Tiểu luận triết học
"Vận dụng Lý luận về
Hình thái kinh tế - xã
hội giải thích quá
trình phát triển của
Việt Nam ngày nay"
MỤC LỤC
Lời giới thiệu........................................................... ..........................3
PHẦN A
Giới thiệu đề tài
I. Khái niệm về hình thái kinh tế xã hội....................................................................4
II.
Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................................4
III. ........................................................
Mục đích,ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
................................................................................................................................5
PHẦN B
Nội dung
I. Học thuyết Hình thái kinh tế xã hội........................................................................5
II. Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội,con đường phát triển tất yếu của cách mạng Xã hội
Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.........................................................................................11
PHẦN C
1
Kết luận .........................................................................................................................18
Danh mục tài liệu tham khảo..........................................................................................20
2
Lời giới thiệu
ôn ” Triết học Mác - LêNin ” có thể nói là một môn học rất khó để có thể
hiểu được cặn kẽ, rõ ràng về nó. Do vậy việc làm bài ” Tiểu luận Triết học ” cũng hẳn
không nằm ngoài mục đích giúp cho sinh viên có thể hiểu sâu, rộng hơn về môn học này.
Muốn vậy mỗi người phải tự tìm tòi, tra khảo các tài liệu, sách báo để phục vụ cho công
việc của mình.Và vì thế bề dầy kiến thức của mỗi người sẽ được tăng lên.Về đề tài "Vận
dụng Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội giải thích quá trình phát triển của Việt
Nam ngày nay” hẳn rất bổ ích và cần thiết vì từ xưa con người đã muốn tìm hiểu về
chính mình, về thế giới xung quanh mà vấn đề đặt ra hết sức bức xúc là Kinh tế - Xã hội
nó bao trùm lên tất cả, nó gắn liền với mỗi người mà ở đây hình thái Kinh tế - Xã hội của
Mác là một bước đột phá, là nền tảng lý luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Việc nghiên
cứu nó như thế nào để vận dụng vào thực tiễn nước ta, quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội là hết
sức cần thiết.
Từ những nhận thức trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài này để viết chi bài tiểu luận của
mình. Trong quá trình nghiên cứu và làm đề tài, mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn
còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong có được sự góp ý của thầy và các đồng chí để bài làm
có thể hoàn thiện hơn.
Bố cục của bài tiểu luận gồm ba phần chính như sau:
PHẦN A: Giới thiệu đề tài
I. Khái niệm về hình thái kinh tế
IV. .......................................................................................
Tính cấp thiết của đề tài.
V.
Mục đích,ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
PHẦN B: Nội dung
I. Học thuyết Hình thái kinh tế xã hội
II. Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội,con đường phát triển tất yếu của cách mạng Xã hội
Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
PHẦN C: Kết luận
3
PHẦN A
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
I.
Khái niệm về Hình thái kinh tế Xã hội.
ình thái Kinh tế - Xã hội là một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu Quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của Lực lượng sản xuất và với một
Kiến trúc thượng tầng phù hợp được xây dựng trên những quan hệ ấy.
Ngoài những mối quan hệ cơ bản trên đây Hình thái Kinh tế - Xã hội còn có những
quan hệ về dân tộc, giai đoạn lịch sử và các quan hệ khác. Các quan hệ trên đây tuy có vai
trò độc lập nhất định nhưng cũng bị chi phối bởi những điều kiện vật chất kinh tế cụ thể
và những quan hệ cơ bản khác của xã hội.
II.
Tính cấp thiết của đề tài.
Học thuyết của Mác về Hình thái Kinh tế - Xã hội ra đời là một cuộc cách mạnh
trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội, là cơ sở phương pháp luận của sự phát triển
khoa học về quá trình vận động và phát triển xã hội. Nhờ có lý luận Hình thái Kinh tế -
Xã hội này lần đầu tiên trong lịch sử Mác đã chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội.
Như vậy, lý luận hình thái Kinh tế - Xã hội giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn
và khoa học về sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định.
Do đặc điểm về lịch sử về những quan hệ và thời gian, không phải quốc gia nào cũng
phải trải qua tất cả các hình thái Kinh tế - Xã hội theo một sơ đồ chung.Lịch sử cho thấy
có những nước đã bỏ qua một hình thái Kinh tế - Xã hội nào đó trong tiến trình phát triển
của mình. Vận dụng điều này vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta hiện nay chúng ta có cơ sở
khoa học để chứng minh rằng con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua Tư bản chủ
nghĩa ở nước ta - cả trong điều kiện hiện nay - vẫn là tất yếu và hoàn toàn có khả năng
thực hiện được.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài : "Vận dụng Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội
giải thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay” là rất thực tiễn và cấp bách cả
về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
III.
Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.
4
1.
Mục đích
Nghiên cứu đề tài "Vận dụng Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội giải thích quá
trình phát triển của Việt Nam ngày nay” giúp chúng ta thêm phần hiểu rõ về hình thái
Kinh tế - Xã hội của Mác và áp dụng lý luận này vào thực tiễn ở nước ta hiện nay.
2.
ý nghĩa
Việc nắm vững bản chất khoa học của lý luận về hình thái Kinh tế Xã hội sẽ thể hiện
được chính xác những vấn đề còn yếu nhất của đời sống Kinh tế Xã hội. Mà muốn thực
hiện tốt một điều gì thì phải hiểu được bản chất của nó, do vậy đối với cách mạng Chủ
nghĩa Xã hội mà ở đây ta nói đến là nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ
Tư bản thì việc nghiên cứu kĩ về Hình thái Kinh tế Xã hội để áp dụng nó thật linh động
vào thực tiễn ở nước ta là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.
5
PHẦN B
NỘI DUNG
I.
Học thuyết về Hình thái Kinh tế - Xã hội. Nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
1.
Những cơ sở xuất phát để phân tích đời sống xã hội
hi xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử Mác và F.Ăngen đã xuất phát từ
những tiêu đề sau đây :
" Tiên đè đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân, con người sống ”. Xã hội dưới bất kì một hình thức nào cũng là sự liên
hệ và tác động qua lại giữa người với người. Ngay từ khi mới ra đời, con người đã có nhu
cầu tìm hiểu về chính mình và về Thế giới xung quanh. Các nhà tư tưởng đã từng tiếp cận
vấn đề con người dưới nhiều hình thức, nhiều góc độ khác nhau và có nhiều đóng góp
quý báu : Phát hiện ra nhiều thuộc tính, phẩm chất, năng lực phong phú, kì diệu của con
người về mọi mặt sinh học, xã hội cũng như tâm lý, ý thức. Trên cơ sở đó, họ có đề xuất
những con đường, biện pháp hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp. Nhưng do những
hạn chế lịch sử, nên những nhà tư tưởng trước đây chưa có cái nhìn đầy đủ về tồn tại của
con người cũng như về lịch sử xã hội loài người, do vậy, họ đã mắc một sai lầm lớn. Để
khắc phục điều này triết học Mác đã có những phát hiện mới, những đóng góp mới. Lần
đầu tiên Mác vạch ra phương thức tồn tại của con người, xuất phát từ cuộc sống của con
người hiện thực. Mác đưa ra một trong những luận điểm được coi là quan trọng nhất
trong quan điểm duy vật về lịch sử của ông : ”Trong tính hiện thực của nó, bản chất
của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội ”. Theo C.Mác con người tồn tại
trong xã hội với tư cách là sản phẩm của xã hội, hơn nữa con người không phải là sản
phẩm của xã hội nói chung mà bao giờ cũng là sản phẩm của một hình thái xã hội nhất
định.
Mặt khác, Mác nhận thấy phương thức tồn tại của con người chính là hoạt động của
họ. Các quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con người hoạt
động trong suốt lịch sử của mình là nhu cầu và lợi ích. F.Ăngen đã viết: ”... đã phát hiện
ra quy luật phát triển của lịch sử loài người nghĩa là tìm ra sự thực đơn giản... là
trước hết con người cần phải ăn mặc, ở uống trước khi có thể lo đến chuyện làm
chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... ”. Như vậy, nhu cầu tồn tại của con người
hình thành một cách khách quan và có nhiều thang bậc mà trước đó là nhu cầu sống (ăn,
6
uống, mặc, ở...) sau đó mới đến nhu cầu khác như giao tiếp và tham gia vào các sinh hoạt
cộng đồng, nhu cầu phát triển tâm hồn và trí tuệ,... Vì vậy mà hoạt động lịch sử đầu tiên
của con người là sản xuất ra những tư liệu cần thiết để thoả mãn những nhu cầu của
mình. Với quan niệm đó C.Mác đã đi dến kết luận rằng : Phương thức sản xuất là cái
quyết định toàn bộ đời sống xã hội và nhưng mặt cơ bản của hoạt động xã hội thể hiện ra
với tư cách là những hình thức khác của sản xuất vật chất.Sản xuất vật chất chính là yếu
tố nền tảng vì nó tạo ra những điều kiện vật chất cho xã hội tồn tại, là động lực phát triển
của xã hội, chi phối những yếu tố khác trong cấu trúc xã hội, là cơ sở của lịch sử loài
người, tạo ra những tư liệu sinh hoạt, mà những tư liệu sinh hoạt này đáp ứng nhu cầu
sống của con người, tạo ra những tư liệu sản xuất mà những tư liệu sản xuất này tạo ra
những thời đại lịch sử của loài người. Cũng như trong quá trình sản xuất vật chất thì con
người tự tạo ra và hoàn thiện chính bản thân mình.
Như vậy, sản xuất vật chất là điều kiện không thể thiếu trong bất kì một xã hội nào.
Tuy nhiên sản xuất chỉ là yếu tố nền tảng của hoạt động sản xuất. Trên cơ sở vật chất và
sản xuất vật chất hay trên cơ sở tồn tại xã hội thì con người đã sản sinh ra ý thức mà đặc
trưng là hệ tư tưởng đạo đức, tôn giáo. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
đặt ra và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
này. C.Mác xác lập nguyên lý có tính chất phương pháp luận để giải quyết vấn đề này là :
” không phải ý thức con người quyết định tồn tại của họ, trái lại, chính sự tồn tại xã
hội của họ quyết định ý thức của họ ”.
Xã hội là bộ phận đặc thù của thế giới vật chất,vận động và phát triển theo quy luật
khách quan. Quy luật xã hội là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, lắp đi lắp lại của các
quá trình,hiện tượng của đời sống xã hội, đặc trưng cho khuynh hướng cơ bản phát triển
của xã hội từ thấp đến cao.
2.
Hình thái Kinh tế - Xã hội
a) Hình thái Kinh tế - Xã hội là một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc
thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ ấy.
Hình thái Kinh tế - Xã hội đặt nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nghiên cứu
tất cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó đã đưa ra bản chất của một xã hội cụ thể, phân
biệt chế đọ xã hội này với chế độ xã hội khác, mà còn thấy được tính lặp lại, tính liên tục
của mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và sinh hoạt ở những xã
hội khác nhau. Nói cách khác, phạm trù Hình thái Kinh tế - Xã hội cho phép nghiên cứu
7
xã hội cả về mặt loại hình và về mặt lịch sử. Xem xét đời sống xã hội ở một giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định, coi như một cấu trúc thống nhất tương đối ổn định đang vận
động trong khuôn khổ của chính hình thái ấy.
b)
Kết cấu và chức năng của các yếu tố cấu thành Hình thái Kinh tế - Xã hội.
Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc, những cái nhìn riêng
lẻ, xã hội là một chỉnh thể toàn diện có cơ cấu phức tạp. Trong đó có những mặt cơ bản
nhất là Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất và Kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có
vai trò nhất định và tác động lên những mặt khác tạo nên sự vận động của cơ thể xã hội.
Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng khái niệm Hình thái Kinh tế - Xã hội.
Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất, kỹ thuật mà mỗi Hình thái Kinh tế - Xã hội.
Sự hình thành và phát triển của mỗi Hình thái Kinh tế - Xã hội xét đến cùng là do Lực
lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các Hình thái Kinh tế - Xã
hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội loài
người. Lực lượng sản xuất bao gồm :
Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết sử
dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra bao gồm Tư liệu lao động và Đối tượng lao
động. Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào trong sản
xuất như là đất canh tác, nước...ngoài ra, còn có đối tượng không có sẵn trong tự
nhiên mà con người sáng tạo ra. Tư liệu lao động là những vật thể mà con người
dùng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra những tư liệu sinh hoạt
nhằm phục vụ cho nhu cầu của con người. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực
lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp vơí lao động sống.
Chính con người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao
động và sử dụng nó để thực hiện sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao
đến đâu nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không phát huy được tác
dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. LêNin viết : ” Lực
lượng sản xuất hấp dẫn của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động”. Giữa các yếu tố của Lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng. Sự
tác động của tư liêu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu biết, kinh
8