Mới ra tù tập leo núi
Hồ Chí Minh
Phiên âm :
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính tònh vô trần;
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lónh;
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
Dòch thơ :
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ;
Bồi hồi dạo bước Tây Phong lónh,
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.
“ Mới ra tù tập leo núi ” ghi lại cảm hứng của Bác Hồ khi lần đầu tiên đặt chân được lên
đỉnh Tây Phong Lónh, sau một thời gian kiên trì, vất vả tập leo núi, khi đã được ra tù sau
“mười bốn trăng tê tái gông cùm”. Cảm giác cao vời vợi có thể thấy ở ngay dòng đầu của
bài thơ, dựng ra trước mắt chúng ta một xứ sở mênh mông của mây và núi. Chẳng phải
ngẫu nhiên nhà thơ để hai chữ “vân” và “sơn” xuất hiện đến hai lần trong một dòng thơ,
chiếm quá nửa số chữ trong câu thơ đầu tiên. Hai chữ “vân” ở hai đầu và hai chữ “sơn” ở
hai bên ranh giới của nhòp thơ. Tiếc là bản dòch thơ đã để sót mất chữ “trùng” khiến câu thơ
dòch đã không lột tả được sự trùng điệp, bao la của một không gian đầy mây núi. Nhưng núi
và mây trong dòng thơ vẫn được nhìn theo một cách rất đặc trưng cho cái nhìn thiên nhiên
của Bác. Chẳng phải tình cờ mà trong câu, Bác dùng đến hai chữ “ủng” để nối giữa các chữ
“sơn” và “vân”, nhằm tạo ra một sự hoà điệu, quấn quýt giữa mây và núi trên cả hai chiều,
không chỉ “núi ấp ôm mây” mà có cả “mây ôm núi”.
Nếu như ở câu thơ thứ nhất nói đến “sơn” thì ở câu thơ thứ hai ta bắt gặp hình ảnh của
“thuỷ- nước”, để tác giả làm nên trọn vẹn một bức tranh sơn thuỷ, có đủ cả “nước trí” với
“non nhân”. Nhưng trong cách diễn đạt của nhà thơ,hình ảnh của dòng sông được nhìn thấy
từ một điểm nhìn vời vợi cao ở tận đỉnh non Tây Phong.Phải từ rất cao và xa như thế mới
thấy con sông ấy như là gương phẳng. Cảm giác ấy càng tăng lên khi nhà thơ không viết
“dòng sông” mà viết “lòng sông”. Bởi nếu câu thơ thứ nhất gợi ra cảm giác về chiều cao thì
câu thơ thứ hai đem đến ấn tượng về một chiều sâu thăm thẳm. Và ở giữa cái rất cao và rất
sâu ấy như man mác một khoảng hư không, làm nên nét thần tình nhất trong bức tranh thuỷ
mặc được vẽ theo lối truyền thống của phương Đông. Nhưng dòng thơ thứ hai không chỉ có
“giang tâm như kính” mà còn có thêm ba chữ “tònh vô trần”, không phải “bụi không mờ” mà
là không một chút bụi, tuyệt nhiên không có như ta có thể cảm nhận trong một bản dòch
khác :
Lòng sông sạch chẳng mảy may bụi hồng
Ai đã ít nhiều quen biết với thơ cổ thì có thể hiểu chữ “trần” không chỉ hoàn toàn là bụi bặm
theo nghóa đen mà còn để ẩn dụ với những gì không cao cả, thanh khiết. Và như thế những
chữ cuối cùng đã làm cho phong cảnh bỗng như thanh cao, lâng lâng thoát tục và khiến
những câu thơ gợi ra một cảnh vật giống như xứ sở của những bậc tao nhân mặc khách,
đạo cốt tiên phong.
Như thường thấy trong những bài thơ tứ tuyệt, từ câu thứ ba của bài thơ “Mới ra tù tập leo
núi” sẽ hiện lên một cách trực tiếp hình ảnh con người- nhân vật trữ tình. Chúng ta sẽ gặp
trong dòng thơ một con người đang một mình rảo bước trên đỉnh Tây Phong, dưới mây trời :
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lónh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
Người đọc dễ hình dung ra phong thái của một tiên ông đang đi trong xứ sở của mình, thế
giới của mình, một thế giới lâng lâng chẳng bợn chút trần ai. Người ấy đang đi trong xứ tiên
của riêng mình, vì thế chữ “độc bộ” gợi ra sự cô đơn, nỗi cô đơn mà người đọc có thể thấy
trong bài “Qua đèo ngang” :
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Nhưng Bà Huyện Thanh Quan khi xưa thấy cô đơn vì “trời non nước” ở ngoài mình, không
phải của mình và chỉ có “ta với ta”. Còn đối với Bác Hồ, chữ “độc bộ” chỉ gợi ra một phong
thái ung dung tự tại, một con người tiêu dao trong khoảng không gian rộng lớn, tự do, không
bò ai cản trở, câu thúc. Bởi vậy, nếu muốn đi tìm một chất “tiên phong đạo cốt” trong thơ
Bác, câu thơ vẫn thường được nghó đến nhiều nhất là dòng thơ thứ ba của bài “ Mới ra tù
tập leo núi”
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lónh
Nhưng ngay cả trong dòng thơ này, Bác Hồ cũng không chỉ là, không hoàn toàn là một tiên
ông, một con người thoát tục. Bởi ngay ở đầu câu thứ ba, chúng ta đã bắt gặp hai chữ “bồi
hồi”. Và như thế, nhân vật trữ tình trong câu thơ vẫn còn mang trong lòng một niềm tâm tư,
và tình cảm đã làm xao xuyến trái tim con người ấy sẽ được giãi bày trong câu thơ cuối
cùng của bài thơ. Trước hết đó là một nỗi nhớ nhung, một tình yêu Tổ Quốc của một con
người khi vừa ra tù đã hướng cái nhìn đầu tiên của mình về phương trời có đất nước. Câu
thơ gợi cho người ta nghó đến một tứ thơ cổ :
Ngựa Hồ hí gió Bắc
Chim Việt đậu cành Nam.
“Hồ” ý chỉ phương bắc, còn “Việt” ý chỉ phương nam. Ngựa Hồ bò bắt vào Trung Nguyên, khi
gặp cơn gió Bắc thì hí lên vì nhớ quê hương. Chim Việt vì một lý do nào đó mà phải bay về
Trung Quốc thì vẫn chọn một cành cây nào đó hướng về phía nam để đậu. Và như thế, đến
một con vật còn khôn nguôi nỗi nhớ thương cội nguồn, thì con người há làm sao không khỏi
đau đáu hướng về cố quốc ? Nhưng câu thơ không chỉ nói đến tình yêu đất nước, bởi ở cuối
câu, nhà thơ còn hạ xuống ba chữ “ức cố nhân”. Tình cảm của nhà thơ còn được dành cho
những con người. Ai cũng hiểu đó là những người bạn chiến đấu mà Bác đã xa cách suốt
mười bốn tháng đoạ đày, mười bốn trăng tê tái. Với nỗi đau tột cùng đủ để cho khoảng thời
gian ấy trở nên xa xôi, nhà thơ đã gọi những người bạn mình là những “cố nhân”. Câu thơ
nói lên một nỗi niềm trung trinh của Bác và hai thứ tình cảm lớn lao nhất mà Bác Hồ đã
theo đuổi trong suốt cả cuộc đời mình : tình yêu Tổ Quốc và tình yêu Cách Mạng, mà hiện
thân là những người đồng chí.
Tình cảm rất hiện đại ấy lại được nhà thơ biểu hiện trong một phong cách thơ cổ điển bởi
những câu thơ cứ man mác gợi ra một vẻ đẹp thật xa xăm, được làm nên từ trăm ngàn năm
trước. Nhà thơ và nhà học giả Trung Quốc Quách Mạc Nhược đã rất có lý khi nhận ra trong
bài thơ một tứ thơ rất đẹp chắt lọc trong những tứ thơ xưa : “đăng cao ức hữu” ( lên cao nhớ
bạn ). Và cả ngôn từ của những dòng thơ, nhất là câu thơ thứ bốn, cũng không khỏi làm
cho người đọc thơ gợi nhớ đến những câu thơ Đường, thơ Tống từ một thû rất xa xưa
Vọng mó nhân hề thiên
( Tô Đông Pha )
Đấy cũng là lý do mà một bài thơ ngắn nhưng gợi ra nhiều mêng mang liên tưởng, không
chỉ là không gian nghệ thuật với : trùng sơn, Tây Phong lónh, hình ảnh bầu trời, cái nhìn xa
xăm gợi lên từ cụm từ “dao vọng” mà còn từ hương vò thời gian, từ sự liên tưởng đến những
vẻ đẹp đã trở thành vónh cửu, vónh hằng từ những dòng thơ tuyệt vời được tạo ra cách đó
hàng thiên niên kỉ. Và như thế, bài thơ còn được nhớ mãi như là một sự kết hợp tuyệt vời
giữa cổ điển và hiện đại, giữa truyền thống xa xưa và những cách tân mới mẻ.
Nhưng bài thơ sẽ đẹp hơn nhiều, ý nghóa hơn nhiều nếu chúng ta biết liên hệ những câu thơ
với hoàn cảnh mà nó được sáng tạo ra và mục đích mà nhà thơ mong đạt tới. Như đã nói ở
trên, “Mới ra tù tập leo núi” được viết ra trước hết để nhắn tin, và điều được nhắn không chỉ
là Bác Hồ còn sống và đang rèn luyện sức khoẻ để trở lại hoạt động. Bài thơ còn là sự giãi
bày một tấm lòng trung trinh, trong sáng không một vết gợn. Đây cũng là một lý do, một lý
do chủ yếu để Bác dùng hai chữ “giang tâm”, không phải dòng sông mà là lòng sông.
Nghìn năm trước đó, Vương Xương Linh cũng đã từng viết một câu thơ rất đẹp :
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ
Câu thơ làm nên hình ảnh mảnh lòng băng trong bình ngọc đẹp tuyệt vời. Nhưng trong “Mới
ra tù tập leo núi”, Bác Hồ không chỉ là một “mảnh lòng băng trong bình ngọc” mà là cả một
lòng sông như một gương sáng đang giãi bày sự trong trắng giữa đất trời bao la. Đó là một
vẻ đẹp mà chúng ta không được phép quên lãng khi đọc bài thơ.
Cũng không nên quên rằng bài thơ chỉ có tên là “đăng sơn” như chúng ta thường gặp trong
thơ Bác mà ở đây, trước hai chữ “đăng sơn” còn là chữ “học”. Bác đang học bằng đôi chân
mà cách đấy không lâu còn đang “mềm như bông” và không thể đi lại được ngay cả trong
không gian chật chội nơi tù đày. Vì thế, việc có thể lên được đỉnh Tây Phong chót vót lẫn
với mây trời là công việc phải đánh đổi bằng không biết bao nhiêu khó nhọc và đau đớn,
cũng là công việc xứng đáng được coi là chiến công. Nhưng điều rất đáng ngạc nhiên là
trong bài thơ không hề có một chữ nào kể về sự nhọc nhằn, khổ sở, đớn đau, và cũng
không hề có một chữ nào bộc lộ sự tự hào, kiêu hãnh của một người chiến thắng. Và như
thế, Bác Hồ đã không coi là đáng kể những cái mà ngøi thường coi là vó đại, rộng lớn. Hoá
ra những khó nhọc ghê gớm kia vẫn không là gì so với sức mạnh tinh thần lớn lao của Bác.
Hiểu theo hướng ấy thì “Mới ra tù tập leo núi” chính là biểu hiện của một sức mạnh tinh
thần, một chất thép vô song chỉ riêng có ở Bác Hồ, bởi được biểu hiện dưới dạng thức của
cái “không” tức là đã nói lên rất nhiều cái “có”.