Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Kỹ thuật chọn lọc và nhân giống gà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.48 KB, 11 trang )

Kỹ thuật chọn lọc và nhân giống gà

Hiện nay, ngoài các giống gà địa phương có từ lâu đời, ở nước ta còn
có rất nhiều giống gà được nhập nội có giá trị. Giống gà công nghiệp
hướng thịt có: USA-30MPK, AA. Cobb. Lohmann meat. Giống gà
công nghiệp hướng trứng có Lerghor; USA brown; Hy line; Brown
Nick; Babcock B380 v.v... Giống gà nuôi thả vườn ưu việt có các
giống Tam Hoàng, Lương Phượng, Kabiir, Sasso, USA-JA-57 v.v...
Chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật chọn và nhân giống đối với các giống
gà trên.
I. Nhân giống gà thuần chủng (áp dụng cho các giống gà thuần)
Nhân giống thuần chủng trong phạm vi một giống đã được áp dụng
hàng chục năm nay trong ngành chăn nuôi. Về phương diện di truyền
đó là sự giao phối giữa những cá thể hoàn toàn giống nhau về các yếu
tố di truyền. Bằng cách nhân giống thuần chủng đã duy trì được tính
đồng nhất của giống trong nhiều thế hệ. Tuy nhiên, để tránh giao phối
cận thân gây hậu quả xấu về mặt di truyền, cần phải ghép những con
giống đã được chọn lọc vào những gia đình gà riêng biệt. Những gia
đình gà này vẫn được tiếp tục theo dõi các chỉ tiêu năng suất sau khi
ghép gia đình. Thông thường mỗi gia đình gà có 1 trống và 10-12 mái.
Ngoài ra, trong mỗi gia đình còn có 1 - 2 trống dự phòng. Các cá thể
trong gia đình đều được đeo số để tiện theo dõi. Lúc gà mới nở ra
được đeo số ở cánh, lớn lên được đeo thêm số ở chân. Trứng của từng
con mái đẻ ra cũng được đánh số và đưa vào ấp trong các khay riêng
biệt. Để tránh nhầm lẫn do gà nhảy ra trong thời gian nở, người ta làm
những khay ấp có chụp đậy. Dựa vào số liệu ghi trên vỏ trứng sẽ biết
được lý lịch của chúng. Sau khi đã được chọn lọc dựa theo một số tình
trạng cơ bản qua các giai đoạn tuổi khác nhau: lúc 1 ngày tuổi, giai
đoạn hậu bị và giai đoạn đẻ, tiến hành đánh giá giá trị giống của từng
cá thể và chọn ghép gia đình để tái sản xuất thế hệ tiếp theo với
nguyên tắc anh em ruột hay anh em cùng bố khác mẹ hoặc cùng mẹ


khác bố không được ghép vào một gia đình mới. Để tránh đồng huyết
trong 4 thế hệ liên tục, cần phải luân chuyển trống mái theo nguyên
tắc sau đây:
Nếu trong quần thể có 20 gia đình (là số gia đình tối thiểu của một
dòng) thì đánh số thứ tự từ 1-20. Con của mỗi gia đình được đeo số
theo số của gia đình đó. Khi ghép gia đình mới ở thế hệ thứ I (F1), thì
ghép trống là con của gia đình thứ nhất với mái là con của gia đình thứ
2 và ký hiệu số gia đình mới là 1/2 (ngầm hiểu tử số 1 là con trống,
mẫu số 2 là con nái). Tiếp tục ghép con trống của gia đình số 2 với
mái của gia đình thứ 3 và gia đình mới này mang ký hiệu 2/3. Cứ tiếp
tục như vậy cho đến gia đình mang ký hiệu 20/1. Sang thế hệ II (F2)
tiến hành ghép gà trống là con của gia đình số 1/2 với mái 1à con của
gia đình số 3/4 ký hiệu gia đình mới này là:
1/2 /3 3/4 20/1
Tiếp tục làm như vậy sẽ có các gia đình mới mang các ký hiệu:
3/4 4/5 5/6 2/3
Theo quy luật đó, đến thế hệ thứ IV vẫn có 20 gia dình thuần chủng
mà sự đồng huyết không xảy ra. Từ thế hệ thứ IV, quá trình ghép phối
được lặp lại như thế hệ thứ 1. Vậy là thế hệ thứ IV của chu kỳ cũ trở
thành thế hệ ban đầu của chu kỳ mới. Trên đây là sơ đồ ghép phối lý
tưởng, nhưng trong thực tế sản xuất đến một thế hệ lào đó trong chu
kỳ, không phải tất cả các gia đình đều được giữ nguyên, mà do một số
gia đình có thể bị chết trong quá trình nuôi hoặc chất lượng giống kém
không được chọn. Vì thế, để tránh đồng huyết cần phải xây dựng 2
vòng ghép phối và như vậy mỗi dòng cần có tối thiểu 40 gia đình gà.
II. Chọn lọc giống gà ông bà
So với các dòng thuần, công tác giống đối với gà ông bà đơn giản hơn.
Việc đánh giá chọn lọc giống đối với các đối tượng này chủ yếu theo
phương pháp chọn lọc quần thể, tức là dựa vào chỉ tiêu năng suất,
ngoại hình của bản thân con giống, mà không tính đến các chỉ tiêu

năng suất bố mẹ, anh chị em ruột và anh chị em họ của chúng.
Chỉ tiêu chọn giống quan trọng nhất đối với gà ông bà là khối lượng
cơ thể và ngoại hình. Một số gà bị loại do một số khuyết tật ngoại hình
hoặc khối lượng không đạt tiêu chuẩn. Có biến dị di truyền về khối
lượng cơ thể trong hầu hết các dòng gà ông bà. Sự biến dị này có thể
ứng dụng trong quá trình chọn lọc gà giống ông bà để phát huy tối ta
tiềm năng di truyền của từng gà con được sinh ra từ những con giống
này. Mặc dù tiến bộ di truyền đạt được do chọn lọc đối với mỗi cá thể
chưa nhiều, nhưng lợi ích kinh tế tổng thể thu được từ tất cả đàn gà
sản xuất ra là đáng kể.
Trên đây là nguyên tắc ghép gia đình được áp dụng cho các cơ sở chăn
nuôi gà thuần chủng có quy mô lớn. Đối với các hộ gia đình chăn nuôi
có quy mô nhỏ, tự sản xuất con giống thì phương pháp tốt nhất để
tránh đồng huyết là nhân giống theo nhóm. Theo đó, ngay từ thế hệ
đầu tiên (thế hệ xuất phát) đàn gà giống được nuôi tách thành 4 nhóm
riêng biệt. Khi tiến hành chọn ghép gia đình phải ghép trống của nhóm
I với mái của nhóm II; trống nhóm II ghép với mái của nhóm III; trống
nhóm III ghép với mái nhóm IV và cuối cùng trống nhóm IV với mái
nhóm I. ở thế hệ tiếp theo cũng luân chuyển trống theo quy luật trên,
sao cho trống và mái được ghép với nhau không cùng một nhóm.
Khi chăn nuôi gà tài nông hộ, điều cần tránh là không sử dụng con
trống hoặc con mái là con được sinh ra từ một con mái hoặc trống để
ghép với chính bố mẹ chúng. Nếu muốn sử dụng gà mái đẻ trong 2-3
năm đẻ thì cách tốt nhất là thay thế con trống đã sử dụng phối giống ở
thế hệ trước đó bằng cách mua gà trống từ nơi khác và sau khi đàn con
sinh ra nuôi đến tuổi thành thục sinh dục (tuổi biết đạp mái) phải loại
bán hết con trống, nhằm tránh sự phối giống giữa anh chị em với nhau.
1. Chọn gà con 1 ngày tuổi.
- Gà con mang từ máy nở ra phải để riêng theo từng dòng trống và
dòng mái và chọn tách trống mái theo yêu cầu đối với mỗi giống.

- Cân 10% số gà nở ra để xác định khối lượng bình quân của từng
dòng. Chọn những cá thể có khối lượng xấp xỉ khối lượng sơ sinh
trung bình của từng dòng.
- Chọn những cá thể có ngoại hình chuẩn: thân hình cân đối, không dị
tật, lông bông tơi xốp, bụng thon nhỏ, không hở rốn, mắt tinh nhanh,
mỏ và chân cứng cáp sáng bóng, dáng đi nhanh, khoẻ. Loại bỏ những
cá thể có khác biệt so với một trong những đặc điểm nêu trên như: mỏ
vẹo, bắt chéo hoặc khác thường; mắt kém, đồng tử méo; cổ vẹo; lưng
cong; không có phao câu; không có đuôi; xương lưỡi hái bị vẹo, ngắn,
dị dạng hoặc trồi ra ngoài; ngón chân và bàn chân cong, bàn chân
sưng hoặc bị nhiễm khuẩn, trẹo đầu gối, ngực bị phồng lên, cơ ngực
kém phát triển hoặc phát triển không bình thường so với cá thể khác;
bộ lông không tơi xốp hoặc bị ướt dính.
- Gà con sau khi được chọn cho vào hộp và phải để riêng theo từng
dòng, mỗi hộp đựng 100 con.
- Chuyển gà con xuống chuồng nuôi theo từng dòng với cơ cấu đàn
như sau: so với gà bà ngoại thì số lượng gà bà nội chiếm tỷ lệ 30%, gà
ông ngoại chiếm 20%. Còn gà ông nội chiếm 19% so với gà bà nội.
- Mỗi ô chuồng nuôi không quá 300 con (nếu nuôi nền), nuôi tách
riêng trống, mái từ lúc 1 ngày tuổi đến lúc 19-20 tuần tuổi.
2- Chọn gà lúc 21 ngày tuổi hoặc 42 ngày tuổi (ngày tuổi chọn lọc
tuỳ thuộc từng giống, dòng).
- Trước khi chọn giống cần phải kiểm kê chính xác số gà còn lại của
từng dòng.
- Xác định quy mô đàn giống dự kiến (số gà mái đầu kỳ của cả dòng
mái và dòng trống ông bà).
- Đối với gà bà ngoại: chỉ loại những cá thể có khuyết tật, ốm yếu, kể
cả những gà trống bị lẫn. Thường giữ lại 95 - 97% số gà so với đầu kỳ.
- Đối với gà ông ngoại: sau khi loại những cá thể có khuyết tật, ốm
yếu, chỉ giữ lại những con nặng cân nhất để làm giống; số lượng trống

giữ lại thường là 60 -65% so với đầu kỳ.
- Đối với gà bà nội: cũng chỉ loại những cá thể có khuyết tật về ngoại
hình và thể chất, kể cả trống bị lẫn mái. Thường giữ lại 94 - 95% so
với đầu kỳ
- Đối với gà ông nội: sau khi loại những cá thể bị khuyết tật, ốm yếu,
cũng chỉ giữ lại những con nặng cân nhất, khoẻ nhất để làm giống.
Giữ lại 15% so với gà bà nội.
- Những khuyết tật của các cá thể được biểu hiện bằng 1 trong những
đặc điểm sau: mỏ vẹo, mắt kém, đồng tử méo, cổ vẹo, lưng cong vẹo,
xương lưỡi hái bị vẹo, ngắn, dị dạng, đi bằng đầu gối, khoèo chân, hở
rốn, ngón chân bị cong, sưng bàn chân, lông phát triển kém.
- Công việc chọn lọc được tiến hành như sau:
+ Nếu đàn gà vào chọn được nuôi trong nhiều ô chuồng thì chọn theo
từng ô độc lập. Mục tiêu là giữ lại những cá thể tốt nhất của từng ô
chuồng.
+ Xác định khối lượng cơ thể trung bình của từng ô chuồng bằng
cách cân chọn mẫu từ 10-20% số gà có mặt trong từng ô chuồng,
sau đó tiến hành cân từng cá thể. Căn cứ vào khối lượng sống trung
bình của từng mẫu, ngoại hình và số gà cần chọn của từng ô, mà
quyết định giữ lại những cá thể nào làm giống.
3- Chọn gà lúc 19 - 20 tuần tuổi.
- Trước khi đàn gà được chuyển lên chuồng gà đẻ để ghép trống mái,
cần tiến hành chọn lọc lần thứ 3
- Các tính trạng được chọn lọc trong giai đoạn này chủ yếu là ngoại
hình và thể chất.
- Đối với 2 dòng trống: chọn những cá thể có khối lượng, đạt khối
lượng chuẩn, khoẻ mạnh nhanh nhẹn, bộ lông phát triển, màu và tích
tai to màu đỏ tươi, hai chân chắc chắn cân đối, không dị tật về ngón,
dáng đứng tạo với mặt nền chuồng một góc 45
0

. Loại bỏ những cá thể
quá gầy, bị dị tật về ngoại hình. Tỷ lệ trống được giữ lại 12 - 13% so
với dòng mái. Sau đó sẽ loại thải dần trong quá trình khai thác trứng
giống để đạt tỷ lệ trống so với mái khoảng 9-10%.
- Đối với 2 dòng mái: giữ lại những cá thể có khối lượng sống đạt xấp
xỉ trung bình của đàn, bộ lông bóng mượt, mào và tích tai phát triển
màu đỏ tươi, mỏ và 2 chân chắc chắn cân đối, khoảng cách xương
chậu và mỏm xương lưỡi hái rộng, bụng mềm, lỗ huyệt rộng cử động.
Loại bỏ những cá thể quá gầy yếu, có dị tật về ngoại hình (xem bảng
1)
4. Chọn lọc giai đoạn gà đẻ

×