Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Nhận diện một số giá trị văn hóa sinh thái của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên theo hướng tiếp cận phát triển bền vững vùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.93 KB, 4 trang )

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(119).2017

47

NHẬN DIỆN MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI CỦA ĐỒNG BÀO
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG TÂY NGUYÊN
THEO HƯỚNG TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG
IDENTIFYING ECOLOGICAL CULTURAL VALUES OF THE ETHNIC MINORITY GROUPS
IN HIGHLANDS TOWARDS THE SUSTAINABLE DEVELOPMENT OF THE REGION
Trần Thị Mai An
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng;
Tóm tắt - Thời gian gần đây, trong bức tranh nghiên cứu về Tây
Nguyên, nhiều học giả đã đặt vấn đề văn hóa sinh thái Tây Nguyên
như một nội dung quan trọng khi tiếp cận bàn về sự phát triển bền
vững vùng. Trong lý luận của khoa học nhân học, chúng ta biết rằng
đặc điểm văn hóa sinh thái ln góp phần tạo nên bản sắc văn hóa
của dân tộc, bởi lẽ quy luật sinh tồn cho thấy bất kỳ sinh vật nào
muốn tồn tại cũng phải thể hiện bản năng thích nghi với mơi trường
tự nhiên; và con người cũng khơng thể thốt khỏi quy luật ấy. Bài
viết này, trong giới hạn thuộc lĩnh vực văn hóa vật chất, dựa trên các
phân tích về sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên
vùng Tây Nguyên, sẽ chỉ ra các giá trị văn hóa sinh thái các tộc người
thiểu số nơi đây nhằm nhấn mạnh hơn sự cần thiết trong việc chú
trọng xây dựng mối quan hệ giữa con người và môi trường trong bối
cảnh hướng đến một sự phát triển bền vững cho vùng.

Abstract - Recently, in the studies on highlands, researchers have
put forward ecological culture in Highlands as the main content in
the approach of the sustainable development of the region.
According to the theory of anthropology/ethnology, ecological
culture has always contributed to the cultural identity of a nation.


This is because the law of existence shows that any living creature
must adapt to the natural environment by instinct; and humans
cannot help following this rule. This paper, within the field of
material culture, based on the analysis of humans’ adaptation to
the natural environment in Highlands, points out ecological cultural
values of the minority groups to highlight the essential of the focus
on the construction of relationship between humans and nature in
the context of sustainable development of Highlands.

Từ khóa - dân tộc thiểu số; văn hóa sinh thái; Tây Nguyên; phát
triển bền vững; bản sắc

Key words - ethnic minority; ecological culture; Highlands;
sustainable development; identity

1. Đặt vấn đề
“Văn hóa sinh thái là tất cả các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và
biến đổi giới tự nhiên nhằm tạo ra cho mình một mơi
trường sống tốt đẹp hơn, trong lành và hài hòa với tự nhiên,
hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp vì sự phát triển lâu bền
của xã hội” [1:196]. Hiểu theo khái niệm trên, nghiên cứu
văn hóa sinh thái của các dân tộc thiểu số (DTTS)1 vùng
Tây Nguyên chính là tiếp cận các “sản phẩm” mà con
người tạo ra qua mối quan hệ, sự ứng xử và khả năng tương
tác giữa họ với tự nhiên. Đặc điểm văn hóa sinh thái ln
góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc, bởi lẽ quy
luật sinh tồn cho thấy bất kỳ sinh vật nào muốn tồn tại cũng
phải thể hiện bản năng thích nghi với mơi trường tự nhiên;
và con người cũng khơng thể thốt khỏi quy luật ấy2. Với

các DTTS vùng Tây Nguyên, việc cư trú lâu dài trong môi
trường Sơn nguyên cũng đã tạo cho họ các cơ hội thích
nghi, trải nghiệm để hình thành những dạng thức văn hóa
đa dạng phù hợp với tự nhiên. Các “sản phẩm” văn hóa
được tạo ra trong các lĩnh vực của cuộc sống tộc người đã
minh họa cho mối quan hệ biện chứng giữa họ và tự nhiên
một cách rõ ràng nhất. Từ những giá trị tương tác đó, sắc
thái văn hóa sinh thái được hình thành và góp phần tạo nên
hằng số cốt lõi của nền văn hóa dân tộc. Bài viết này, trong
giới hạn thuộc lĩnh vực văn hóa vật chất, dựa trên các phân

tích về sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên
vùng Tây Nguyên, sẽ chỉ ra các giá trị văn hóa sinh thái các
tộc người thiểu số nơi đây, nhằm nhấn mạnh hơn sự cần
thiết trong việc chú trọng xây dựng mối quan hệ giữa con
người và môi trường trong bối cảnh hướng đến một sự phát
triển bền vững cho vùng Tây Nguyên.
2. Các giá trị văn hóa sinh thái trong đời sống văn hóa
vật chất của đồng bào DTTS vùng Tây Nguyên
2.1. Sinh kế tộc người
Tây Ngun có địa hình chia cắt phức tạp, mang tính phân
bậc gồm địa hình vùng cao ngun, địa hình vùng núi (trung
bình, thấp) và địa hình vùng đồi - thung lũng. Kiểu địa hình
đặc trưng này đã chi phối các điều kiện sinh sống và phương
thức sản xuất khác nhau của các tộc người. Trên các loại địa
hình vùng trũng và cao nguyên – nơi bằng phẳng, giao thơng
thuận tiện, canh tác thuận lợi, ví dụ vùng trũng Kon Tum, cao
nguyên Pleiku và Buôn Ma Thuột, tập trung nhiều buôn làng
với quy mô rất đông đúc. Trong khi đó, trên các dạng địa hình
núi, đặc biệt là vùng núi trung bình, đất dốc, những nơi xa xơi

hẻo lánh, dân cư thường thưa thớt hơn. Điều này cho thấy yếu
tố địa hình, cảnh quan có vai trị quan trọng trong việc thiết
lập mật độ phân bố buôn/ làng và dân cư cư trú.
Theo nhiều quan sát của các nhà khoa học, yếu tố sinh
cảnh, địa hình của vùng Tây Nguyên đã chi phối hình thức

Hiện tại, ở Tây Nguyên có 49/54 tộc người của Việt Nam, trong đó có 12 tộc người thiểu số tại chỗ, chia làm 2 ngữ hệ: (1) Ngữ hệ Malayo Polinesien
(Mã Lai – Đa Đảo) gồm Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Ra Glai; và (2) Nhóm ngơn ngữ Mơn Khơmer gồm Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Brâu, Rơ Măm, Mạ,
M‘Nông và Cơ Ho.
2 Trong cơng trình nghiên cứu sinh học nổi tiếng và đặt nền tảng cho thuyết tiến hóa của mình là “On the origin of species” (Nguồn gốc của các loài
sinh vật, 1859), Darwin đã nhấn mạnh việc các sinh vật tồn tại hoặc tuyệt chủng là do khả năng tự thích nghi với mơi trường xung quanh. Quan điểm
này đã có ảnh hưởng to lớn khơng những trong khoa học sinh học mà còn trong nhiều phương diện khác, từ tư tưởng, chính trị, tơn giáo, tâm lý, triết
học đến văn hóa, nghệ thuật trong sự phát triển ở xã hội con người.
1


Trần Thị Mai An

48

canh tác nương rẫy đặc trưng trong sinh kế của đồng bào.
Nếp sống nương rẫy đã thành nếp sống chủ đạo và bao trùm
lên toàn bộ lĩnh vực đời sống các tộc người [2], [3], [4]. Hình
ảnh cây lúa khô trồng trên rẫy cũng dần trở thành biểu tượng
sinh tồn, có giá trị linh thiêng trong văn hóa sinh thái của họ.
Cũng trong canh tác nương rẫy, do mơi trường địa hình
dốc thoải, tính chất đất đỏ, rắn nên phương thức làm rẫy cổ
truyền của đồng bào là chặt cây phát rừng, trồng trỉa lúa khô
và những cây lương thực phụ. Thông thường, họ làm rẫy bằng
cách đốt một khoảnh rừng và trỉa lúa xuống đấy. Chất mùn do

lá rụng lâu năm và chất tro đốt có tác dụng phân bón. Một
khoảnh đất canh tác như vậy trong hai hay ba năm thì bạc màu,
người ta luân canh (ở Tây Nguyên gọi là “rẫy dế”), chuyển
sang đốt một khoảnh rừng khác. Kỹ thuật chặt và đốt rừng làm
rẫy được quy định rất chặt chẽ trong luật tục, khơng hề lãng
phí và hiếm khi xảy ra cháy rừng… Mỗi hộ trong làng thường
có từ 10 đến 20 rẫy. Khi đã khai thác đến rẫy thứ 10 hay thứ
20, quay lại rẫy đầu tiên thì đã là 10 đến 20 năm, đủ thời gian
cho rừng tái sinh. Trong lối canh tác truyền thống ấy, mặt bằng
trồng trọt là yếu tố quy định hình thức kỹ thuật và cơng cụ lao
động của các tộc người. Do khoảnh rừng được chọn để làm
nương rẫy vẫn còn lởm chởm những gốc cây, nên sự thích
nghi ở đây là khơng sử dụng được bất kỳ một loại cơng cụ sản
xuất nào khác ngồi chiếc gậy chọc lỗ trỉa hạt cùng với dao,
rìu và cuốc. Phương thức canh tác cổ truyền này thật sự hợp
với địa hình có độ dốc thoải, đất rắn ở vùng Tây Nguyên, thể
hiện dấu ấn sinh cảnh tộc người rõ nét trong mối quan hệ
tương tác với môi trường tự nhiên. Đây chính là giá trị văn hóa
sinh thái cốt lõi trong sinh kế của các tộc người.

nước uống và cả những truyền thuyết, huyền thoại về vùng đất
lập làng. Đơi khi cũng có làng được gọi theo tên của người có
uy tín nhất trong làng (thường là già làng) hoặc các trưởng họ.
Mỗi bn/làng đều có ranh giới riêng được xác định bởi luật
tục lâu đời giữa các buôn với nhau, đồng thời được vận hành
theo nguyên tắc tự quản. Ranh giới để phân định thường là
những con suối, chân núi hay rìa làng. Khi lập bn/làng, các
tộc người đều tổ chức nghi lễ xin phép Yàng (thần trời). Mỗi
bn/làng đều có một nhà Rơng, đây là nơi thể hiện không
gian sinh hoạt cộng đồng, không gian sinh hoạt tín ngưỡng

của đồng bào. Mỗi bn/làng cũng chiếm hữu một khu vực
canh tác cho mình và rất có ý thức về chủ quyền bảo vệ nơi
cư trú, canh tác. Trước kia, hầu hết bn/làng nào cũng đều có
hàng rào bao bọc để chống thú dữ và phòng người nơi khác
đến đánh phá. Xung quanh khu vực cư trú, buôn/làng ln
phải có một phạm vi đất đai rừng núi đủ rộng để làm luân canh
nương rẫy, làm vườn rừng. Tính chất không gian cư trú ấy đã
đồng nhất cùng với khơng gian sản xuất của cộng đồng.
Như vậy, có thể thấy giá trị sinh thái biểu hiện qua nơi
cư trú của đồng bào các DTTS vùng Tây Nguyên chính là
sự thích ứng trong mối quan hệ với tự nhiên và thể hiện rõ
sự hiểu biết về tự nhiên. Buôn/làng luôn phải nằm ở nơi có
đầy đủ các yếu tố sinh thái cơ bản để phục vụ đời sống
thường ngày của con người, tiêu biểu là nguồn nước. Nơi
cư trú cũng luôn phải gần với nơi sản xuất, sinh hoạt để
thuận lợi cho việc đi lại. Trong 19 già làng người Ê-đê, Bana và Gia-rai mà chúng tơi có dịp được tiếp xúc tại huyện
Cư’Mgar, tỉnh Đắk Lắk, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum và
huyện Chư Puh, tỉnh Gia Lai thì cả 19 ông đều quan điểm
rằng làng của họ luôn chọn các khu đất cao ráo để dựng
làng. Tính cao ráo ở đây khơng có nghĩa phải là nơi cao
nhất trong không gian tự nhiên của vùng. Bởi họ cho rằng
nếu ở quá cao thì mức độ nguy hiểm sẽ lớn vào mùa mưa,
gió xốy hoặc lũ dễ dàng đe dọa sự tồn tại của buôn/làng.
Vậy nên làng chỉ cần ở nơi có địa hình khơng q chật hẹp,
thuận lợi về sản xuất và sinh hoạt cộng đồng. Thiết nghĩ,
đây chính là quan điểm thể hiện sự thích ứng với sinh thái
tự nhiên tinh tế, bộc lộ cách ứng xử mềm dẻo, linh động.

Hình 1. Rừng khộp ở huyện Chư Puh, tỉnh Gia Lai


2.2. Cư trú
Theo các nhà nghiên cứu Khổng Diễn (1974), Lưu Anh
Hùng (1992), Phan Hữu Dật (1998), Bùi Minh Đạo (2010),
Nguyên Ngọc (2012), nói đến nơi cư trú của đồng bào các
DTTS vùng Tây Nguyên là nói đến một khơng gian văn hóa
độc đáo. Khơng gian ấy được gọi tên là buôn/làng.
Buôn/làng đồng thời cũng là một tổ chức xã hội quan trọng
gắn với quá trình tộc người. Trong mỗi buôn/làng, dấu ấn
sinh cảnh tự nhiên chiếm một phần thiết yếu, góp phần cấu
thành nên 4 yếu tố quan trọng của nơi cư trú; đó là: (i) không
gian sản xuất, (ii) không gian cư trú, (iii) không gian sinh
hoạt cộng đồng, và (iv) không gian sinh hoạt tín ngưỡng.
Về khơng gian cư trú, bn/làng của các tộc người thường
ở địa thế tương đối bằng phẳng, cao ráo, đất đai màu mỡ, gần
nguồn nước để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Mỗi
bn/làng đều có tên gọi riêng, thường gắn liền với đặc điểm
địa danh, địa hình nơi ở hoặc theo tên núi, sơng, hồ, nguồn

Hình 2. Một ngôi nhà của người Ê-đê ở huyện Cư’Mgar,
tỉnh Đắk Lắk

Nhà ở, nhà cộng đồng của các DTTS vùng Tây Nguyên
cũng cho thấy sự hiện diện quan trọng của dấu ấn sinh cảnh
vùng rừng núi. Đó là sự có mặt chủ đạo của các vật liệu
được làm từ tre nứa và gỗ. Mặt sàn, vách nhà, dầm, cột, vi
kèo, khung nhà, mái nhà, địn tay, rui mè… khơng hề có sự
hiện diện của vật liệu nhân tạo. Tất cả nguyên vật liệu kết
cấu từ cái nhỏ nhất đến cái chính yếu đều lấy từ tự nhiên.



ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(119).2017

Như vậy, cách chọn đất lập làng, cách xây dựng nhà sàn,
nhà rơng chính là các giá trị sinh thái độc đáo thể hiện sự
thích ứng trong mối quan hệ với tự nhiên, sự hiểu biết về
môi trường tự nhiên của đồng bào các DTTS nơi đây.
2.3. Trang phục
Ở Tây Nguyên, các dân tộc có một loại trang phục khá
phổ biến là choàng và quấn, thể hiện qua các loại khố, váy
mảnh (váy không khâu thành ống), tấm chồng, và các loại
áo chui đầu. Khơng sặc sỡ như trang phục của một số dân
tộc ở miền núi phía Bắc, trang phục của các tộc người
chuộng lấy màu đen hoặc màu chàm sẫm làm màu chủ đạo.
Họa tiết, hoa văn đậm chất thiên nhiên núi rừng Tây Nguyên
hùng vĩ. Nữ thường mặc áo cánh ngắn, may kiểu chui đầu,
quấn váy. Nam đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui đầu và một
tấm chồng vng vào mùa lạnh. Khi ra khỏi nhà, đồng bào
thường mang bên mình gùi và ngậm tẩu. Họ ưa dùng các đồ
trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm, mã não. Theo quan
điểm của họ, đồ trang sức có chức năng thẩm mỹ, biểu tượng
của sự giàu sang và dành cho việc hứa hơn.
Nhìn chung, y phục hay trang sức của đồng bào các
DTTS vùng Tây Nguyên thể hiện sự tiện gọn, dày bền và
thích hợp với cuộc sống vùng cao nguyên, vùng rừng núi và
lao động nương rẫy. Chất liệu chính của các loại y phục đều
được làm từ cây bông, một loại chất liệu có độ thích nghi cao
với điều kiện khí hậu của vùng: giữ ấm khi trời lạnh và thấm
hút mồ hôi khi trời nắng. Kỹ thuật dệt luồn sợi và khung dệt
của đồng bào là kiểu khung dệt đơn giản, được làm từ gỗ tự
nhiên, ngay cả cây kim dùng may vá theo truyền thống trước

đây cũng được làm bằng chất liệu tre, vót nhọn một đầu, cịn
đầu kia thì đập cho tưa ra rồi vo với chỉ cho dính vào nhau
để khâu [2:63]. Y phục ấy, trang sức ấy cịn tốt lên vẻ đẹp
tự nhiên của rừng núi Tây Nguyên qua các loại hoa văn mô
phỏng hoa lá, cỏ cây, động vật của vùng đại ngàn.
2.4. Ăn uống
Hoạt động ăn uống của các tộc người thiểu số vùng Tây
Nguyên cũng chính là sự biểu hiện rõ nét cho khả năng tận
dụng và khai thác tự nhiên của đồng bào. Việc lựa chọn
nguyên liệu, kỹ thuật chế biến, hình thức tiếp nhận ăn,
uống, hút của họ cũng phản ánh mối quan hệ giữa con
người với môi trường sinh thái tự nhiên.
Bữa ăn của họ rất đơn giản, thức ăn ít, món thường xuyên
là muối ớt, cà đắng và rau rừng luộc. Thành phần lương thực
chính là gạo và các loại rau củ. Trong các lễ hội thì bữa ăn
có thêm thành phần cơm nấu trong các ống nứa, rượu và thịt.
Gia cầm và gia súc chưa trở thành nguồn thịt cho thức ăn
hàng ngày. Thức uống chủ yếu là nước lã, rượu cần. Họ thích
dùng nước trong các mạch chảy tự nhiên, khơng thích dùng
nước giếng. Rượu cần được làm bằng gạo, ngơ, khoai, sắn.
Các tộc người cũng có thói quen hút thuốc bằng tẩu, tẩu được
làm bằng gốc tre, gỗ được trang trí hoa văn.
Nguyên liệu chế biến chính của các món ăn truyền
thống cũng như uống của các tộc người bao gồm các
nguyên liệu được khai thác từ thiên nhiên và từ canh tác,
thể hiện dấu ấn sinh cảnh rõ nét. Ví dụ, các loại rau trong
bữa ăn đều hái trong rừng như lá ktỗn, ktuỗn, ktuônh, lăng,

49


ayôk... ; thịt cũng chủ yếu là thịt đánh bắt từ tự nhiên như
các lồi chim, thú, bị sát trong rừng, cua, ốc, cá từ suối.
Ước tính, nguồn thức ăn từ rừng chiếm khoảng 50-60%.
Bên cạnh đó, cách thức chế biến món ăn của họ cũng tuân
thủ theo nguyên tắc đảm bảo hương vị tự nhiên của các
nguyên liệu và dựa vào các yếu tố tự nhiên như mặt trời, lửa
hoặc lên men. Phổ biến có 3 cách chế biến cơ bản là rang, phơi
khô và muối. Với các cách chế biến này, các tộc người không
chỉ tận dụng tự nhiên để thưởng thức được vị ngon vốn có của
nguyên liệu thực phẩm mà còn giữ thức ăn được lâu dài.
Như vậy, chúng ta thấy ít nhiều đồng bào đã có kinh
nghiệm sử dụng thực phẩm theo mùa và biết tích trữ cho mùa
sau. Chỉ là hành động, việc làm đơn giản thường nhật nhưng
đã thể hiện sự thấu hiểu, ứng xử khéo léo với tự nhiên nhằm
đảm bảo đời sống của mình. Giá trị văn hóa sinh thái ăn uống
của các tộc người thể hiện sâu đậm trong quan điểm gắn kết,
gần gũi và tận dụng môi trường tự nhiên xung quanh.
2.5. Đồ dùng sinh hoạt và phương tiện vận chuyển
Do sống ở địa hình rừng núi đi lại khó khăn và cũng do
thói quen nên đồng bào các DTTS Tây Nguyên không dùng
các loại dụng cụ phương tiện vận chuyển có liên quan đến
việc dùng sức người. Phương tiện vận chuyển phổ biến của
họ là gùi với nhiều loại hình và chức năng khác nhau.
Thường thì gùi có nhiều loại như gùi dày dùng để mang
thóc, ngơ giống hoặc đi rẫy và chuyển lúa, bắp… từ rẫy về
kho; gùi thưa dùng để đi lấy rau, lấy củi, lấy nước, lấy sắn.
Tuy tùy vào từng tộc người mà hình dáng, đế gùi, màu sắc
và trang trí hoa văn có các nét riêng, nhưng phổ biến vẫn
là gùi quai đeo qua vai, sử dụng quai vùi khơng tì vào trán
như nhiều dân tộc ở miền núi phía Bắc. Khi đi làm rẫy, đi

rừng, đàn bà địu con sau lưng bằng tấm vải chồng, đàn
ơng mang gùi, vác nỏ trên vai. Ðể đan được một chiếc gùi,
đồng bào phải mất khá nhiều thời gian và đòi hỏi sự tỉ mỉ,
kiên nhẫn của người làm. Từ cơng đoạn vào rừng tìm
ngun liệu đến kỹ thuật làm đế, thân, dây… đều mang dấu
ấn sinh thái vùng núi rừng Tây Nguyên đậm nét.
Bên cạnh đó, với địa hình nhiều sơng suối, đồng bào cịn
tạo nên loại hình vận chuyển đường thủy bằng thuyền độc
mộc3. Sử dụng voi hoặc trâu làm phương tiện chuyên chở.
Thói quen này thể hiện cho sự linh hoạt, nhạy bén và tận
dụng triệt để môi trường tự nhiên xung quanh của đồng bào
các tộc người. Tuy nhiên, hiện nay việc dùng voi, trâu để
chun chở khơng cịn nữa. Voi chủ yếu được dùng để phục
vụ cho các hoạt động du lịch. Bên cạnh việc đi lại bằng hình
thức đi bộ, đồng bào phổ biến sử dụng các loại phương tiện
khác như xe đạp, xe máy, xe có sức kéo của động vật.
3. Những tồn tại về giá trị văn hóa sinh thái của các tộc
người thiểu số và hướng tiếp cận phát triển bền vững
vùng Tây Nguyên
Có thể thấy các giá trị văn hóa sinh thái cơ bản trong
văn hóa vật chất của đồng bào các DTTS vùng Tây Nguyên
luôn thể hiện sự gần gũi, gắn kết với môi trường tự nhiên.
Giá trị trong sinh kế, cư trú, ăn mặc, phương tiện vận
chuyển và đồ dùng sinh hoạt của các tộc người thực chất
được cấu thành từ mối quan hệ ứng xử, tương tác giữa con

Thuyền độc mộc được làm bằng các loại gỗ (dâu, sao, cáo) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rựa, và
lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục centimet là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên
sông chỉ phổ biến đối với đàn ơng, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển đi lại này.
3



Trần Thị Mai An

50

người và tự nhiên. Tư duy của các tộc người thể hiện cách
sống hịa hợp, thích nghi với môi trường tự nhiên trên mọi
phương diện của đời sống vật chất.
Các giá trị này suy cho cùng cũng chính là các thuộc
tính trong văn hóa các tộc người. Thuộc tính thiên về thiên
nhiên – rừng, gần gũi hài hòa với thiên nhiên – rừng. Trong
hơn 170 phiếu khảo sát4 về vai trò và giá trị của các nguồn
lực thiên nhiên đối với đời sống đồng bào, chúng tôi thu về
số lượng ý kiến đánh giá khá cao vai trò quan trọng của đất,
rừng và nguồn nước trong tâm thức của đồng bào.
Số phiếu
khảo sát

170

Vai trò và giá trị của các nguồn lực thiên nhiên trong
đời sống đồng bào
Đất
Rừng
Nguồn nước
Quan Không Quan Không Quan Không
trọng
quan
trọng

quan
trọng
quan
trọng
trọng
trọng
144
26
144
26
127
43
phiếu, phiếu, phiếu, phiếu, phiếu, phiếu,
85%
15%
85%
15%
75%
25%

Tuy rằng, có khá nhiều phản hồi trăn trở về vấn đề rừng,
đất rừng, tuy nhiên, thực tế hiện nay, mơi trường thiên
nhiên vùng Tây Ngun đã có q nhiều thay đổi so với
trước đây và ảnh hưởng trực tiếp đến thói quen cư trú, sinh
hoạt của đồng bào. Những kết quả tốt đạt được từ việc lựa
chọn xây dựng Tây Nguyên thành một trong những vùng
kinh tế trọng điểm, vùng vững chắc về an ninh quốc phòng
của cả nước là khơng có gì phải bàn cãi, tuy nhiên những
hệ lụy từ việc thực hiện các chủ trương chiến lược đó khơng
phải là khơng có. Chính sách di dân tăng cường lực lượng

lao động cho Tây Nguyên, các chính sách quản lý đất và
rừng vùng Tây Nguyên từ sau năm 1975 cho đến nay cũng
đã làm phai nhạt rất nhiều thuộc tính thiêng về thiên nhiên
– rừng, gần gũi, hài hịa với thiên nhiên – rừng trong văn
hóa tộc người của các DTTS. Với họ, ý niệm về rừng như
là không gian sinh tồn bền vững, là nơi họ được sinh ra, tồn
tại, chết và tái sinh không mang giá trị tuyệt đối như trước
nữa. Ý thức quan hệ, hành động với môi trường sinh thái
xung quanh bị thay đổi. 86%/170 người được hỏi cho biết
họ khơng cịn sợ khi đi vào rừng thiêng (rừng ma) bởi lẽ
“giờ rừng đó cũng gần đường giao thơng, cây khơng cịn
nhiều, cây nhỏ ít lá, khơng âm u như trước nên khơng có gì
phải sợ”. Và 79%/170 ý kiến trả lời nếu có cơ hội thay đổi,
họ sẽ không lựa chọn việc sống quá phụ thuộc vào rừng
nữa, họ cảm thấy bấp bênh về cuộc sống nếu bị phụ thuộc
vào rừng quá nhiều.
Số phiếu Quan niệm của đồng bào Ý kiến về việc lựa chọn một
khảo sát
về rừng tâm linh
sinh kế phụ thuộc vào rừng
Sợ hãi
Bình thường

Khơng
170
24 phiếu,
146 phiếu,
36 phiếu,
134 phiếu,
14%

86%
21%
79%

Như vậy, có thể thấy ở chừng mực nào đó, giá trị hịa hợp,
thích nghi với mơi trường tự nhiên từng là giá trị văn hóa sinh
thái cơ bản của các tộc người, đang dần có nguy cơ thay đổi.
Sự thay đổi này nguy hiểm ở chỗ nó đến từ trong nhận thức
và sự hoài nghi về lối sống của tộc người. Mất thuộc tính văn

hóa dễ dẫn đến sự mất ý thức tộc người, gây ra các suy nghĩ,
đánh giá tiêu cực về cuộc sống, đẩy mối quan hệ với môi
trường tự nhiên đến bờ vực của sự không được tôn trọng. Đây
là một quan điểm đi ngược lại với xu hướng phát triển bền
vững hiện nay. Thiết nghĩ, phát triển bền vững là sự kết hợp
hài hòa giữa phát triển về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.
Những tác động làm ảnh hưởng nếp sống nương rẫy chủ đạo,
sự gắn kết trong đời sống vật chất của đồng bào với môi
trường sinh thái xung quanh bị giảm thiểu sẽ gây ra các thay
đổi về ý thức hệ tộc người, xáo trộn văn hóa truyền thống và
phai nhạt bản sắc tộc người. Theo chúng tôi, để phát triển bền
vững vùng Tây Ngun dưới các phân tích về văn hóa sinh
thái nêu trên, cần thiết phải:
1. Duy trì tối đa các hoạt động sản xuất và sinh hoạt vật
chất của đồng bào các DTTS vùng Tây Nguyên gắn với tự
nhiên, thân thiện và gần gũi với tự nhiên. Đây là các đặc
thù về sinh kế, xã hội và văn hóa các tộc người. Mất sự gần
gũi gắn kết với tự nhiên là mất bản sắc văn hóa các tộc
người vùng Tây Nguyên.
2. Phát triển vùng Tây Nguyên phải chuyển hướng

mạnh mẽ từ việc lấy mục đích khai thác là chính sang lấy
việc bảo vệ khôi phục rừng, bảo vệ môi trường làm nền
tảng, đồng thời bảo vệ gen và duy trì tính sinh học đa dạng
của rừng, giảm thiểu tối đa tác động trên nhiều nguyên
nhân của sự thay đổi môi trường sinh thái vùng đến đời
sống các tộc người.
3. Chăm lo sinh kế của đồng bào các DTTS vùng Tây
Nguyên thông qua các giải pháp về phát triển sinh kế, tăng
cường năng lực cho cộng đồng, giúp họ có nhiều cơ hội
nâng cao đời sống vật chất nhưng vẫn bảo tồn được các giá
trị văn hóa sinh thái cơ bản của tộc người.
4. Kết luận
Giá trị văn hóa sinh thái của các DTTS vùng Tây
Nguyên là tấm gương phản chiếu mối quan hệ, sự ứng xử
và tương tác giữa con người với tự nhiên. Vì vậy, phát triển
bền vững vùng Tây Nguyên không thể xem nhẹ các vấn đề
về văn hóa sinh thái của các tộc người. Quan điểm này phải
được thể hiện trong các chiến lược quy hoạch vùng, chiến
lược khai thác và bảo vệ các nguồn lực tự nhiên, chiến lược
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các tộc người
DTTS nơi đây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Lê Bảo, Văn hóa sinh thái nhân văn, NXB Văn hóa Thơng tin,
Hà Nội, 2001.
[2] Nguyễn Tấn Đắc, Văn hoá, xã hội và con người Tây Nguyên, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005.
[3] Nguyên Ngọc, Phát triển bền vững ở Tây Nguyên, Tham luận Hội
thảo Phát triển bền vững Tây Nguyên, 27/11/2012, Buôn Ma Thuột.
[4] Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.

[5] Nguyễn Hồng Quang, “Các giá trị phát triển cơ bản vùng Tây
Nguyên”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (01), 2015.

(BBT nhận bài: 25/08/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 02/10/2017)
Chúng tôi chọn khảo sát tại xã Đắk Ruồng, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum nơi cư trú của người Ba-na; xã Ia Hrú, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai, nơi
cư trú của người Gia-rai; và xã Cư’Mgar, huyện Cư’Mgar, tỉnh Đắk Lắk, nơi cư trú cùa người Ê-đê.
4



×