Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Quản Lý Chất Lượng Nước Ao Nuôi Thủy Sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.26 KB, 9 trang )

Quản Lý Chất Lượng Nước Ao Nuôi Thủy sản
1. Giới thiệu
Duy trì chất lượng nước
tốt là rất cần thiết để
nuôi cá thành công
Giống như con người cần không khí trong lành để được sống lâu, cá cần nước có
chất lượng tốt để sống khỏe mạnh. Không khí chúng ta thở cung cấp oxy (dưỡng khí)
cho chúng ta, nước cung cấp oxy cho cá. Con người sẽ bị bệnh khi sống trong môi
trường không khí bị ô nhiễm, nước dơ sẽ làm cá bị sốc và dễ bị mắc bệnh. Hơn nữa,
cá không thể lớn nhanh trong môi trường có nhiều chất độc, thiếu oxy và nhiệt độ
biến động. Vì vậy, duy trì chất lượng nước ao là cần thiết để nuôi cá thành công.
Phòng bệnh tốt hơn là
trị bệnh
Một vài nhân tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng ao nuôi cá như sử dụng nguồn nước
chất lượng kém để cấp cho ao cá, bón phân quá liều, cho ăn quá dư thừa và thả cá với
mật độ cao. Nếu kiểm soát được các yếu tố trên, quan sát cá hàng ngày và chăm sóc
tốt thì có thể tránh khỏi hầu hết các trở ngại về môi trường nước.
Nước tốt giúp cá khỏe
mạnh và lớn nhanh
Chất lượng nước tốt có những lợi ích gì? Chất lượng nước tốt cung cấp cho cá đầy đủ
thức ăn tự nhiên để lớn và cung cấp đủ oxy cho cá thở. Nước tốt làm cho cá ăn nhiều,
khỏe mạnh và lớn nhanh.
Chăm sóc ao cá cũng
cần thiết như chăm sóc
ruộng lúa hay vật nuôi
Những dấu hiệu xấu của nước ao và các biện pháp ngăn ngừa để duy trì chất lượng
nước cho ao nuôi cá được trình bày trong tài liệu này. Quá trình chuẩn bị ao ban đầu
là rất quan trọng được trình bày kỹ. Cách tránh phèn và các yếu tố gây độc khác cũng
được nêu rõ. Sau cùng, những lợi ích của việc cung cấp đầy đủ ánh sáng cho sự phát
triển của tảo (rong có kích thước rất nhỏ mà mắt thường không nhìn thấy), duy trì
nhiệt độ, oxy của nước ao cũng được giải thích kỹ.


2. Chuẩn bị ao
Cải tạo ao tốt có thể
tránh được những trở
ngại
Chuẩn bị ao tốt trước khi thả cá có thể ngăn ngừa hầu hết các trở ngại về môi trường
nước. Nên lưu ý chất lượng của nguồn nước cấp, đất phèn và điều kiện nền đáy ao.
2.1. Nguồn nước
Lê Trần Trí Thức – ĐHNTTS09
1
Khi lấy nước phải đảm
bảo nguồn nước có chất
lượng tốt
Nguồn nước cấp cho ao phải sạch, không có nhiều bùn hay màu nâu đen. Nước đục
có màu bùn do có nhiều hạt phù sa, sẽ hạn chế ánh sáng vào ao làm cho tảo không
phát triển. Hơn nữa, các hạt phù sa bám vào mang cá làm cá khó thở.
Nước có màu nâu đen có nghĩa là trong nước có nhiều xác động, thực vật thối rữa,
chúng sẽ sinh ra nhiều khí độc trong ao.
2.2. Độ trong của nguồn nước
Trá
nh lấy nước đục vào ao
Có thể dùng tay hoặc
đĩa hai màu (Secchi) để
đo độ trong
Nguồn nước phải ít đục hay độ trong cao. Cách đo độ trong đơn giản nhất là đưa bàn
tay vào trong nước đến khuỷu tay (cùi chỏ) và nhìn theo bàn tay, nếu còn nhìn thấy
bàn tay là nguồn nước có độ trong thích hợp.
Nếu muốn đo độ trong chính xác, có thể dùng đĩa hai màu (Secchi). Đĩa có dạng hình
tròn, đường kính 20 phân (cm), được chia làm 4 ô trong đó 2 ô sơn trắng và hai ô sơn
đen. Gắn đĩa vuông góc với một thanh gỗ tại tâm điểm của đĩa hoặc dùng dây treo để
thao tác dễ dàng. Khi đo, thả đĩa chìm vào nước chầm chậm đến khi mắt thường

không còn phân biệt giữa hai màu đen trắng trên mặt đĩa, sau đó hơi kéo nhẹ đĩa lên
đến khi có thể phân biệt giữa hai màu đen trắng trên mặt đĩa thì dừng lại. Đo khoảng
cách từ mặt nước đến mặt đĩa chính là độ trong của nước. Nếu nguồn nước có độ
trong lớn hơn 30 là nguồn nước tốt.
2.3. Đất phèn
Lê Trần Trí Thức – ĐHNTTS09
2
Đào ao ở vùng đất phèn
sẽ làm nước bị nhiễm
phèn
Có thể đo độ pH bằng
giấy quỳ hay hộp dung
dịch
Nếu xây dựng ao trên vùng đất phèn, nước có thể bị nhiễm phèn vào mùa mưa khi
nước mưa rửa trôi phèn từ trên bờ xuống ao. Nước phèn có độ pH thấp (nhỏ hơn 7),
thường rất trong và rất ít loài sinh vật có thể sống trong nước phèn.
Tránh đào lớp đất phèn lên khi xây dựng ao. Trên vùng đất phèn, tốt nhất là xây dựng
ao nổi. Nếu phải đào lớp đất phèn trong quá trình xây dựng ao thì cần cải tạo ao đến
khi nước có độ pH thích hợp mới thả cá.
Nếu nước bị phèn, dùng vôi nông nghiệp hoặc đá vôi đen (Dolomite) với liều lượng
0,5-1kg/100m
2
ao hoặc bờ. Vôi nông nghiệp và đá vôi đen chỉ có tác dụng hạ phèn từ
từ, do đó nên phải bón 2-3 ngày một lần đến khi nước có độ pH thích hợp. Tuyệt đối
không được bón vôi sống (vôi nung) khi đang nuôi cá, vì bón vôi sống sẽ làm chết cá.
Khi nước ao có màu xanh, độ pH thường cao vào ban ngày. Nếu độ pH quá cao sẽ
làm gia tăng độc tính của khí độc (NH
3
), có hại cho cá tôm.
Có thể dùng giấy quỳ, hộp dung dịch (bộ test kit đo pH) hay máy để đo độ pH. Nếu

đo bằng giấy quỳ, nhúng giấy vào nước ao giấy sẽ đổi sang màu cam nếu nước bị
phèn, giấy đổi sang màu xanh nếu nước bị kiềm. Sau đó đem so giấy quỳ với bảng
màu chuẩn trên nắp hộp, nếu giấy quỳ trùng với màu nào trên bảng màu chuẩn thì số
ghi trên màu chuẩn đó là giá trị pH của nước đã đo.
Nếu dùng dung dịch hoặc máy đo, đọc kỹ hướng dẫn kèm theo để biết cách sử dụng.
Có thể sử dụng máy đo pH cầm tay, khi đo nhúng đầu điện cực vào nước, mở máy
(bật công tắc), đọc số trên mặt số chính là giá trị pH của nước.

2.4. Độ kiềm của nguồn nước
Lê Trần Trí Thức – ĐHNTTS09
3
Bón vôi thường xuyên
có thể hạ phèn. Không
được dùng vôi sống
(CaO) sau khi thả cá
Độ kiềm của nước cho biết khả năng trung hòa phèn (hạ phèn). Khi độ kiềm của
nước thấp hơn 25 mg CaCO
3
/lít cần phải bón vôi.
Đá vôi là nguồn cung cấp CaCO
3
tốt nhất. Vôi sống (vôi nung) chỉ được dùng ban
đầu khi cải tạo ao, không nên dùng sau khi đã thả cá. Bón vôi sống làm tăng pH nước
đến mức nguy hiểm, gây tổn thương mang cá và gây chết cá.
Tỉ lệ sử dụng vôi tùy thuộc vào tính chất đất và pH của nước. Thông thường bón
10-15 kg/100m
2
là thích hợp cho vùng đất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
2.5. Chất độc
Chất hữu cơ phân hủy

sinh ra nhiều khí độc,
làm cá bị suy yếu hoặc
chết
Nước màu đen là biểu
hiện trong nước có
nhiều vật chất hữu cơ
Khi cho ăn dư thừa và bón phân quá liều chất thải sẽ tích tụ ở đáy ao sinh ra nhiều
khí độc. Nước có mùi hôi thối, nhiều bọt khí và lớp bùn đen dày ở đáy ao cho biết
trong ao có nhiều khí độc, đặc biệt là khí Metan (mùi rác mục) và khí H
2
S (có mùi
trứng thối).
Chất độc NH
3
(có mùi khai nước tiểu) và Nitrite sinh ra từ quá trình phân hủy các
chất hữu cơ trong nước. Hàm lượng NH
3
thấp thì có tác dụng tốt giống như phân bón
nhưng nếu hàm lượng cao NH
3
sẽ gây độc cho cá.
Có thể sử dụng bộ test NH
3
để đo lượng NH
3
trong nước. Cần đọc kỹ hướng dẫn kèm
theo để biết cách sử dụng.
Thay 20-30% nước ao có thể làm giảm bớt lượng chất độc trong ao trong trường hợp
chất độc tích tụ ít. Nếu chất độc tích tụ nhiều, tốt nhất là thu hoạch cá và cải tạo ao
lại cho vụ nuôi tiếp theo.

Không cho ăn dư thừa, bón phân hữu cơ quá liều và cải tạo ao tốt trước khi thả cá có
thể tránh được chất độc tích tụ trong ao.
2.6. Cải tạo ao
Ao nuôi nên tát cạn, vét
sạch bùn trước khi bắt
đầu vụ nuôi mới
Nên cải tạo ao đầu vụ nuôi theo các bước sau:
• Dọn cỏ và vệ sinh bờ ao
• Tát cạn và sên vét sạch bùn đáy ao
• Phơi đáy ao 2-3 ngày (chú ý: nếu ao xây dựng trên vùng đất phèn không được
phơi lâu)
• Bón vôi nông nghiệp hay vôi sống với liều lượng 10-15kg/100m
2
để cải tạo
phèn (có thể sử dụng thuốc cá với liều lượng 3g/m
2
mặt ao để diệt trừ cá tạp).
• Cấp nước vào ao khoảng 20-30 cm, nước cấp phải lọc qua lưới dày để tránh
cá tạp vào ao.
Lê Trần Trí Thức – ĐHNTTS09
4
Dùng vôi sống bón cho
ao sau khi vét sạch bùn
Cấp nước vào qua lưới
lọc mịn để ngăn cá tạp
vào ao
• Bón phân hữu cơ với liều lượng 40-60 kg/100m
2
ao, giữ trong 4-5 ngày (xem
phần phân bón trong tài liệu này).

• Cấp đầy nước qua lưới lọc đạt độ sâu 1-1,5m. Sau đó có thể thả cá.

3. Nhiệt độ
Có thể đo nhiệt độ bằng
nhiệt kế rượu (màu đỏ)
hoặc thủy ngân (màu
ánh bạc)
Duy trì mức nước trong
ao 1-1,5m để giữ nhiệt
độ nước ổn định (không
quá nóng hay quá lạnh)
Cá là loài biến nhiệt, nhiệt độ cơ thể cá thay đổi theo nhiệt độ nước. Khi nhiệt độ quá
lạnh hay quá nóng, cá bị sốc, ít ăn và chậm lớn. Nhiệt độ thích hợp cho cá, tôm vùng
nhiệt đới nằm trong khoảng 25-32
o
C. Tuy nhiên, cá có thể chịu đựng nhiệt độ trong
khoảng 20-35
o
C.
Có thể đo nhiệt độ bằng nhiệt kế thủy ngân (màu ánh bạc) hoặc nhiệt kế rượu (màu
đỏ). Nhúng bầu rượu hay thủy ngân của nhiệt kế vào trong nước, cột màu bên trong
nhiệt kế sẽ dâng lên nếu nhiệt độ cao và hạ xuống nếu nhiệt độ thấp. So cột màu với
mức chia số trên thân nhiệt kế để xác định trị số nhiệt độ của nước (không lấy nhiệt
kế ra khỏi nước khi đo nhiệt độ). Khi đo nhiệt độ, cần chú ý thường nhiệt độ tầng
mặt và tầng đáy chênh lệnh nhau khoảng 5
o
C, nếu chỉ đo nhiệt độ tầng mặt sẽ không
thể hiện đúng nhiệt độ của nước.
Nhiệt độ của nước ao có thể duy trì trong khoảng thích hợp bằng cách giữ mức nước
trong ao từ 1-1,5m. Nếu vùng có nhiệt độ quá thấp vào mùa đông và quá cao vào mùa

hè, nên giữ mức nước ao sâu hơn 2m.
Lê Trần Trí Thức – ĐHNTTS09
5

×