Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.76 KB, 19 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu

Kế thừa, đổi mới và phát triển là đặc trng mang tính quy luật của mọi quá
trình phát triển diễn ra trong tự nhiên, xã hội và t duy. Theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, phát triển chính là sự vận động theo khuynh hớng đi
lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, ... Kết quả của quá trình
vận động đó là sự ra đời sự vật mới, hoàn thiện hơn sự vật cũ. Trong quá trình
này, những yếu tố tích cực của cái cũ đợc giữ lại, cải biến để tham gia vào cái
mới với t cách là yếu tố cấu thành của nó. Có thể nói, không có một sự vật mới
nào lại ra đời từ h vô, mỗi sự vật mới ra đời luôn kế thừa những yếu tố, những
mặt của cái cũ mà nó phủ định. Cứ nh vậy, mọi sự vật, hiện tợng trong tự nhiên,
xã hội, t duy luôn vận động, phát triển không ngừng. đó chính là quy luật
chung của sự phát triển.
Sự vận động của truyền thống và những giá trị truyền thống cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Trong các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt
Nam, giá trị văn hoá sinh thái có một vị thế đặc biệt, đợc thể hiện một cách độc
đáo trong t tởng, đạo đức và lối sống của con ngời Việt Nam. Các giá trị văn
hoá sinh thái truyền thống Việt Nam càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh toàn
cầu hoá hiện nay, khi mà vấn đề bảo vệ môi trờng sống đang là một trong
những vấn đề gay cấn nhất, bức xúc nhất, đồng thời cũng khó giải quyết nhất
của thời đại.
Phần lớn khi nói tới giá trị truyền thống, mọi ngời thờng hay nghĩ tới giá
trị đạo đức truyền thống mà không nghĩ tới giá trị sinh thái truyền thống. Do
đó, đây là đề tài đầu tiên đề cập đến vấn đề sinh thái truyền thống ở Việt Nam.
Đề tài này có một giá trị to lớn, đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa truyền thống
và hiện đại, giữa văn hoá và trí tuệ, tạo ra sức mạnh to lớn và đảm bảo chắc
chắn cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nớc trong kỷ nguyên mới.
Tuy nhiên, đề tài cũng còn nhiều hạn chế, thiếu sót.
Nhờ sự hớng dẫn và giúp đỡ tận tình của giảng viên TS. Dơng Thị Liễu mà
tôi có thể hoàn thành đề tài này. Vì vậy, em xin gửi đến cô lời cảm ơn chân


thành nhất.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng 1
Phép biện chứng về phủ định
1. Khái niệm về phủ định và phủ định biện chứng
1.1. Phủ định
Bất cứ sự vật, hiện tợng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra,
tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi đợc thay bằng sự vật mới. Sự
thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không
nh vậy, sự vật không phát triển đợc. Sự thay thế đó đợc triết học gọi là sự phủ
định, tức là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và
phát triển.

Trong lịch sử triết học, tuỳ theo thế giới quan và phơng pháp luận, các nhà
triết học và trờng phái triết học có quan niệm khác nhau về sự phủ định. Triết
học trớc Mác có tồn tại quan điểm vận động vòng tròn: khi xã hội đạt tới một
trình độ phát triển nào đó, xã hội sẽ trở lại điểm xuất phát, vòng phát triển mới
lại bắt đầu; Pitago cho rằng một chu kỳ phát triển của xã hội hết 78 vạn năm;
Phật giáo lại quan niệm kiếp ngời tuân theo vòng luân hồi cát bụi lại trở về cát
bụi. Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt
vong hoàn toàn của cái cũ, sự phủ định sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự vận
động và phát triển của sự vật. Họ tìm nguyên nhân của sự phủ định ở bên ngoài
sự vật, ở một lực lợng siêu nhiên nào đó can thiệp làm phá huỷ, thủ tiêu sự vật,
chấm dứt sự phát triển của nó. Trong ý thức thông thờng, khái niệm phủ định
thờng đợc thể hiện bằng từ không; phủ định có nghĩa nói không, bác bỏ
một cái gì đó.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về
lợng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thờng xuyên của các mặt đối
lập làm cho mấu z thuẫn đợc giải quyết,từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật

mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát
triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự
vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát
triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện
chứng.
1.2. Phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự
thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự
vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Các đặc trng cơ bản của phủ định biện chứng

Phủ định biện chứng có hai đặc trng cơ bản sau đây: thứ nhất, nó mang
tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển; thứ hai, nó mang tính kế thừa,
là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
2.1.Tính khách quan
Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ
định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những mâu
thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn
phát triển, vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá
trình vận động và phát triển của sự vật. Đơng nhiên, mỗi sự vật có phơng thức
phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều
đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của
con ngời. Con ngời chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra
nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.

Chẳng hạn, trong lịch sử triết học, sự phát triển của phép biện chứng duy
vật là quá trình phủ định biện chứng liên tục từ phép biện chứng tự phát thời cổ
đại qua phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức đến phép biện
chứng duy vật. Sự phát triển của các học thuyết khoa học là kết quả của những

sự phủ định liên tục những trí thức về sự vật, hiện tợng hay quá trình của thế
giới.

2.2.Tính kế thừa

Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó
không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời
trên nền tảng của cái cũ, chúng không thể từ h vô. Cái mới ra đời là sự phát
triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu
của cái cũ và chọn lọc, giữ lại cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích
cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực. Sự phát triển chẳng qua chỉ
là sự biến đổi trong đó giai đoạn sau bảo tồn những mặt tích cực đợc tạo ra ở
giai đoạn trớc và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực.

Điều đó nói lên rằng, phủ định biện chứng mang tính kế thừa. Trong quá
trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và
chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó, phủ định đồng thời cũng là
khẳng định. Ví dụ, trong sinh vật các giống loài đều có tính di truyền, các thế
hệ con cái đều kế thừa các yếu tố tích cực của các thế hệ bố mẹ. Ông cha ta th-
ờng nói:Con nhà lông chẳng giống lông cũng giống cánh là ý nói vậy. Trong
lịch sử phát triển của xã hội loài ngời, xã hội mới ra đời trên cơ sở kế thừa
những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội trớc, đồng thời bổ sung thêm
những giá trị mới. Trong lĩnh vực nhận thức các học thuyết khoa học ra đời sau
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bao giờ cũng kế thừa những giá trị t tởng của các học thuyết khoa học ra đời tr-
ớc,...

Diễn đạt t tởng đó, V.I.Lênin viết: Không phải sự phủ định sạch trơn,
không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi,
không phải sự do sự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trng và cái bản

chất trong phép biệc chứng ... mà là sự phủ định coi nh là vòng khâu của liên
hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định.

Những điều phân tích trên cho thấy, phủ định biện chứng không chỉ là sự
khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới, sự vật
cũ với sự vật mới, giữa sự khẳng định với sự phủ định, quá khứ với hiện thực.
Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.

Quá khứ không bao giờ lại biến mất hoàn toàn.Trong dòng chảy vô tận
của thời gian, những nhân tố của quá khứ sẽ để lại dấu ấn nhất định ở hiện tại.
Những nhân tố của quá khứ sẽ tham gia vào việc tạo lập cái hiên tại, tạo nên sợi
dây liên hệ sinh động giữa quá khứ và hiện tại.

Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định đợc giữ lại, nó
vẫn đợc duy trì dới dạng lọc bỏ. Chẳng hạn, trong khi phủ định chủ nghĩa t bản
với t cách là một chế độ lỗi thời, chũ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ những
thành quả của sự phát triển tiến bộ xã hội đã đạt đợc trong chủ nghĩa t bản.
Song, những yếu tố đợc giữ lại đó cũng phải đợc cải tạo, đợc biến đổi trên cơ sở
những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để trở thành những yếu tố nội tại của xã
hội xã hội chủ nghĩa.

3. Quy luật phủ định của phủ định. Hình thức xoáy ốc
của sự phát triển

Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá
trình phát triển. Với t cách là kết quả của phủ định làn thứ nhất, cái mới cũng
chứa đựng trong bản thân mình xu hớng dẫn tới những lần phủ định tiếp theo
phủ định của phủ định. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới
việc ra đời một sự vật, trong đó có sự lặp lại một số đặc trng cơ bản của cái
xuất phát ban đầu, nhng trên cơ sở cao hơn. Đến đây mới hoàn thành một chu

kỳ phát triển. Khuynh hớng chung nh vậy của sự phát triển đợc khái quát thành
nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định.

Ph.ăngghen đã đa ra một thí dụ để hiểu về quá trình phủ định này: Hãy
lấy ví dụ hạt đại mạch. Có hàng nghìn triệu hạt đại mạch giống nhau đợc xay
ra, nấu chín và đem làm rợu, rồi tiêu dùng đi. Nhng nếu một hạt đại mạch nh
thế gặp những điều kiện bình thờng đối với nó, nếu nó rơi vào một miếng đất
thích hợp, thì nhờ ảnh hởng của sức nóng và độ ẩm, đối với nó sẽ diễn ra một
sự biến hoá riêng, nó nảy mầm: hạt đại mạch biến đi, không còn là hạt đại
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mạch nữa, nó bị phủ định, bị thay thế bởi cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự phủ
định hạt đại mạch. Nhng cuộc sống bình thờng của cái cây này sẽ nh thế nào?
Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra những hạt thóc mới, và khi hạt
đại mạch đó chín thì thân cây chết đi, bản thân nó bị phủ dịnh. Kết quả của sự
phủ định này là chúng ta lại có hạt đại mạch nh ban đầu, nhng không phải chỉ
là một hạt thóc mà nhiều gấp mời, hai mơi, ba mơi lần.

Ví dụ trên cho thấy, từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc ban đầu), trải qua
sự phủ định lần thứ nhất (cây lúa phủ định hạt thóc) và sự phủ định lần thứ hai
(những hạt thóc mới phủ định cây lúa), sự vật dờng nh quay trở lại sự khẳng
định ban đầu (hạt thóc), nhng trên cơ sở cao hơn (số lợng hạt thóc nhiều hơn,
chất lợng hạt thóc cũng sẽ thay đổi, song khó nhận thấy ngay).

Sơ đồ cụ thể:

Khẳng định (hạt thóc) phủ định làn thứ nhất (cây lúa) phủ định lần
thứ hai (hạt thóc).

Sự phát triển theo khuynh hớng phủ định của phủ định đã đợc một số nhà
biện chứng tự phát nêu ra từ lâu. Song, do cha nhận thức sâu sắc tính biện

chứng của quá trình phát triển, một số nhà triết sau này đã tuyệt đối hoá tính
lặp lại sau một chu kỳ phát triển, từ đó hình thành quan niệm siêu hình xem sự
phát triển nh là một quá trình diễn ra theo vòng tròn khép kín.

Phủ định của phủ định với t cách là một quy luật cơ bản của phép biện
chứng lần đầu tiên đợc trình bày trong triết học Hêghen. Nhng quy luật đó đợc
xây dựng trên cơ sở duy tâm khách quan và theo công thức ba đoạn một cách
máy móc.

Việc quan sát thấu đáo các quá trình tự nhiên, xã hội và t duy đã chỉ ra
rằng, sự vận động diễn ra theo rất nhiều xu hớng.Tính vô cùng tận của thế giới
vật chất cũng biểu hiện cả trong tính vô cùng tận của các khuynh hớng vận
động, trong đó, sự vận động theo vòng tròn khép kín chỉ là một trong những
khuynh hớng có thể có, đó không phải là khuynh hớng duy nhất.

Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, nh
trên đã nói, là sự thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần
phủ định biện chứng đợc thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do
đó, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hớng
tiến lên không ngừng, sự vật sẽ ngày càng phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do
mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu
tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật giữa mặt
khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất đợc thực hiện một cách
căn bản làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình. sự phủ định lần
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thứ hai đợc thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái đợc
sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nh vậy, về hình thức, sẽ trở lại cái xuất phát,
song, thực chất, không phải giống nguyên nh cũ, mà dờng nh lặp lại cái cũ, nh-

ng trên cơ sở cao hơn. Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng
thông qua phủ định của phủ định chính là sự phát triển dờng nh quay trở lại cái
cũ, nhng trên cơ sở cao hơn.

Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một
chu kỳ phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là
một bớc trung gian trong sự phát triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập
cái ban đầu, nhng trên cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bớc tiến của sự vật.
Những lần phủ định tiếp theo đó đợc gọi là sự phủ định của phủ định. Phủ định
của phủ định làm xuất hiện cái mới nh là kết quả tổng hợp tất cả những yếu tố
tích cực đã đợc phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả trong những
lần phủ định tiếp theo, những yếu tố tích cực đợc khôi phục, đợc duy trì và phát
triển. Cái tổng hợp này là sự thống nhất biện chứng tất cả những cái tích cực ở
giai đoạn trớc và ở cái mới xuất hiện trong quá trình phủ định. Do vậy, cái mới
với t cách là kết quả phủ định của phủ định có nội dung toàn diện và phong phú
hơn cái khẳng định ban đầu và cái kết quả của lần phủ định thứ nhất.

Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển,
đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại
tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ nh vậy sự vật mới
ngày càng mới hơn.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hớng tất yếu tiến lên của sự
vật xu hớng phát triển. Song sự phát triển đó không phải diễn ra theo đờng
thẳng, mà theo đờng xoáy ốc. Đề cập tới con đờng đó của sự phát triển biện
chứng, V.I.Lênin viết : Sự phát triển hình nh diễn lại những giai đoạn đã qua,
nhng dới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định);
sự phát triển có thể nói là theo đờng trôn ốc chứ không theo đờng thẳng.

Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đờng xoáy ốc chính là

hình thức cho phép biểu đạt đợc rõ ràng nhất các đặc trng của quá trình phát
triển biện chứng : tính kế thừa, tính lặp lại nhng không quay trở lại và tính chất
tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đờng xoáy ốc thể hiện một trình
độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dờng nh quay lại cái đã qua, dờng nh
lặp lại vòng trớc. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát
triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao.

Nghiên cứu quá trình phát triển của sự vật theo quy luật phủ đinhj của phủ
định, chúng ta không đợc hiểu một cách máy móc là mọi sự vật trong thế giới
hiện thực đều phải trải qua hai lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát
triển của chúng. Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có thể
bao gồm số lợng các lần phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua hai lần phủ
định, có sự vật phải trải qua ba, bốn, năm lần phủ định,... mới hoàn thành một
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chu kỳ phát triển. Điều đó phụ thuộc vào tính chất của một quá trình phát triển
cụ thể, nhng ít nhất cũng phải hai lần.Chẳng hạn:

Vòng đời của con tằm : trứng - tằm nhộng ngài trứng. ở đây
vòng đời của tằm phải trải qua bốn lần phủ định.

Các nguyên tố hoá học trong bảng Hệ thống tuần hoàn do Menđêleep thể
hiện rõ điều khái quát nêu trên. Các nguyên tố hoá học phải trải qua rất nhiều
lần phủ định mới hoàn thành chu kỳ phát triển của chúng.

Mặt khác, trong số rất nhiều lần phủ định của một chu kỳ phát triển biện
chứng, tất cả các lần phủ định đó vẫn có thể khái quát lại là hai lần : phủ định
biện chứng lần thứ nhất là loại phủ định chuyển cái xuất phát thành cái đối
lập với mình, phủ định biện chứng lần thứ hai là loại phủ định chuyển cái
trung gian thành cái đối lập của nó, và do đó làm xuất hiện sự vật dờng nh lặp
lại cái xuất phát, nhng trên cơ sở mới cao hơn.


Từ sự phân tích đã đợc nêu ra ở trên, chúng ta khái quát về nội dung cơ
bản của quy luật phủ định của phủ định nh sau:

Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái
bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không
phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trớc đó, mà là điều
kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn gĩ nội dung tích cực của các giai
đoạn trớc, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhng trên cơ sở
mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đờng
thẳng, mà theo đờng xoáy ốc .

4.ý nghĩa phơng pháp luận

Nghiên cứu về quy luật phủ định của phủ định, chúng ta có thể rút ra một
số ý nghĩa phơng pháp luận sau đây :
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đẵn về xu
hớng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng
không bao giờ đi theo một đờng thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp, trong đó
bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ
trớc. Xã hội và các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng nh cuộc sống của con ng-
ời đều diễn ra theo chiều hớng đó. Xã hội loài ngời phát triển từ công xã
nguyên thuỷ, qua chiếm hữu nô lệ, phong kiến, t bản sẽ đến xã hội phủ định xã
hội t bản chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Xã hội t bản đã, đang và sẽ tạo ra những tiền đề phủ định chính nó, đặt nền
móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tơng lai.

ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng biệt. Do đó,
chúng ta phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp sao cho sự
Website: Email : Tel : 0918.775.368

phát triển nhanh hoặc phát triển chậm. Điều này phụ thuộc vào tác dụng của sự
vật đối với đời sống của con ngời. Chẳng hạn, nếu sự vật có ích lợi cho con ng-
ời thì phải đẩy nhanh sự phát triển của nó, còn nếu nó có hại thì phải kìm hãm
sự phát triển của nó.

Theo quy luật phủ định của phủ định, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái
mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên
cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ, do đó nó luôn luôn biểu
hiện là một giai đoạn phát triển cao của sự vật vận dụng vào xem xét sự vật,
điều này tránh cho chúng ta thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.

Trong giới tự nhiên, cái mới xuất hiện một cách tự phát; còn trong xã hội,
cái mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con ngời. Chính vì thế,
trong công tác, chúng ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tởng
vào tơng lai phát triển của cái mới. Khi mới ra đời, cái mới luôn còn yếu ớt, ít
ỏi; vì vậy, chúng ta phải ra sức bồi dỡng, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái
cũ, phát huy u thế của nó. Trong khi đấu tranh chống lại cái cũ, chúng ta phải
biết sàng lọc, bỏ thô lấy tinh, biết giữ lấy những gì là tích cực, là có giá trị của
cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới, phải chống thái độ
h vô chủ nghĩa trong khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá lại quá khứ. Chẳng hạn,
trớc tình trạng tạm thời khủng hoảng,thoái trào hiện nay của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô cũ và Đông Âu, không chỉ có những kẻ chống cộng, có cả một
số ngời vốn là macxit cũng ra sức phủ nhận những thành quả to lớn mà chủ
nghĩa xã hội đã tạo dựng đợc ở những nớc trớc đó. Họ không thấy đợc rằng,
trong hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã để lại những giá trị
tích cực có ảnh hởng lâu dài đối với lịch sử toàn thế giới.

Trong khi chống thái độ h vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ,
chúng ta cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, kh kh giữ lại cả những cái lỗi
thời cản trở sự phát triển của lịch sử. Khi đề cập lệnh lạc này trên lĩnh vực văn

hoá, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ơng khoá VIII nhận định rằng,
trong những năm gần đây, Nhiều hủ tục cũ... lan tràn, nhất là trong việc cới,
việc tang, lễ hội... .
Theo quan điểm biện chứng về sự phát triển, trong quá trình phủ định,
chúng ta phải biết kế thừa có chọn lọc những cái vốn là tinh hoa của cái cũ, sử
dụng chúng nh là tiền đề của sự nảy sinh cái mới, tiến bộ hơn, biết giữ hình
thức và cải tạo nội dung cho phù hợp nh ông cha ta đã nói : bình cũ, rợu mới.
Hơn nữa chúng ta phải biết lựa chọn để tiếp thu cái mới cho phù hợp chống cả
t tởng cũ ngời, mới ta trong đời sống xã hội và cuộc sống của con ngời.

Chơng 2
Giá trị truyền thống trong điều kiện
hiện nay ở nớc ta
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Giá trị truyền thống
Truyền thống, theo tiếng Latinh, là sự kế thừa di sản xã hội có giá trị,
đợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo đó, có thể coi truyền thống là
một bộ phận tơng đối ổn định của ý thức xã hội, đợc lặp đi lặp lại trong suốt
tiến trình hình thành và phát triển các nền văn hoá tinh thần và vật chất, là một
giá trị nhất định đối với từng nhóm ngời, từng giai cấp, cộng đồng và xã hội nói
chung. Truyền thống có chuẩn mực riêng, thể hiện một giá trị nào đó đợc các
chủ thể lựa chọn nó làm cơ sở cho phơng thức hoạt động của họ.

Bất cứ một dân tộc nào trên thế giới cũng đều có truyền thống của mình.
Có thể coi truyền thống là phức hợp những t tởng, tình cảm, phong tục, tập
quán, thói quen, lối ssống, ý chí,... của chính dân tộc đó đợc hình thành trong
quá trình lịch sử lâu dài, đã trở nên ổn định, mang đặc trng dân tộc và đợc
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Truyền thống là một bộ phận của ý thức xã hội mà ý thức xã hội lại luôn

chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Bởi vậy, truyền thống của một dân tộc
không phải tự nhiên mà có, cũng không phải do con ngời tự lựa chọn cho mình;
nó đợc hình thành, đợc quy định bởi chính những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã
hội mà dân tộc đó đã trải qua.
Chức năng của truyền thống là chuyển tải các chuẩn mực định hớng giá trị
của hành vi và hoạt động nhằm bảo tồn cốt cách của một nền văn hoá và lối
sống nhất định. Trong điều kiện giao lu văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc và
rộng hơn là trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi các chủ thể xã hội phải có định hớng
hoạt động đúng đắn, nói cách khác là đề ra các chơng trình hoạt động văn hoá
thích hợp để sao cho hoà nhập mà không bị hoà tan, tức là không đánh mất
các giá trị truyền thống của mình trong tiếp biến văn hoá.
Hình thức tồn tại của truyền thống phụ thuộc vào khả năng chuyển tải các
chuẩn mực định hớng giá trị, với t cách là những mẫu tợng bền vững, lặp đi lặp
lại. Trong lễ nghi, tập quán, các giá trị truyền thống mang ý nghĩa biểu tợng,
dẫn dắt chủ thể vào môi trờng văn hoá và đến lợt mình, các giá trị truyền thống
ấy thông qua đó mà đợc bảo tồn, bổ sung thêm những cái mới, có giá trị đã đợc
thẩm định theo không gian, thời gian và chuyển tải cho các thế hệ tiếp theo.

Phơng thức tác động vừa mang tính tự nhiên, vừa thông qua sự sàng lọc của
chủ thể hoạt động văn hoá. Mặc dù cả hai phơng thức tác động đều dựa trên uy
tín của truyền thống cái uy tín đã đợc chủ thể hoạt động thừa nhận thông qua
sự suy ngẫm, tiếp cận giá trị một cách có ý thức và trở thành yếu tố quan trọng
trong chơng trình hoạt động của nó. Nếu chủ thể hoạt động tiếp thu truyền thống
một cách vô thức hoặc có thể là mù quáng, thì truyền thống đó tác động tới các
yếu tố khác trong đời sống xã hội thờng chỉ đạt đợc ý nghĩa nhất định nào đó
chứ cha phải là giá trị, có khi lại trở thành phản giá trị.

×