Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tải Phân tích bài thơ Mới ra tù, tập leo núi - Bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.01 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích bài thơ Mới ra tù, tập leo núi (Tân xuất ngục, học đăng</b>
<b>sơn) Ngữ văn 11</b>


<b>Bài làm</b>


Là một con người thì quyền tối thiểu là được sống và được tự do, thế nhưng
trong với một số người thì họ lại bị tước đi quyền tự do một cách vơ lý. Đó là
Bác Hồ- vị cha già đã dành cả cuộc đời để đấu tranh giành lại độc lập tự do cho
dân tộc, Người phải chịu những ngày tháng bỏ tù khổ sở, chịu đói chịu lạnh
đến thấu xương. Thế nhưng càng khó khăn gian khổ, sự tự do của Bác càng bị
vùi dập thì Người lại càng ung dung khơng chút nao núng. Thật vậy dù sống
trong lao ngục gơng kìm Bác vẫn cho ra đời những áng thơ văn với ý chí, tinh
thần bất khuất đến không tưởng. Hơn thế nữa trong Bác vẫn sáng ngời niềm tin
nghị lực sống, lòng yêu thiên nhiên đến vô hạn. Thật vậy, khung cảnh thiên
nhiên tươi đẹp cùng với bao tâm sự của Bác đã được gửi gắm qua tác phẩm
"Mới ra tù, tập leo núi" được viết khi Người mới thoát khỏi mười bốn tháng bị
giam tại nhà tù Tưởng Giới Thạch.


Nhắc đến Bác là nhắc đến một con người vĩ đại tự đặt trên vai mình trọng trách
to lớn của cả dân tộc, nhưng nhắc đến Bác cũng là nhắc đến một nhà thơ lớn
với kho tàng thơ văn đồ sộ ẩn chứa bao tư tưởng nhân văn cùng với tinh thần
bất khuất, lịng u thiên nhiên vơ hạn. Bị cầm tù hơn một năm trời dài đằng
đẵng bởi vậy dù có tinh thần thép đến đâu đi chăng nữa thì Bác cũng không
tránh khỏi đôi lúc thấy cô đơn, đôi khi thèm khát được trở về quê hương yêu
dấu. Thật vậy khi vừa thốt khỏi cảnh gơng cùm Bác lại ngay lập tức đắm chìm
vào thiên nhiên, hịa mình vào thưởng thức dư vị đất trời.


<i>"Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân</i>


<i>Giang tâm như kính tịnh vơ trần"</i>



Dịch:


<i>"Núi ấp ơm mây, mây ấp núi</i>


<i>Lịng sơng gương sáng bụi khơng mờ"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

trắng phủ quanh, đó là một sự thật hiển nhiên. Thế nhưng dưới con mắt của
một kẻ si tình, một người hết lịng u thiên nhiên thì cái sự thật tầm thường đó
lại trở nên có hồn đến lạ. Mây và núi cũng biết gắn bó với nhau như những con
người vậy, chúng ôm ấp nhau với những cái ôm thật chặt đầy ấm áp. Tầm nhìn
của Bác thay đổi từ cao xa trở về gần và thấp hơn. Trong đôi mắt Người lúc ấy
hiện lên khung cảnh mê hoặc đầy cuốn hút của dịng sơng. Có lẽ cảnh vật đang
phơ ra vẻ đẹp huyền bí nhất của nó để quyến rũ người chiến sĩ cách mạng vừa
được trả lại tự do ít lâu trước đó. Dịng sơng mang một vẻ đẹp dịu dàng trong
suốt như một chiếc gương khổng lồ đang phản chiếu vạn vật xung quanh. Vẻ
đẹp của dịng sơng như gột rửa tâm hồn con người, sự thuần khiết ấy như tấm
lòng của Bác, một lòng vẫn luôn hướng về Đảng về dân.


Sau những giây phút đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên thì dường như Bác
cũng bị cảnh vật tác động lại, những tâm sự cùng bao ưu tư của một người lính
bấy lâu nay bị tách khỏi đồng bào, đồng chí dội về từ tiềm thức một cách dữ
dội:


<i>"Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh</i>


<i>Dao vọng Nam thiên ức cố nhân"</i>


Dịch:


<i>"Bồi hồi dạo trước Tây Phong lĩnh</i>



<i>Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa."</i>


Âm điệu của bài thơ biến đổi trở nên trầm lắng, thiết tha. Sau giây phút say
đắm với thiên nhiên thì nay đứng một mình trước cái thiên nhiên rộng lớn ấy
Bác lại thấy cô quạnh, nhỏ bé hơn bởi nỗi nhớ bạn, nhớ đồng bào đồng chí mà
mình đã từng gắn bó. Cảm xúc của Người giờ đây có vui, có buồn đan xen khó
tả, bao thứ xúc cảm ấy khiến Người thêm bồn chồn bởi nỗi nhớ nhà, niềm khao
khát được trở về quê hương yêu dấu của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hoàng của dân tộc. Chiến thắng đang vẫy gọi và Người sẽ khơng chùn bước, đó
sẽ là động lực để Bác cùng với nhân dân phá tan xiềng xích nơ lệ, khai sinh ra
một nước Việt Nam hồn tồn dân chủ và đầy tự do, no ấm cho chúng ta sau
này.


<b>Bài làm 2</b>


Nhật kí trong tù! Tập thơ của một bậc đại trí đã biến cái dũng thành sức mạnh
trào lộng trong gian nguy:


“Rồng quấn vòng quanh chân với tay


Trông như quan võ quấn tua vai


Tua vai quan võ bằng kim tuyến


Tua của ta bằng một sợi gai…”


Nhưng khi vừa được tự do, Bác đã làm bài thơ Tân xuất ngục học đăng sơn
(Mới ra tù tập leo núi) để khép lại cuốn nhật kí suốt “mười bốn trăng tê tái


gông cùm”.


Câu phá đề của bài tứ tuyệt này như hé một cánh cửa, cho trời mây ngập vào
hồn người đọc:


“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi”


Nhưng người chẳng làm thơ dễ dãi như vươn tay mở then cửa đâu. Để có câu
thơ này, ta cũng đã hiểu rằng Bác đã trãi qua những ngày gian khổ, không được
đi lại trong bốn bức tường của bọn Tưởng Giới Thạch:


“Nghỉ lâu chânn tựa bông mềm nhũn


Đi thử hôm nay muốn ngã quay…”


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

tranh thần kì đã được vẽ nên với những tính chất vơ cùng tương phản: tính tĩnh
và động, tính thực và ảo của núi và mây. Thế mà chúng lại quyện chặt vào
nhau:


Núi ấp ôm mây, mây ấp núi.


(Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân).


Nghệ thuật điệp từ, đảo từ đã đuojcw sử dụng thật tài tình để khắc họa thêm rõ
bức tranh huyền ảo đầy thơ mộng ấy theo nguyên bản. Toàn câu thơ gồm có
bảy tiếng , nhưng năm tiếng đã dành để tảo núi và mây. Từ ủng lập lại hai lần,
dịch ra là “ấp, ôm” lại càng diễn tả nét duyên dáng, đằm thắm hữu tình của bức
trannh thiên nhiên khơng có bốn đường khung giới hạn. Vang! Người họa sĩ
nào cũng vẽ tranh trên một cái khung có bốn cạnh, nhưng bức tranh của Bác là
bức tranh tâm trạng của một con người vừa trải qua: “mười bốn trăng tê tái


gông cùm”, suốt đời khát vọng tự do. Không phải tự do chỉ cho riêng mình, mà
là tự do cho cả một dân tộc. Niềm khát khao tự do này làm sao có thể là một
bức tranh bị giới hạn bởi một cái khung có bốn cạnh?


Trong thơ cổ, hình tượng nhân vật trữ tình “đăng cao, đăng sơn hay thương
lâu” để một mình đứng trước vũ trụ, đối diện đàm tâm với nhật nguyệt càn
khôn. Nhưng ở lúc này, Bác đã: “đối diện đàm tâm” chỉ với mây núi cao vời,
mà mắt vẫn khơng rời mảnh đất, dịng sơng. Phải chăng khi lên cao, đi xa… ta
lại càng nhớ về mặt đất. Mặt đất dưới kia với biết bao đường nét: này cỏ hoa,
nọ núi rừng, và kia… nhà cửa… Bà huyện Thanh Quan khi dừng chân ở đèo
ngang, nhìn xuống xa xôi đã đặc tả:


Lom khom dưới núi tiều vài chú


Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.


Ở đây, Bác khơng bất kì một sắc lá, một ngơi nhà nào vào thơ ngoại trừ một:


“Lịng sơng gương sáng, bụi khơng mờ”.


Gương sáng – đó là dịng sơng phẳng lặng khơng một gợn sóng, chói lịa như
một tấm gương khơng một hạt bụi vấy nhòa. Nếu đọc vào nguyên tác:


“Giang tâm như kính tĩnh vơ trần”


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

trong sáng của Người. Tấm lịng thủy chung với lí tưởng cách mạng, thủy
chung với dân tộc Lạc Hồng. Tấm lòng sắc son của một con người bôn ba biển
năm châu để cuối cùng đi tìm lại dấu chân Lênin trên tuyết lạnh nước Nga,
ln xem mọi hình phạt của ngục tù kẻ thù như những hạt bụi dơ bẩn.



Tóm lại, nửa bài thơ dành trọn cho việc khắc họa một bức tranh thiên nhiên
hùng vĩ và nên thơ với chập chùng núi, chập chùng mây trên dịng sơng sáng
rực. Tồn cảnh tạo cho người đọc tưởng tuộngw ra một bức tranh bao la vơ tận
và rữ rỡ ngời ngời. Đó chính là tình u thiên nhiên mãnh liệt. Đó cũng là khát
vọng tự do khôn cùng của Người – người lãnh tụ tơn kính của dân tộc Việt
Nam.


Nhưng thiên nhiên trong thơ bác khơng phải là những “mây, gió, trăng, hoa,
tuyết, núi, sơng” để người thi sĩ trốn vào đó, chẳng dám tung mình ra biển đời
mênh mơng sóng gió. Trong thơ Bác ln đồng thời có phong thái cổ thi của
một thi nhân trầm mặc hòa quyện với tấm lòng của người lãnh tụ ln nung
nấu tâm can vì dân, vì nướ. Chính vì thế, nửa sau bài thơ lại là một bức tranh
nội tâm rạo rực.


“Bồi hội dạo bước Tây Phong lĩnh”


Đến đây ta không thấy mắt sáng ngời của Bác quay nhìn bốn phương mây núi,
ta cũng khơng thấy Bác thanh thản lặng yên nhìn xuống dịng sơng loang
thống ánh gương. Và lại hiện ra với dáng đi nôn nao của một người vứa sung
sướng trong tự do, vừa canh cánh bên lòng niềm mơ ước “hai tay xây dựng một
sơn hà”. Hai từ “bồi hồi” càng cho ta hiểu thấu tâm trạng vừa vui mừng của
một cánh chim xen lẫn với nỗi nhớ nhưng giữa bầu trời to rộng mà quê hương
thì cịn q xa xơi. Bốn phương mênh mơng, chim trời có thể tung bay rồi đấy,
nhưng Tây Phong Lĩnh vẫn là Tây Phông Lĩnh ở tận Trung Hoa, đâu phải là
Hồng Lĩnh hay Pác Pó Việt nam. Một mình dạo bướ trên ngọn núi chót vót,
lịng bồi hồi giữa vui mừng và nôn nao, Bác lại hướng về một góc trời:


“Trơng lại trời Nam, nhớ bạn xưa”.


Bài thơ mở ra với cảnh trời mây Trung Quốc mênh mông. Và đến dây khép lại


với cảnh “ trời Nam” thương nhớ và ánh mắt trông mong vời vợi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Khi “ thân thể ở trong lao” tâm hồn Bác đã ở ngồi lao thì khi ở Tây Phong
lĩnh, hồn bác đã về trời Nam với đất cũ, bạn xưa. Đó hẳn là một điều rất dĩ
nhiên nơi tâm hồn của một người suốt đời vì dân tộc, suốt đời vì cách mạng.


Nhớ bạn ! Đó là bạn bè – đó cũng là những đồng chí, là Đảng từng sát vau bên
Bác. Nhưng có phải suốt 14 tháng ngục tù, khi được tự do, Bác mới nhớ đến
bạn không? Không ! một mùa găth, một luống cày chợt nhìn thấy trên đuongfw
bị giải đến nhà giam mới cũng đã gợi nhớ trong Bác.


“Ngày đi… Bạn tiễn đến bên sông


Hẹn bạn về khi lúa đỏ bông


Nay gặt đã xong, cày đã khắp


Quê người tôi vẫn chốn lao lung…”


Cùng một tâm trạng “nhớ bạn” nhưng có giống nhau chăng? Khi chưa được tự
do, nỗi nhớ nhung bạn bè đồng chí của Bác gắn liền với lòng ray rứt trễ hẹn,
thất hẹn, với nỗi buồn âm thầm.


“Quê người tôi vẫn chốn lao lung”


Nhưng ở bài thơ này, nỗi nhớ thương gắn liền với bầu trời nước Việt: “Vọng
Nam thiên/Ức cố nhân” đã trở thành hai về đối thật hoàn chỉnh. Nỗi nhớ
thương ở đây đã thoát khỏi nỗi buồn rầu. Mà… nhớ nhung ở đây là nổi nhớ chờ
ngày họp mặt để cùng nhau sát cánh, lái con thuyền cách mạng sớm đến bến bờ
chiến thắng.



Nửa bài thơ sau đã đuojcw đúc kết với các từ “bồi hồi”, “trông nhớ…” diễn tả
tâm trạng của bác khi vừa ra tù. Ôi… dường như Người quên rằng có những
khi:


“Răng rụng mất một chiếc


Tóc bạc thêm mấy phần


Gầy đen như quỷ đói


Ghẻ lở mọc đầy thân…”


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Thật chẳng ngạc nhiên khi Tố Hữu nói rằng bác là một dịng sơnng, mà dịng
sơng thì chẳng bao giờ dừng lại:


Chỉ biết qn mình, cho tất cả


Như dịng sơng chảy nặng phù sa.


Nếu nói đến thói quen của các nhà thơ cổ khi “đăng cao” hẳn chúng ta khơng
qn bài Hồng Hạc Lâu:


Hạt vàng bay mất từ xưa


Ngàn năm mây trắng bây giờ cịn bay…


Thì trong thơ Bác vẫn có cái phong cách cổ điển với mây cao vút, với quê
hương xa xăm… nhưng trong bài tứ tuyệt của bác lại có hình ảnh rất cụ thể, rất
Việt Nam và rất hiện đại, đó chính là câu kết:



Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.


Câu kết này đã chấm dứt một bài thơ “đăng sơn” của Người. Một cái “kết” rất
mới mẻ so với các bài thất ngôn xưa nhưng rất thường thấy và rất dễ hiểu ở thơ
Người.


Thưởng thức văn học không thể tách rời hồn cảnh sáng tác và hình thức phổ
biến của một tác phẩm. Đặc biệt là với bài thơ này. Ai trong chúng ta mà không
thấy thú vị và nể phục Bác khi được nghe kể rằng sau khi sáng tác Bác đã chép
nguyên văn bài thơ này lên một tờ nhật báo Trung Quốc, khơng kí tên và gởi về
đất Việt. Tờ báo đã tránh khỏi bao nhiêu con mắt của bọn mật thám và lọt vào
tay các đồng chí cách mạng… Và… Dưới những câu thơ tả cảnh, tả hình lấp
lánh giương và lịng thương nhớ… thì… một bức mật thư đã hiện ra trong trí
mọi người:


Địch ở giữa ta… ta giữa địch


Lòng Bác sắc son, chẳng chuyển dịch.


Một mình bồi hơi Tây Phong Lĩnh


Trơng về nước Nam, chờ thân thích…


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

ái chí nhân – đồng thời lại là nhà thơ lỗi lạc. Tất cả hào khí anh hùng và tất cả
tinh hoa văn hóa của bốn ngàn năm văn hiến đã hun đúc nên Người, rọi ánh
sáng vào bài thơ lóng lánh nhiều góc cạnh này.


</div>

<!--links-->

×