứ không theo ý riêng (thưởng phạt theo quy
định rõ ràng).
Hàn Phi Tử chủ trương phải cụ thể hoá hoạt động quản trị nhân sự thành thao
tác và quy trình để người bình thường cũng có thể học và thực thi được: “Pháp phải
hợp thời, dễ biết, dễ thi hành, phải công bằng”. Một trong những tư tưởng xuyên suốt
trong học thuyết “Pháp trị” đó là tính thực tiễn: “Việc phải theo thời, mà biện pháp
24