TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN KẾ TOÁN – KIỂM TỐN
ĐỀ ÁN MƠN HỌC KIỂM TỐN
ĐỀ TÀI:
RỦI RO KIỂM TỐN VÀ QUY TRÌNH
ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TỐN TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH DO KIỂM TỐN ĐỘC LẬP THỰC HIỆN
Sinh viên thực hiện
Chuyên ngành
Lớp
Mã sinh viên
Giáo viên hướng dẫn
: Lương Thị Phương Anh
: Kiểm toán
: Kiểm toán 59E
: 11170182
: TS. Bùi Thị Minh Hải
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 4
PHẦN 1I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ RỦI RO KIỂM TỐN VÀ QUY TRÌNH ĐÁNH
GIÁ RỦI RO KIỂM TỐN TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO
KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP THỰC HIỆN........................................................................5
1.1. Bản chất của rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo tài chính.......................5
1.1.1. Khái niệm về rủi ro kiểm toán .............................................................................5
1.1.2. Các loại rủi ro kiểm toán.....................................................................................7
1.1.2.1. Rủi ro tiềm tàng (IR)...........................................................................................7
1.1.2.2. Rủi ro kiểm sốt (CR)..........................................................................................7
1.1.2.3. Rủi ro phát hiện (DR)..........................................................................................8
1.1.3. Mơ hình rủi ro kiểm tốn......................................................................................8
1.2. Quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC............................12
1.2.1. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn (DAR)...........................................13
1.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng (IR)............................................................................16
1.2.3. Đánh giá rủi ro kiểm soát (CR)...........................................................................19
1.2.4. Xác định rủi ro phát hiện (DR)...........................................................................22
PHẦN 2II: THỰC TRẠNG QUI TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TỐN
TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO MỘT SỐ CƠNG TY KIỂM
TỐN ĐỘC LẬP TẠI VIỆT NAM THỰC HIỆN.....................................................23
2.1. Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm toántrong kiểm toán báo cáo tài chính tại cơng
ty AASC........................................................................................................................24
2.2. Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm soát trong kiểm tốn báo cáo tài chính tại cơng
ty Deloitte Việt Nam.....................................................................................................26
PHẦN 3III: ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP HỒN THIỆN QUY
TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH.....30
3.1. Nhận xét về đánh giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn tài chính do các cơng ty
kiểm tốn độc lập tại Việt Nam thực hiện..................................................................30
3.1.1. Ưu điểm...............................................................................................................30
3.1.2. Những tồn tại và nguyên nhân...........................................................................32
3.2. Một số giải pháp hồn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm
tốn BCTC....................................................................................................................33
3.2.1. Phương hướng hồn thiện..................................................................................33
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện...........................................................................................34
KẾT LUẬN................................................................................................................... 37
DANH MỤC TÀI LIỆU VÀ THAM KHẢO..............................................................38
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Kiểm toán viên
Chữ viết tắt
:
KTV
Bằng chứng kiểm tốn :
BCKT
Báo cáo tài chính
:
BCTC
Hàng tồn kho
:
HTK
MỞ ĐẦU
Kiểm tốn là ngành có những đóng góp quan trọng trong nền kinhtế nước ta. Mặc
dù nó mới ra đời và phát triển trong hơn 20 năm nhưng số lượng các cơng ty kiểm tốn
đã và đang ngày càng tăng chứng tỏ nhu cầu trong lĩnh vựcnày ngày càng cao. Hiện nay
dịch vụ kiểm toán BCTC vẫn là dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của các
cơng ty kiểm tốn độc lập tại Việt Nam. Một trong những yếu tố quan trọnggóp phần
nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng của cuộc kiểm toán là thực hiện đánh giá rủi ro
hiệu quả từ đó thiêt lập một kế hoạch kiểm toán phù hợp. Tuy nhiên, trên thực tế việc
đánh giá rủi ro kiểm toán BCTC của các cơng ty kiểm tốn độc lập vẫn chưa hồn thiện
do đây là cơng việc phức tạp địi hỏi óc phán đốn cũng như trình độ của KTV. Chính vì
vậy việc tìm hiểu và hồn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán
BCTC là một vấn đề rất cần được quan tâm. Vì vậy em đã chọn đề tài “Rủi ro kiểm tốn
và quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do kiểm
tốn độc lập thực hiện” cho học phần đề án kiểm tốn của mình nhằm góp phần giải
quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn còn bỏ ngỏ của công tác đánh giá rủi ro kiểm toán
trong kiểm toán BCTC. Đề án được nghiên cứu trên cơ sở những kiến thức đã học và các
tài liệu tham khảo của các cơng ty kiểm tốn, các tài liệu tự sưu tầm và việc phân tích
tổng hợp đánh giá, từ đó đề ra những biện pháp hồn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm
tốn trong kiểm tốn BCTC. Nội dung của đề tài gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về rủi ro kiểm toán và quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn
trong kiểm tốn BCTC do kiểm toán độc lập thực hiện
Phần 2: Thực trạng quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn BCTC do
một số cơng ty kiểm tốn độc lập tại Việt Nam thực hiện
Phần 3: Đánh giá và đề xuất các giải pháp hồn thiện quy trình đánh giá rủi ro
trong kiểm toán BCTC
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ RỦI RO KIỂM TỐN VÀ QUY TRÌNH ĐÁNH
GIÁ RỦI RO KIỂM TỐN TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO
KIỂM TỐN ĐỘC LẬP THỰC HIỆN
1.1. Bản chất của rủi ro kiểm toán trong kiểm tốn báo cáo tài chính
1.1.1. Khái niệm về rủi ro kiểm toán (AR)
Rủi ro kiểm toán là khái niệm quen thuộc gắn liền với trách nhiệm của KTV trong
kiểm tốn nói chung và kiểm tốn BCTC nói riêng. Vì vậy, yếu tố quyết định trong việc
hạn chế rủi ro kinh doanh của các cơng ty kiểm tốn là việc hiểu rõ và quản lý tốt rủi ro
kiểm toán.
Trước khi muốn hiểu rõ rủi ro kiểm tốn thì ta cần hiểu được rủi ro là gì? Từ điển
Tiếng Việt định nghĩa “Rủi ro là tính từ để chỉ việc khơng may xảy ra”. Do đó rủi ro là
điều khơng mong muốn. Rủi ro mang những đặc trưng riêng ở mỗi lĩnh vực khác nhau.
Đối với lĩnh vực kiểm toán rủi ro kiểm toán đã được định nghĩa trong các văn bản hướng
dẫn kiểm toán và chuẩn mực kiểm toán.
Theo chuẩn mực kiểm toán số 200: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên
đưa ra ý kiến kiểm tốn khơng phù hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm tốn cịn chứa
đựng sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm tốn là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu (gồm rủi
ro tiềm tàng, rủi ro kiểm sốt) và rủi ro phát hiện”.
Cịn theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 25“Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà
kiểm tốn viên có thể mắc phải khi đưa ra nhận xét không xác đáng về các thơng tin tài
chính và đó là các sai phạm trọng yếu”.
Như vậy các hội nghề nghiệp kế toán và kiểm tốn đều có chung một nhận định về
rủi ro kiểm toán. Rủi ro kiểm toán được hiểu ngắn gọn là khả năng mà KTV đưa ra ý kiến
khơng chính xác về đối tượng được kiểm tốn.Ví dụ như BCTC của đơn vị khách hàng
được KTV đưa ra ý kiến rằng đã trình bày trung thực hợp lý xét trên các khía cạnh trọng
yếu, tuy nhiên trên thực tế các báo cáo đã được kiểm toán này vẫn tồn tại các sai phạm
trọng yếu mà KTV không phát hiện ra trong quá trình kiểm tốn. Mặc dù ngay cả khi
cuộc kiểm tốn được lập kế hoạch chu đáo và thận trọng thì loại rủi ro vậy vẫn ln ln
có thể tồn tại. Nếu việc lập kế hoạch kiểm tốn khơng chu đáo và thiếu thận trọng thì rủi
ro này sẽ tăng lên.
Trong mỗi cuộc kiểm toán, rủi ro kiểm toán được xem xét trong quan hệ với kế
hoạch kiểm toán, lựa chọn phép thử và lấy mẫu kiểm toán nên rủi ro kiểm tốn được hiểu
là khả năng sai sót và việc đánh giá rủi ro tiến hành qua ước tính tỷ lệ từ 0% đến 100%
hoặc sử dụng các định tính: cao, trung bình và thấp.
Rủi ro kiểm tốn xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn trong BCTC đã vượt qua hệ
thống kiểm soát nội bộ của đơn vị và khơng bị các thử nghiệm cơ bản của kiểm tốn viên
phát hiện ra. Trong thực tế do giới hạn về mặt quản lý, chi phí kiểm tốn thì rủi ro kiểm
tốn thường xảy ra và nó có quan hệ với lượng BCKT thu được. Rủi ro kiểm tốn có mối
quan hệ tỷ lệ nghịch với lượng BCKT thu được, nếu lượng BCKT thu được càng nhiều
thì rủi ro kiểm tốn càng ít và ngược lại được thể hiện qua sơ đồ 1. Thế nhưng ngay cả
khi đã thu thập được đầy đủ BCKT thì rủi ro kiểm tốn vẫn ln tồn tại.
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và bằng chứng kiểm toán
Rủi ro kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán
1.1.1. Các loại rủi ro kiểm toán
1.1.1.1. Rủi ro tiềm tàng (IR)
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn,
vốn có do khả năng cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông
tin thuyết minh có thể chứa đựng sai phạm trọng yếu khi xét riêng rẽ hoặc tổng hợp lại,
trước khi xem xét đến bất kỳ kiểm sốt nào có liên quan”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 – “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”,
mục 04 quy định: “ Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp
vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có
hay khơng có hệ thống kiểm sốt nội bộ”.
Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm loại hình kinh doanh, tình hình
kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán. KTV khơng tạo ra cũng
khơng kiểm sốt được rủi ro tiềm tàng.
1.1.1.2.
Rủi ro kiểm soát (CR)
Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại,
đối với cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thơng tin thuyết minh
mà kiểm sốt nội bộ của đơn vị không thể ngăn chặn hoặc không phát hiện và sửa chữa
kịp thời.
Như vậy, rủi ro kiểm soát là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị kiểm
tốn khơng phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu. Cho dù
kiểm soát nội bộ có hữu hiệu thì cũng khơng thể ngăn chặn và phát hiện được tất cả các
sai phạm do hạn chế tiềm tàng của nó. KTV khơng thể tạo ra rủi ro kiểm sốt và cũng
khơng kiểm sốt chúng. KTV chỉ có thể đánh giá kiểm sốt nội bộ của đơn vị được kiểm
tốn từ đó để đưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến.
1.1.1.3.
Rủi ro phát hiện (DR)
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 đã định nghĩa: Rủi ro phát hiện là rủi ro
trong q trình kiểm tốn, các thủ tục mà KTV thực hiện nhằm giảm rủi ro kiểm toán
xuống tới mức có thể chấp nhận được nhưng vẫn khơng phát hiện được hết sai phạm
trọng yếu khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại.
Theo nguyên tắc kiểm toán Quốc tế số 25, mục 15 có ghi: “Rủi ro phát hiện là
những rủi ro mà KTV không phát hiện ra các sai sót hiện có trong số dư tài khoản hoặc
các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể
kết hợp với các sai sót trong các số dư, các loại nghiệp vụ khác”.
Rủi ro phát hiện là khả năng mà các thủ tục kiểm tốn khơng phát hiện được các
sai phạm trọng yếu. Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt, KTV và cơng ty
kiểm tốn có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các BCKT nhằm quản lý và kiểm
soát đối với rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện sẽ gia tăng nếu việc lập và thực hiện kế
hoạch kiểm tốn khơng được thực hiện nghiêm túc hoặc bản thân KTV có năng lực nghề
nghiệp hạn chế.
1.1.2. Mơ hình rủi ro kiểm toán
Khi BCTC chứa đựng các sai phạm trọng yếu nhưng KTV lại kết luận rằng chúng
được trình bày trung thực, hợp lý thì rủi ro kiểm tốn sẽ xảy ra. Rủi ro này xuất phát từ
các sai phạm tiềm ẩn trong BCTC (rủi ro tiềm tàng) đã vượt qua hệ thống kiểm soát nộ
bộ của đơn vị (rủi ro kiểm sốt) và khơng bị các thử nghiệm kiểm tốn của KTV phát
hiện (rủi ro phát hiện). Vì vậy rủi ro kiểm toán là tổng hợp của: rủi ro tiềm tàng, rủi ro
kiểm soát và rủi ro phát hiện. Quan hệ giữa các loại rủi ro trên có thể được phản ánh qua
một mơ hình rủi ro sau đây:
AR= IR * CR * DR (1)
Trong đó:
-
AR: Rủi ro kiểm tốn
IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm sốt
DR: Rủi ro phát hiện
KTV sử dụngmơ hình này để xem xét tính hợp lý của kế hoạch kiểm tốn. Với mơ
hình này, KTV có thể sử dụng để điều chỉnh rủi ro phát hiện dựa trên các loại rủi ro khác
đã được xác định nhằm đạt rủi ro kiểm toán ở mức thấp như mong muốn. Ta có thể xét ví
dụ minh họa như sau:
KTV muốn tiến hành một cuộc kiểm tốn cụ thể và kì vọng rủi ro kiểm toán ở
mức tương đối thấp, khoảng 0,03 (có nghĩa là bình qn có khoảng 3% quyết định kiểm
tốn là khơng chính xác). Tất cả các rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được đánh
giá dựa trên kinh nghiệm và có minh chứng cụ thể. Giả sử KTV cho rằng rủi ro tiềm tàng
đối với đối tượng kiểm toán là rất lớn là 0,9 và hệ thống kiểm sốt nội bộ của doanh
nghiệp khơng được hiệu lực lắm CR=0,7. Khi đó KTV phải điều chỉnh sao cho rủi ro
phát hiện không vượt quá mức 0,047 để đảm bảo được mức rủi ro kiểm toán thấp ở mức
0,03 như kỳ vọng.
Mơ hình (1) được sử dụng ít vì KTV xác định trước rủi ro kiểm tốn và khó có thể
thay đổi trong cuộc kiểm tốn. Vì vậy,rủi ro phát hiện được KTV mong muốn xác định để
lập kế hoạch kiểm toán hơn là việc rủi ro phát hiện được điều chỉnh theo rủi ro kiểm tốn.
Hơn nữa, cố hữu là tính chất của rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt do đó KTV khơng
thể tác động mà chỉ có thể đánh giá chúng. Do đó, mơ hình (1) khơng thể hiện đươc tính
tác động được của KTV đối với rủi ro phát hiện. Để cho việc lập kế hoạch kiểm toán và
xét trong mối quan hệ với chi phí kiểm tốn, mơ hình rủi ro kiểm toán thường được sử
dụng ở dạng thứ 2 như sau:
DR= (2)
Ở mơ hình (2), đối tượng chính mà KTV quan tâm đến là rủi ro phát hiện.Mối liên
quan trực tiếp giữa rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện được thể hiện quamơ hình này
cũng như tính tác động được của rủi ro phát hiện. Hơn nữa mơ hình này còn thể hiện
được mối quan hệ giữa rủi ro phát hiện và số lượng BCKT cần được thu thập trong q
trình lập kế hoạch kiểm tốn. Xét lại ví dụ ở mơ hình (1): Giả sử rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm sốt khơng thay đổi, KTV mong muốn rủi ro kiểm tốn có thể chấp nhận được là
0.05%, khi đó rủi ro phát hiện được xác định theo cơng thức ở mơ hình (2) như sau:
DR = = 0,8
Do vậy số lượng BCKT và khối lượng công việc mà KTV cần thu thập ít hơn so
với trường hợp rủi ro kiểm toán mong muốn là ở mức 0,03. Ở mơ hình (2), rủi ro kiểm
tốn thơng thường được xác định trước cuộc kiểm toán theo tiêu chuẩn của từng cơng ty
kiểm tốn và được gọi là rủi ro kiểm tốn mong muốn (DAR). Do đó mơ hình (2) được
viết dưới dạng:
DR=
Rủi ro không bao giờ được loại bỏ một các chắc chắnở một cuộc kiểm tốn. Do
đó, mức độ kỳ vọng của KTV đối với một mức rủi ro có thể chấp nhận được thể hiện qua
khái niệm rủi ro kiểm toán mong muốn. Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định theo
một cách chủ quan bằng óc xét đốn nghề nghiệp kinh nghiệm của KTV. Khi KTV cho
rằng rủi ro kiểm toán mong muốn bằng 0, điều đó có nghĩa là KTV tin tưởng BCTC của
khách hàng không tồn tại bất cứ sai phạm trọng yếu nào.Tuy nhiên nó khơng bao giờ xảy
ra mặc dù đây là trường hợp lý tưởng. Bởi vì kiểm tốn là một lĩnh vực tương đối hơn là
tuyệt đối, cho nên KTV chỉ có thể kết luận BCTC đã được trình bày một cách trung thực,
hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu chứ không thể khẳng định một cách chắc chắn trung
thưc, hợp lý trên tất cả các khía cạnh. Khi rủi ro kiểm toán ở mức 1% hay 100%, KTV
cho rằng BCTC của khách hàng bị làm sai lệch nghiêm trọng trên các khía cạnh trọng
yếu. Do đó, biên độ dao động của rủi ro kiểm toán mong muốn biến đối từ 0% đến 100 %
hay từ 0 đến 1.
Do đó việc đưa ra mức rủi ro kiểm tốn mong muốn mang tính chủ quan của KTV.
Tuy nhiên, KTV phải đưa ra được mức rủi ro kiểm toán mong muốn đủ thấp để những
người quan tâm có thể sử dụng BCTC đã được kiểm toán của khách hàng là cơ sở để đưa
ra các quyết định nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
Mối quan hệ qua lại chặt chẽ giữa các loại rủi ro được chỉ ratrong quá trình nghiên
cứu về chúng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt có điểm khác biệt với rủi ro phát hiện
và rủi ro kiểm toán ở chỗ: chúng tồn tại độc lập, khách quan với các thông tin tài chính và
khơng phụ thuộc vào ý chí và ý muốn của KTV, đồng thời đối với hai loại rủi ro này,
KTV cũng không thể tác động để làm thay đổi chúng. Trong Nguyên tắc kiểm toán quốc
tế số 25, mục 16 đã ghi rõ mối quan hệ qua lại giữa các loại rủi ro trong kiểm tốn tài
chính: “Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác với rủi ro phát hiện ở chỗ các rủi ro này
tồn tại độc lập với các thơng tin tài chính. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nằm trong
chức năng hoạt động kinh doanh và môi trường quản lý của doanh nghiệp cũng như trong
bản chất của số dư tài khoản, các loại nghiệp vụ cho dù việc kiểm toán có tiến hành hay
khơng. Thâm chí các rủi ro này khơng được KTV kiểm tra đến, KTV có thể đánh giá các
rủi ro này và thiết kế các phương pháp kiểm toán cơ bản để hạn chế rủi ro phát hiện đến
mức thấp nhất có thể chấp nhận được”. Mối quan hệ này được xác định trên cơ sở mơ
hình kiểm toán (1), tức là rủi ro kiểm toán bị phụ thuộc bởi rủi ro phát hiện, chưa thể hiện
được tính phụ thuộc của rủi ro phát hiện vào rủi ro kiểm toán mong muốn và rủi ro tiềm
tàng cũng như rủi ro kiểm soát.
Rủi ro tiềm tàng thường biến đổi cùng chiều với rủi ro kiểm soát và do vậy khi
đánh giá rủi ro kiểm toán chúng thường được đánh giá chung. Rủi ro tiềm tàng sẽ lớn nếu
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có tính mạo hiểm cao, mặc dù hệ thống kiểm soát nội
bộ của doanh nghiệp có hoạt động tốt nhưng rủi ro kiểm sốt ln được đánh giá ở mức
trung bình hoặc trên mức trung bình vì rủi ro kiểm sốt ln tồn tại và những hạn chế cố
hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Nếu như rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt KTV khơng thể tác động được mà chỉ
đánh giá thì rủi ro kiểm tốn và rủi ro phát hiện KTV có thể tác động được. Tùy những
hồn cảnh cụ thể khác nhau, mức rủi ro kiểm toán mong muốnsẽ được KTV dự kiến trên
cơ sở bảo đảm tính đáng tin cậy của BCTC sau khi kiểm toán và BCKT. Thơng qua mơ
hình (2)rủi ro phát hiện được xác định sau khi KTV đã xác định được rủi ro kiểm toán
mong muốn và đánh giá được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt. Do đó, ngồi việc nhận
thức thì KTV cũng có thể tác động vào rủi ro phát hiện.
Với một mức kiểm toán mong muốn được xác định từ trước, ta có thể rút ra được
kết luận từ mơ hình (2) như sau: rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt, do đó, rủi ro phát hiện cũng tỷ lệ nghịch với số lượng
BCKT cần thu thập. Nếu như rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt được đánh giá ở mức
cao thì rủi ro phát hiện ở mức thấp, khi đó số lượng BCKT cần thu thập nhiều, khối lượng
cơng việc kiểm tốn tăng và phạm vi kiểm toán phải được mở rộng và ngược lại.
Bảng 1.1. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro với số lượng BCKT
Số lượng
AR
Cao
Thấp
Thấp
Trung bình
Cao
IR
Thấp
Thấp
Cao
Trung bình
Thấp
CR
Thấp
Thấp
Cao
Trung bình
Trung bình
DR
BCKT cần thu
Cao
Trung bình
Thấp
Trung bình
Trung bình
thập
Thấp
Trung bình
Cao
Trung bình
Trung bình
1.2. Quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn BCTC
Theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 về “Đánh giá rủi ro và kiểm sốt nội
bộ” thì: “Khi xác định phương pháp tiếp cận kiểm toán, KTV phải quan tâm đến những
đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát để xác định mức độ rủi ro phát hiện
có thể chấp nhận được cho cơ sở dẫn liệu của BCTC và xác định nội dung, lịch trình,
phạm vi của các thủ tục cơ bản cho cơ sở dẫn liệu đó”.
Tóm lại, mục đích của việc đánh giá rủi ro kiểm toán là xác định mức rủi ro phát
hiện để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch các thử nghiệm kiểm tốn. Từ mơ hình rủi ro
kiểm tốn, thơng qua những đánh giá về rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát, rủi ro kiểm toán sẽ được xác định.
1.2.1. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn (DAR)
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, rủi ro kiểm tốn mong muốn được xác
định, nó được xác định một cách chủ quan và phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản sau:
Một là, mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngồi tin vào BCTC
Trong cơ chế thị trường, tình hình tài chính và sự phản ánh của nó trong tài liệu kế
tốn mà trực tiếp là BCTC được rất nhiều người quan tâm. Những người này có thể là: cơ
quan Nhà nước (cần thơng tin trung thực để có những chính sách điều tiết vĩ mơ nền kinh
tế); các nhà đầu tư (cần có thơng tin trung thực, hợp lý để có hướng đầu tư đúng đắn, sử
dụng vốn đầu tư và phân chia kết quả đầu tư); các nhà quản trị doanh nghiệp (cần thơng
tin trung thực để có thể ra quyết định đúng đắn); người lao động, khách hàng, nhà cung
cấp,...
Nếu các BCTC được nhiều người sử dụng bên ngoài đặt niềm tin thì những sai
phạm trọng yếu trên BCTC dễ gây ra tác hại trên phạm vi rộng. Vì thế, trong những
trường hợp này, KTV cần xác định mức rủi ro kiểm tốn thấp, từ đó cần tăng số lượng
BCKT cần phải thu thập và tăng độ chính xác của các kết luận cần đưa ra.
Một số yếu tố chỉ ra mức độ để tạo nên sự tin tưởng của người sử dụng đối với
BCTC là:
Thứ nhất, quy mơ của doanh nghiệp được kiểm tốn: quy mô của doanh nghiệp
được đo bằng tổng doanh thu, tổng tài sản hoặc tổng thu nhập. Quy mô càng lớn thì
BCTC càng được sử dụng rộng rãi và rủi ro kiểm toán mong muốn phải ở mức thấp hơn.
Thứ hai, quyền sở hữu: Nếu quyền sở hữu của doanh nghiệp thuộc nhiều về các
bên tham gia thì BCTC sẽ được nhiều người quan tâm đến và rủi ro kiểm toán cũng cần
phải đánh giá ở mức thấp hơn.
Thứ ba, bản chất và quy mô của công nợ: Các khoản cơng nợ là những khoản có
liên quan tới một bên thứ ba cho vay, cho nợ.Tình hình tài chính hiện tại của cơng ty đặc
biệt là khả năng thanh tốn thường được các chủ nợ quan tâm đến để ra quyết định tiếp
tục duy trì cho doanh nghiệp vay tiếp hay khơng. Do đó, khi BCTC bao gồm số lượng lớn
các khoản cơng nợ có quy mơ lớn thì chúng có khả năng được sử dụng rộng rãi.
Hai là, khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm
tốn được cơng bố
Sau khi báo cáo kiểm tốn được cơng bố, khả năng KTV sẽ liên quan đến các vụ
kiện của các bên sử dụng BCTC đã được kiểm toán là rất lớn nếu khách hàng đang gặp
khó khăn về tài chính. Vì vậy, trong trường hợp này, ngay từ ban đầu KTV cần phải xác
định được một mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn để đề phòng trong các trường
hợp bị các bên có liên quan kiện. Trường hợp này làm chi phí kiểm tốn cao hơn nhưng
KTV vẫn phải xác định mức rủi ro kiểm toán ở mức thấp hợp lý.
Việc dự đốn được những khó khăn của đơn vị được kiểm toán trong tương lai là
một vấn đề rất phức tạp. Tuy nhiên, KTV có thể dựa vào những yếu tố sau để dự đoán:
Thứ nhất, khả năng chuyển đổi thành tiên mặt. Một doanh nghiệp dễ gặp khó khăn
trong thanh tốn nếu doanh nghiệp thường xun khơng đủ tiền và vốn lưu động. Khả
năng thanh toán của khách hàng cần phải được KTV đánh giá để dự đoán khả năng khách
hàng sẽ gặp khó khăn trong tương lai, nếu tồi tệ hơn doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn thì dễ dẫn đến phá sản.
Thứ hai, các khoản lãi hoặc lỗ trong các năm trước. Nếu như một doanh nghiệp
tăng nhanh các khoản lỗ và giảm nhanh các khoản lãi trong nhiều năm liền liên tiếp thì
đây là một tín hiệu xấu về tình hình kinh doanh đang có chiều hướng xấu đi. Khi thấy có
các dấu hiệu này xuất hiện, KTV cần đánh giá những đối tượng khách hàng sẽ gặp khó
khăn về tài chính để hạn chế rủi ro.
Thứ ba, các biện pháp nhằm gia tăng quá trình tài trợ. Nếu doanh nghiệp càng phụ
thuộc nhiều vào các khoản tài trợ, đặc biệt là tìm các giải pháp để gia tăng các khoản tài
trợ này thì chứng tỏ doanh nghiệp khơng tụ chủ về mặt tài chính do đó doanh nghiệp sẽ
phải đối mặt với những rủi ro tài chính tăng.
Thứ tư, bản chất hoạt động của công ty khách hàng.Khả năng gặp rủi ro dẫn đến
phá sản là rất caođối với một số lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Khi kiểm toán những
ngành kinh doanh này, trường hợp khách hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăncần được
KTV đề phịng để xác định mức rủi ro kiểm toán sao cho hợp lý nhất.
Việc thu thập thơng tin và tìm hiểu rõ về khách hàng, đặc biệt là 2 yếu tố nêu trên
sẽ là công cụ đắc lực giúp cho KTV xác định được mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn
cho tồn bộ BCTC được kiểm tốn.
Tuy nhiên, các thủ tục kiểm toán lại được thiết kế riêng cho từng khoản mục, việc
thiết kế các khoản mục này lại phụ thuộc rất lớn vào rủi ro kiểm toán được xác định cho
từng khoản mục đó. Do đó, KTV cần dựa vào đó để thiết lập mức rủi ro kiểm tốn cho
từng khoản mục sau khi đã thiếp lập mức rủi ro kiểm tốn chung cho tồn bộ BCTC. Ví
dụ như là mức rủi ro kiểm tốn mong muốn cho tồn bộ BCTC được KTV đánh giá ở
mức trung bình thì mức rủi ro kiểm tốn của từng khoản mục cũng có thể xác định ở mức
trung bình. Thế nhưng, KTV có thể điều chỉnh mức rủi ro này sao cho phù hợp hơn đối
với những khoản mục đặc biệt bởi vì mỗi khoản mục sẽ được phân bổ một mức trọng yếu
khác nhau nên khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu và không được phát hiện kịp thời
ở các khoản mục khác nhau sẽ là khác nhau. KTV có thể xác định mức rủi ro kiểm toán
mong muốn thấp hơn đối với những khoản mục có mức trọng yếu được phân bổ cao hơn
và ngược lại. Ngồi ra, mức rủi ro kiểm tốn cũng được xác định thấp hơn đối với những
khoản mục mà nó có tầm quan trọng đối với người sử dụng kết quả kiểm toán. Chẳng
hạn, doanh nghiệp cần phải có BCTC đã được kiểm tốn nếu như muốn vay vốn ngân
hàng.Khi đó KTV cần thiết lập một mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn các khoản
mục khác để kiểm toán các khoản mục liên quan tới khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. KTV sẽ đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát sau khi thiết lập được mức
rủi ro kiểm toán mong muốn.
1.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng (IR)
Trong việc lập kế hoạch kiểm tốn việc phân tích và đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý
nghĩa rất lớn. Mức độ của rủi ro tiềm tàng là cơ sở để lựa chọn các thủ pháp kiểm tốn,
định lượng khối lượng cơng việc, nhân sự, thời gian và chi phí cần thiết cho cuộc kiểm
toán.
Theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 về: “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ”: “Khi lập kế hoạch kiểm tốn, KTV và cơng ty kiểm tốn phải đánh giá rủi ro tiềm
tàng cho toàn bộ BCTC của đơn vị được kiểm tốn. Khi lập chương trình kiểm toán,
KTV phải xác định cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ
quan trọng đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp khơng thể xác định cụ thể được thì KTV
phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu. Căn cứ vào mức độ đánh giá
rủi ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các
nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên BCTC, hoặc các nghiệp vụ, các khảon mục mà
KTV cho là có rủi ro tiềm tàng cao.”
Quá trình đánh giá rủi ro tiềm tàng được thực hiện trên 2 phương diện:
Một là, đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện BCTC
KTV thường dựa vào các yếu tố ảnh hưởng dưới đây khi đánh giá rủi ro tiềm tàng
trên phương diện BCTC:
Thứ nhất, đặc điểm của Ban giám đốc: Nếu một cá nhân trong Ban giám đốc đưa
ra các quyết định độc quyền về kinh tế, tài chính trong đơn vị thì sẽ dẫn đến các sai phạm
trọng yếu hơn trường hợp hội đồng thành viên Ban giám đốc soát xét và phê duyệt các
quyết định này. Hơn nữa, việc điều hành và chỉ đạo các hoạt động sai chế độ và quy định
pháp luật dễ xảy ra do sự thay đổi thành phần Ban quản lý cũng như sự thiếu kinh
nghiệm, liêm khiết và hiểu biết của Ban giám đốc xảy ra trong niên độ kế tốn. Do đó dễ
dẫn dến khả năng tồn tại các sai phạm đối với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Ngoài ra,
KTV cũng cần xem xét đến trường hợp có những người trung thực, không chấp nhận các
gian lận xảy ra trong doanh nghiệp nên tự nguyện từ chức khi có nhiều sự thay đổi trong
nhân sự trong Ban giám đốc, và khi đó rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá cao hơn.
Thứ hai, trình độ và chun mơn của kế tốn trưởng, của các nhân viên kế toán,
của KTV nội bộ và sự thay đổi của họ. Cơng tác kế tốn của đơn vị, sự ghi chép và kiểm
tra kế toán và tính chính xác của thơng tin tài chính được ghi chép và trình bày trên
BCTC có liên quan mật thiết đến trình độ của họ. Nếu có sự thay đổi nhân sự ở các vị trí
này bằng những người mới chưa có nhiều kinh nghiệm thì khả năng cao sẽ dẫn đến sai
sót. KTV cần đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao hơn trong những trường hợp như này.
Thứ ba, những áp lực bất thường đối với Ban giám đốc và kế toán trưởng, đặc biệt
là trong những hồn cảnh thúc đẩy phải trình bày BCTC thiếu trung thực. Ví dụ như
doanh nghiệp thường dễ làm giả BCTC để làm tình hình tài chính của doanh nghiệp có vẻ
khả quan như khơng ghi các khoản chi phí hay ghi nhận những khoản doanh thu thực tế
chưa xảy ra khi doanh nghiệp đang rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính và cần phải
kêu gọi vốn góp của các cổ đông để bổ sung thêm nguồn vốn.
Thứ tư, đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp như: quy trình cơng nghệ, các đơn
vị phụ thuộc, cơ cấu vốn, phạm vi địa lý. Chẳng hạn, hàng hóa của một doanh nghiệp
được sản xuất ra có khả năng cao bị lỗi thời và khó tiêu thụdo có máy móc và cơng nghệ
lạc hậu, có thể ảnh hưởng đến giá trị thuần của HTK được trình bày trên BCTC. Một
doanh nghiệp sẽ có nhiều khả năng có rủi ro tiềm tàng trong việc trình bày các chỉ tiêu có
liên quan đến khả năng thanh toán khi doanh nghiệp đó phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn
đi vay. Khả năng sai sót trong khâu tổng hợp sẽ tăng nếu một đơn vị có nhiều đơn vị phụ
thuộc, đơn vị có quy mơ lớn sẽ gặp nhiều sai sót hơn đơn vị có quy mơ nhỏ.
Thứ năm, các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp như:
các biến động về kinh tế, sự thay đổi về thị trường mua và bán và sự thay đổi của hệ
thống kế toán đối với lĩnh vự hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ sáu, hợp đồng kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm tốn dài hạn.KTV thường
có ít kinh nghiệm và hiểu biết về các sai sót của doanh nghiệptrong các hợp đồng kiểm
toán lần đầu nên họ thường đánh giá rủi ro tiềm tàng cao hơn so với hợp đồng kiểm toán
những lần sau.
Hai là, đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp
vụ
Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ phụ
thuộc vào các yếu tố sau: tính chất các khoản mục, loại nghiệp vụ dựa trên sự hiểu biết
của KTV, mức độ rủi ro tiềm tàng đã được đánh giá đối với toàn bộ BCTC và các nhân tố
tác động tới rủi ro tiềm tàng trên số dư tài khoản, bao gồm các nhân tố sau:
Thứ nhất, bản chất kinh doanh của đơn vị khách hàng. Do tồn tại những khoản
không chắc chắn hoặc khả năng tồn tại một cách tiềm tàng những gian lận hoặc sai sót
trên BCTC nên những đặc thù của ngành nghề kinh doanh mà nó có thể tạo nên những
khó khăn cho kiểm tốn khiến cho rủi ro tiềm tàng bị tăng lên. Ví dụ như, rủi ro trong
việc quản lý tiền mặt và các phương tiện thanh toán tăng khi đơn vị kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ tín dụng, do đó việc kiểm tốn vốn bằng tiền sẽ gặp trở ngại hơn đối với đơn
vị sản xuất thông thường.
Thứ hai, kết quả của những lần kiểm toán trước. Rủi ro tiềm tàng được xác định
cao đối với những tài khoản được phát hiện những sai phạm trong những lần kiểm toán
năm trước. Lý do cho điều này là tính hệ thống của các sai phạm và các đơn vị thường
chưa kịp tiến hành các biện pháp sửa chữa nên sai phạm vẫn lặp lại ở những năm sau.
Thứ ba, các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên.Do việc đơn vị khách hàng có
ít kinh nghiệm trong việc hạch tốn các nghiệp vụ nêncác nghiệp vụ này thường được
vào sổ sai nhiều hơn so với các nghiệp vụ diễn ra hằng ngày, vì vậy rủi ro tiềm tàng của
các tài khoản chứa nghiệp vụ này được đánh giá cao.
Thứ tư, các ước tính kế tốn. Do việc vào sổ đúng đắn những tài khoản phản ánh
ước tính kế tốn khơng chỉ đòi hỏi sự hiểu biết về bản chất của khoản mục, về lý thuyết
có mỗi quan hệ chặt chẽ mà còn cả sự phán xét chủ quan và kinh nghiệm của người có
trách nhiệm nên rủi ro tiềm tàng của các tài khoản này thường được đánh giá cao.
Thứ năm, quy mô của các số dư tài khoản. Rủi ro tiềm tàng của các tài khoản có
số dư bằng tiền lớn sẽ được đánh giá cao hơn so với tài khoản có số dư bằng tiền nhỏ.
1.2.3. Đánh giá rủi ro kiểm soát (CR)
Đánh giá rủi ro kiểm soát là một bước trong quá trình đánh giá hệ thống kiểm sốt
nội bộ của khách hàng. Có 3 bước trong q trình đánh giá rủi ro kiểm sốt: đánh giá ban
đầu về rủi ro kiểm soát, thực hiện thử nghiệm kiểm soát và đánh giá về rủi ro kiểm soát.
KTV phải thực hiện đầy đủ các bước công việc như quá trình đánh giá hệ thống kiểm
sốt nội bộ để q trình đánh giá rủi ro được xác đáng.
Bước 1: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
400, mục 27 ghi: “ Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát là việc đánh giá hiệu quả của hệ
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị trong việc ngăn ngừa hoặc phát
hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm sốt thường khơng hồn tồn được
loại trừ do sự hạn chế của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ”.
KTV phải thu thập thơng tin về hệ thống kiểm sốt nội bộ của đơn vị và mô tả chi
tiết trên giấy tờ làm việc của mình để có thể đưa ra những đánh giá ban đầu về rủi ro
kiểm soát. Nhờ sử dụng phương pháp tiếp cận theo chu trình và phương pháp tiếp cận
theo khoản mục, KTV phải tìm hiểu các thơng tin để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ
trên 3 phương diện: tính liên tục, tính hiện hữu và tính hữu hiệu. KTV sẽ đánh giá ban
đầu về rủi ro kiểm sốt ở mức trung bình hoặc thấpnếu như hệ thống kiểm soát nội bộ của
đơn vị khách hàng thỏa mãn đầy đủ các khía cạnh trên. Để có sự hiểu biết về các thơng
tin, KTV có thể sử dụng các cách thức sau:
-
Dựa trên kinh nghiệm trước của các KTV tiền nhiệm.
Phỏng vấn nhân viên công ty khách hàng.
Xem xét các sổ tay về thủ tục, quy định và chế độ của đơn vị khách hàng.
Kiểm tra chứng từ, sổ sách của đơn vị khách hàng.
Quan sát về hoạt động và quá trình hoạt động của đơn vị khách hàng.
Sau q trình tìm hiểu, KTV phải mơ tả các thông tin trên giấy tờ làm việc thông
qua các bảng tường thuật, bảng câu hỏi hoặc lưu đồ về hệ thống kiểm sốt nội bộđể có cái
nhìn rõ hơn về các thơng tin đó. KTV cần phải kết hợp các phương pháp này để thúc đẩy
hiện quả quá trình nhận thức để đưa ra đánh giá xác đáng.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400, mục 28 ghi: “Dựa trên sự hiểu biết
về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm sốt nội bộ, KTV và cơng ty kiểm toán phải đánh
giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số dư tài khoản hoặc
nghiệp vụ kinh tế chủ yếu”.
Quá trình này yêu cầu KTV phải thực hiện cho từng mục tiêu kiểm tốn chi tiết.
Do đó, KTV phải thực hiện các cơng việc sau:
-
Nhận diện những mục tiêu kiểm sốt mà theo đó q trình đánh giá vận dụng.
Nhân diện những q trình kiểm sốt đặc thù.
Nhận diện và đánh giá các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ.
KTV sẽ dựa vào thông tin đạt được để đề xuất những đánh giá ban đầu về rủi ro
kiểm soát sau khi đã nhận diện được những vấn đề trên. Hướng dẫn về những công việc
này đã được ghi trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400, mục 29 và mục 30.
Bước 2: Thực hiện thử nghiệm kiểm soát. KTV thực hiện thử nghiệm kiểm soát
sau khi đã đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát. Mục tiêu của việc thực hiện thử nghiệm
kiểm sốt nhằm đánh giá tính hữu hiệu của hệ thống kiểm sốt nội bộ, qua đó sẽ giảm bớt
các thử nghiệm cơ bản. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400, mục 33 có ghi:
“KTV phải thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để thu thập đầy đủ bằng chứng về tính
hiệu quả của hệ thống kế tốn và hệ thống kiểm soát nội bộ trên các phương diện:
-
Thiết kế: hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được thiết kế
-
sao cho có đủ khả năng ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu.
Thực hiện: hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và hoạt động một
cách hữu hiệu trong suốt thời kỳ xem xét.”
Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát phải được dựa trên các điều kiện của từng
đơn vị khách hàng cụ thể. KTV thực hiện các thử nghiệm kiểm soát sau:
Thứ nhất, để thu thập BCKT về tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ
thống kế tốn, KTV có thể kiểm tra các chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế và các
nghiệp vụ. Ví dụ, KTV có thể kiểm tra các chứng từ mua bán hàng tồn kho xem có thật
hay khơng.
Thứ hai, KTV phải phỏng vấn và quan sát thực tế để thực hiện chức năng và trách
nhiệm kiểm tốn của người có nhiệm vụ thực thi kiểm soát nội bộ.
Thứ ba, để đảm bảo đơn vị khách hàng thực hiện đúng quy định, KTV phải kiểm
tra việc thực hiện thủ tục kiểm soát nội bộ.
Khi KTV thực hiện các thử nghiệm kiểm sốt, mục tiêu kiểm sốt có thể giữ
ngun nhưng các thủ tục kiểm tốn có thể thay đổi tùy vào việc đơn vị khách hàng có áp
dụng hay khơng áp dụng tin học trong kế toán và hệ thống kiểm sốt nội bộ. KTV có thể
sử dụng kỹ thuật kiểm tốn trên máy tính để thu thập BCKT khi các cơng việc kế tốn và
hệ thống kiểm sốt nội bộ được thực hiện trên vi tính.
Bước 3: Đánh giá lại rủi ro kiểm soát. KTV đánh giá và quyết định mức độ rủi ro
kiểm soát được sử dụng để lập kế hoạch và triển khai các thử nghiệm cơ bản dựa vào kết
quả của việc thực hiện các thử nghiệm kiểm soát.KTV sẽ mở rộng các thử nghiệm kiểm
sốt để chứng tỏ phán đốn của mìnhnếu như những đánh giá ban đầu vể rủi ro kiểm toán
là cao nhưng KTV tin rằng rủi ro kiểm soát thực tế là thấp hơn, khi đó việc đánh giá rủi
ro kiểm toán sẽ giảm xuống.
Sau khi lập bảng đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV sẽ đánh giá lại rủi ro
kiểm soát. Rủi ro kiểm soát được đánh giá lại ở mức thấp nhưng không thể nào bằng 0
khi KTV đánh giá tốt về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng vì KTV khơng
thể hồn tồn tin vào hệ thống kiểm sốt nội bộ của đơn vị khách hàng. KTV phải tăng số
lượng các thử nghiệm cơ bản đối với trường hợp rủi ro kiểm toán được đánh giá ở mức
cao.
1.2.4. Xác định rủi ro phát hiện
Rủi ro phát hiện được xác định từ 3 loại rủi ro: rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ba loại rủi ro này thay đổi tùy theo từng khoản mục vì vậy
rủi ro phát hiện cũng cần được xác định qua từng khoản mục và nó là căn cứ để KTV xác
định lịch trình, nội dung và phạm vi thử nghiệm cơ bản được thực hiện.
Sau khi đã xác định được mức rủi ro kiểm toán mong muốn, đánh giá được rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV tính được rủi ro phát hiện theo cơng thức sau:
DR=
Rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát. Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao thì rủi ro phát hiện
cần được thiết lập ở mức thấp để duy trì rủi ro kiểm tóa ở mức thấp nhất có thể và ngược
lại khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt được xác định ở mức thấp thì có thể chấp nhận
rủi ro phát hiện ở mức cao nhưng vẫn phải đảm bảo rủi ro ở mức thấp để có thể chấp
nhận được.
Dưới đây là bảng thể hiện sự biến động của rủi ro phát hiện theo sự đánh giá của
KTV về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát:
Bảng 1.2 Ma trận rủi ro phát hiện
CR được
KTV
đánh giá
Cao
Trung bình
Thấp
IR được KTV đánh giá
Cao
Trung bình
Thấp
Thấp nhất
Thấp
Trung bình
Thấp
Trung bình
Cao
Trung bình
Cao
Cao nhất
(Giả thiết rủi ro kiểm toán mong muốn đã được KTV xác định trước)
Những đánh giá của KTV về các loại rủi ro kiểm tốn này có thể bị thay đổi trong
q trình kiểm tốn. Trong q trình kiểm tốn, nếu KTV phát hiện ra những thơng tin
mới có điểm khác biệt lớn hơn so với các thông tin ban đầu thì KTV có thể thay đổi kế
hoạch kiểm tốn sao cho phù hợp với việc đưa ra những đánh giá cho rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát.
PHẦN II: THỰC TRẠNG QUI TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TỐN
TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO MỘT SỐ CƠNG TY KIỂM
TỐN ĐỘC LẬP TẠI VIỆT NAM THỰC HIỆN
2.1. Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm tốn báo cáo tài chính tại
cơng ty AASC
2.1.1. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn
Rủi ro kiểm tốn mong muốn được xác định dựa vào 2 khía cạnh cơ bản: độ tin
tưởng của người sử dụng bên ngoài vào BCTC của đơn vị khách hàng và khả năng đơn vị
khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm tốn được cơng bố. Cơng
ty AASC xác định rủi ro kiểm tốn dựa trên các yếu tố sau: quy mô công nợ , quy mô
khách hàng, số lượng người sử dụng BCTC, tốc độ doanh thu, khả năng thanh toán, năng
lực ban quản trị và kinh nghiệm của KTV.
Tuy nhiên, thực tế cho dù thực hiện sơ bộ BCTC nhưng AASC vẫn chưa chú trọng
đến vấn đề xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn. Trong một cuộc kiểm toán, mức
rủi ro kiểm tốn mong muốn này được các cơng ty kiểm tốn thiết lập rất chung chung,
tức là ở mức thấp nhât có thể chấp nhận được. Đối với cơng ty AASC, cơng ty ln ấn
định mức rủi ro kiểm tốn mong muốn cho các cuộc kiểm tốn là thấp để có thể đạt được
độ tin cậy kiểm toán ở mức tối đa nhất (khoảng trên 95%).
2.1.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trong kiểm toán BCTC
Khi đánh giá rủi ro tiềm tàng trong kiểm toán BCTC, AASC đánh giá dựa trên 3
mức độ: cao, trung bình và thấp. Các KTV của AASC sẽ tổng hợp những hiểu biết của
mình về đơn vị khách hàng để có câu trả lời phục vụ cho việc xác định rủi ro tiềm tàng.
KTV có thể đưa ra các câu hỏi để đánh giá là:
1.
2.
3.
4.
Công ty hoạt động trong lĩnh vực nào?
Khách hàng xây dựng cơ cấu tổ chức như nào?
Công ty khách hàng đang áp dụng những chính sách kế tốn như thế nào?
Những thay đổi trong chính sách kế tốn mà khách hàng đang áp dụng là gì?