Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Khai thác nguồn lực văn hóa trong phát triển du lịch di sản dựa vào sự tham gia của cộng đồng (Nghiên cứu trường hợp tại tháp Po Ina Nagar, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.7 KB, 8 trang )

46

Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53

Khai thác nguồn lực văn hóa trong phát triển du lịch di sản
dựa vào sự tham gia của cộng đồng
(Nghiên cứu trường hợp tại tháp Po Ina Nagar,
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa)
Nguyễn Thị Thanh Xuyên1*
1

Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ
Tác giả liên hệ, Email:

*

THÔNG TIN
Ngày nhận: 25/05/2020
Ngày nhận lại: 21/07/2020
Duyệt đăng: 23/08/2020

Từ khóa:
du lịch dựa vào cộng đồng,
nghi lễ/lễ hội, nguồn lực
văn hóa, sản phẩm du lịch,
tháp Po Ina Nagar

TÓM TẮT
Khai thác sản phẩm du lịch tại một số địa điểm di sản là xu
hướng mới trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. Bên cạnh
một số lợi thế của điểm đến như giá trị lịch sử, kiến trúc thì sức hút


của điểm đến di sản cịn liên quan trực tiếp đến chiến lược xây
dựng sản phẩm du lịch từ nghi lễ diễn xướng dân gian. Nghiên cứu
trường hợp tại tháp Po Ina Nagar (thành phố Nha Trang) với mục
đích tìm hiểu nguồn lực văn hóa và sản phẩm du lịch đã được tái
tạo, xây dựng trong q trình phát triển du lịch thơng qua phương
pháp nghiên cứu của ngành Nhân học là quan sát tham gia và phỏng
vấn sâu có chủ đích. Phát hiện chính bao gồm hai nội dung như
sau: nghi lễ, lễ hội và diễn xướng dân gian là một trong những
nguồn lực văn hóa phát triển du lịch; xây dựng sản phẩm du lịch
bền vững và hiệu quả dựa trên sự tham gia của cộng đồng địa
phương và tộc người. Hàm ý thực tiễn của nghiên cứu là đóng góp
quan điểm phát triển du lịch văn hóa dựa vào cộng đồng nhằm đảm
bảo tính bền vững và cân bằng trong mối quan hệ giữa kinh tế du
lịch và văn hóa.
ABSTRACT

Keywords:
community – based
tourism, cultural resources,
cultural product, Po Ina
Nagar tower, ritual/festival

The exploiting cultural products is a new trend of communitybased tourism development at some heritages. The attraction of
heritage tourism is not only historical, architecture values but also
tourism products based on folk performing and ceremonies. The
cultural practices of the community spread traditional cultural
values for visitor experiences. This is a case study at Po Ina Nagar
(Nhatrang city, Khanh Hoa province, Vietnam). The research
purpose is identifying cultural resources and tourism products
constructed during tourism development by qualitative

methodology is participant observation and in-depth interview.
The main findings are as follows: festivals and folk performances
are one of the cultural resources for tourism development; building
sustainable and effective tourism products based on participation
communities. The practical implication contributes to a policy
recommendation for community-based tourism development to
ensure sustainability and balance the relationship between tourism
and culture.


Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53

47

1. Giới thiệu
Trong nhiều năm gần đây, sự phát triển du lịch đã lan tỏa đến khơng gian di sản, trình diễn
nghi lễ, lễ hội như tại một số địa điểm tín ngưỡng của cộng đồng, chẳng hạn như điện Hòn Chén
(Huế), tháp Po Ina Nagar (Nha Trang), miếu bà Chúa Xứ (Châu Đốc, An Giang). Những di tích
này vừa là địa điểm hành hương đồng thời là điểm đến du lịch di sản có sức hút đối với du khách
trong và ngồi nước. Quá trình phát triển du lịch di sản diễn ra cùng với sự hồi sinh thực hành văn
hóa tín ngưỡng dân gian, trong đó tục thờ nữ thần, là một khía cạnh nổi bật của sinh hoạt tín
ngưỡng dân gian và trọng tâm của động thái kiến tạo văn hóa truyền thống. Q trình biến đổi văn
hóa trở thành nguồn lực phát triển du lịch thể hiện sự vận dụng giá trị văn hóa truyền thống trong
bối cảnh hiện đại hóa. Trong đó, nguồn lực văn hóa gắn liền với chiến lược phát triển du lịch dựa
vào cộng đồng, tơn trọng tính chân thực của văn hóa truyền thống, trao quyền cho cộng đồng để
đi đến mức độ tham gia sâu sắc hơn (Theodossopoulos, 2010; Okazaki, 2008). Do vậy, du lịch di
sản thể hiện tính tương thích giữa nhu cầu trải nghiệm của du khách với khả năng đáp ứng văn hóa
của cộng đồng theo theo hướng gia tăng sự tham gia và trình diễn văn hóa của cộng đồng.
Nghiên cứu này đặt trong bối cảnh khai thác phát triển du lịch tại tháp Po Ina Nagar (thành
phố Nha Trang) với sức hút từ hoạt động nghi lễ, lễ hội và sản phẩm du lịch được xây dựng trên

nền tảng nghi lễ diễn xướng dân gian của cộng đồng. Phạm vi của nguồn lực văn hóa trong nghiên
cứu này là hoạt động nghi lễ/lễ hội và diễn xướng của cộng đồng. Từ đó sáng tỏ vai trị của thực
hành văn hóa dân gian trong tăng cường sức hút của điểm đến. Đồng thời nhận diện một số đặc
điểm về vai trò tham gia của cộng đồng đối với khai thác và bảo tồn văn hóa truyền thống trước
tác động của phát triển du lịch.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thơng qua điền dã dân tộc học với
hai công cụ là quan sát tham gia và phỏng vấn sâu có chủ đích. Quan sát tham gia được tiến hành
trong thời gian diễn ra lễ hội và diễn xướng phục vụ du khách nhằm mơ tả sản phẩm du lịch và
q trình tham gia của cộng đồng, người trình diễn. Phỏng vấn sâu có chủ đích, bao gồm ban quản
lý tháp, đại diện đình, chùa, người Chăm và người Việt hành hương, trình diễn nghi lễ nhằm thu
thập ý kiến đa chiều về quá trình xây dựng sản phẩm du lịch, hiệu quả và khả năng phát triển của
sản phẩm du lịch trong tương lai. Qua đó nhận diện sự tham gia của cộng đồng và các bên tham
gia khác trong khai thác nguồn lực văn hóa.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Bối cảnh lịch sử và nguồn lực phát triển du lịch
Tháp Po Ina Nagar (tên thường gọi là Tháp Bà hoặc Tháp Bà Ponagar Nha Trang) tọa lạc
tại phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hịa, là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp
quốc gia theo Quyết định xếp hạng số 54-VHTT/QĐ ngày 29/4/1979 của Bộ Văn hóa Thơng tin.
Trước năm 1653, tháp Po Ina Nagar là trung tâm tôn giáo của người Chăm ở xứ Kauthara (thuộc
vương quốc Champa) (Maspero, 1928; Parmentier, 1902; Schweyer, 2004). Sau năm 1653, người
Việt di cư vào Nha Trang và tiếp quản tháp Po Ina Nagar, tiếp đó cư dân làng Cù Lao tham gia tế
cúng tại tháp và đình Cù Lao chịu trác nhiệm tổ chức nghi lễ hằng năm. Cho đến thập niên 1990,
thực hành múa bóng thờ cúng nữ thần Thiên Y A Na tại khu vực xóm Bóng vang tiếng một thời
là biểu trưng cho tơn giáo tín ngưỡng của đất Nha Trang xưa. Hiện nay, Trung tâm Bảo tồn Di tích
quản lý và tổ chức hoạt động của tháp như bảo tồn, tổ chức nghi lễ/lễ hội dành cho cộng đồng cư
dân trong tỉnh và các tỉnh khác thuộc Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, bao gồm người Việt (Kinh)
và người Chăm.
Diễn trình lịch sử của vùng đất Nha Trang và bối cảnh lịch sử của cư dân tiền trú người
Chăm và di dân người Việt đã góp phần soi sáng một phần tính chất thờ cúng của tháp Po Ina



48

Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53

Nagar. Thờ cúng của tháp Po Ina Nagar ảnh hưởng Ấn Độ giáo thể hiện qua nữ thần Bhagavati,
sau đó tích hợp văn hóa thờ nữ thần bản xứ của người Chăm và người Việt. Quần thể tháp Po Ina
Nagar vẫn còn bốn ngơi tháp ngun vẹn, gồm tháp chính (tháp Đơng Bắc), tháp Nam, tháp Đơng
Nam, tháp Tây Bắc; trong đó ngơi tháp chính thuộc phong cách nghệ thuật chuyển tiếp từ Mỹ Sơn
A1 sang phong cách Bình Định, khoảng giữa thế kỉ 11 (Nguyen, 2000). Nữ thần được thờ trong
ngôi tháp chính, người Việt gọi là Thiên Y A Na, người Chăm gọi là Po Ina Nagar (thần mẹ xứ
sở), đồng thờ cũng là nữ thần Bhagavati của Ấn Độ giáo.
Trên cái nhìn tổng thể so sánh với các đền tháp Chăm khác ở miền Trung như khu thánh
địa Mỹ Sơn, các tháp Chăm ở một số tỉnh miền Trung và Tây Nguyên (trừ Ninh Thuận và Bình
Thuận), thì tại tháp Po Ina Nagar Nha Trang, hoạt động tơn giáo tín ngưỡng vẫn cịn diễn ra sơi
động, chưa có sự ngắt quãng, đặc biệt cả hai tộc người Kinh và Chăm đều cùng có hoạt động hành
hương tín ngưỡng hằng năm vào ngày đại lễ của nữ thần Thiên Y A Na. Ngoài ra, hằng tháng diễn
ra nghi lễ cúng vào ngày mồng một và rằm. Trong ngày thường, khách hành hương hoặc cư dân
khắp nơi trong hoặc ngồi tỉnh có nhu cầu tín ngưỡng đều có thể vào bái lạy và dâng lễ. Như vậy,
so với một số di sản dưới dạng phế tích, thì tháp Po Ina Nagar đã vượt ra khỏi cảm quan về một
phế tích của người Chăm để lại mà trở nên sống động hơn, thực sự là một trung tâm thờ cúng tôn
giáo với hoạt động hành hương, lễ bái, nghi lễ/lễ hội.
Để quản lý và tổ chức nghi lễ/lễ hội, Ban tổ chức nghi lễ gồm đại diện của các bên tham
gia khác nhau, như đại diện của cơ quan chức năng, đại diện của đình làng Cù Lao, hào lão người
Chăm và người Việt và sư thầy. Ban tổ chức nghi lễ vừa có tính chất quản lý và tổ chức, đồng thời
cũng vừa thể hiện tính chất đại diện của các loại hình nghi lễ khác nhau. Trên nền tảng chính là
nghi lễ thờ nữ thần của người Chăm (nghi lễ tạ ơn, múa bóng) và thờ nữ thần của người Việt (hầu
đồng, múa bóng), là nghi lễ của đình làng (tế thần, hát tuồng), nghi lễ của Phật giáo (cầu an).
Sự hình thành hoạt động nghi lễ/lễ hội của tháp Po Ina Nagar hiện nay chịu ảnh hưởng của

bốn quá trình chính như sau:
Q trình “Việt hóa” tín ngưỡng thờ thần mẹ xứ sở của người Chăm trở thành Thiên Y A
Na của người Việt: q trình này đã tích hợp biểu tượng thần linh và nghi lễ của người Chăm, trở
thành nghi lễ múa bóng của người Việt. Khi làng Cù Lao được thành lập vào năm 1683, đình làng
quản lý trực tiếp tháp Po Ina Nagar, nữ thần Thiên Y A Na được thờ cúng bởi nghi thức tế thần
của đình làng đồng thời kết hợp với diễn xướng múa bóng của các đồn hành hương.
Q trình dung hợp giữa đạo Mẫu và đạo Phật tại tháp Po Ina Nagar: đây là q trình dung
hợp văn hóa, tín ngưỡng giữa hai biểu tượng thần linh Thiên Y A và Quan âm bồ tát. Thiên Y A Na
cũng được xem là Phật mẹ với hệ thống “kinh văn” chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Về nghi lễ, có sự
chuyển biến rõ rệt về lễ vật dâng cúng vào trong ngôi tháp chính, đó là lễ vật chay, hoa quả, khơng
sử dụng lễ vật mặn. Vào ngày đại lễ, các sư thầy của chùa Pháp Tánh sẽ đến tụng kinh cầu an.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu quản lý: Từ thập niên 1990 cho đến nay, tháp Po Ina Nagar
khơng cịn thuộc vào sự quản lý của đình làng, mà trở thành di tích lịch sử văn hóa trực thuộc Sở
Văn hóa và Thể thao.
Q trình phục hồi văn hóa truyền thống tộc người và sự tôn vinh của UNESCO dành cho
thực hành nghi lễ thờ Mẫu Tam phủ của người Việt: q trình này đã góp phần tạo thêm tính đa
dạng của văn hóa tộc người, cụ thể là nghi lễ hầu đồng tứ phủ của người Việt bắt đầu xuất hiện tại
tháp Po Ina Nagar trong thời gian gần đây; hoạt động hành hương và nghi lễ của người Chăm.
Đồng thời nghi lễ múa bóng của người Việt với đầy đủ sắc thái khác nhau cũng góp phần làm sơi
động khơng khí nghi lễ/lễ hội của tháp.
Như vậy, sự tổng hợp của các loại hình nghi lễ tại tháp Po Ina Nagar là kết quả của quá
trình dung hợp văn hóa, tơn giáo và động thái kiến tạo tính liên kết tộc người, bảo tồn văn hóa


Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53

49

truyền thống và tôn vinh giá trị nội sinh của đạo Mẫu. Hiện nay, sự đa dạng của nghi lễ trong lễ
hội hàng năm vào tháng 3 âm lịch hoặc trong những sự kiện đặc biệt tạo nên sắc thái và dấu ấn

riêng của tháp. Tại một điểm đến du lịch, tính chất đa màu sắc của nghi lễ là một trong những điểm
nhấn tạo sức hút mạnh mẽ. Với tính chất đa dạng về nguồn gốc tộc người, văn hóa, tháp Po Ina
Nagar sớm trở thành địa điểm hành hương nổi tiếng của vùng Nam Trung Bộ. Đồng thời, tháp Po
Ina Nagar cũng là một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn của thành phố Nha Trang. Đặc điểm
lịch sử, kiến trúc, văn hóa và tơn giáo của tháp Po Ina Nagar là những khía cạnh nổi trội và có sức
hút đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Hoạt động hành hương và du lịch đại chúng theo
thời gian đã phát triển đan xen vào nhau. Trong bối cảnh phát triển du lịch, đặc điểm lịch sử, văn
hóa và tôn giáo của tháp Po Ina Nagar được xem như một nguồn lực quan trọng phục vụ cho quá
trình khai thác để tạo dấu ấn và sức hút cho điểm đến.
Một số nghi lễ, lễ hội thờ nữ thần tại tháp Po Ina Nagar
• Nghi lễ hầu đồng múa
bóng
• Tính chất xuyên suốt
Văn hóa
thờ nữ thần
(người
Việt)

Văn hóa
thờ nữ thần
(người
Chăm)

Văn hóa
Phật giáo

Văn hóa
đình làng

• Nghi lễ cúng cầu an,

thả hoa đăng
• Nổi trội từ năm 2000
cho đến nay

• Nghi lễ tạ ơn, múa
bóng
• Tính chất xun suốt,
rõ nét trong thời gian
gần đây

• Nghi lễ tế thần, hát tuồng
• Tính chất xun suốt

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ tư liệu điền dã

3.2. Phát triển sản phẩm du lịch văn hóa
Tháp Po Ina Nagar là một trong những di tích tơn giáo nổi trội nhờ vị trí địa lý và giá trị
văn hóa, đồng thời là một trong những điểm đến di sản có sức thu hút khách du lịch trong và ngồi
nước. Bên cạnh giá trị kiến trúc, lịch sử, thực hành tín ngưỡng, sức hút của điểm đến này cịn liên
quan đến một sản phẩm du lịch được xây dựng từ q trình khai thác diễn xướng văn hóa dân gian
của người Chăm. Hiện nay, hai địa điểm du lịch hấp hẫn của thành phố Nha Trang là tháp Po Ina
Nagar và Hòn Chồng thuộc sự quản lý của Trung tâm Bảo tồn Di tích tỉnh Khánh Hịa có doanh
thu và lượt khách khá cao. Theo số liệu thống kê và lượt khách và doanh thu của tháp Po Ina Nagar,
lượt khách qua 10 năm (2009 - 2018) tăng 6,8 lần và doanh thu tăng 11 lần (theo Trung tâm Bảo
tồn Di tích tỉnh Khánh Hịa, 2018). Nguồn doanh thu này chủ yếu từ hoạt động bán vé. Sự phát
triển du lịch của tháp Po Ina Nagar trong bối cảnh chung của thành phố Nha Trang là minh chứng
cho sức hấp dẫn của điểm đến du lịch.
Việc xây dựng sản phẩm du lịch của tháp Po Ina Nagar phụ thuộc vào việc xác định dấu
ấn văn hóa đặc trưng, cụ thể nhất là văn hóa thờ nữ thần của người Chăm và người Việt. Tuy nhiên,
việc xây dựng sản phẩm du lịch không thuần túy dựa trên nguyên bản của một hình thức nghi lễ

nào đó, mà có xu hướng tách yếu tố thiêng ra khỏi sản phẩm du lịch. Có thể thấy rằng, nếu như xu
hướng xây dựng biểu trưng văn hóa chấp nhận tính dung hợp đa tộc người, đa tơn giáo, thì sản


50

Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53

phẩm du lịch phải là hoạt động cụ thể, dễ nhận biết, giàu tính thẩm mĩ và giải trí. Từ bối cảnh và
quan điểm trên, cho thấy xây dựng sản phẩm du lịch dựa trên giá trị văn hóa, tín ngưỡng là cần
thiết nhằm đáp ứng nhu cầu du khách, tránh sự nhàm chán, thu hút du khách quay lại, xa hơn là
nhận diện giá trị và bảo tồn văn hóa.
3.2.1. Sản phẩm du lịch diễn xướng dân gian
Quá trình khai thác văn hóa dân gian của người Chăm trở thành sản phẩm du lịch đã khởi
đầu từ năm 2004 theo chủ trương phục hồi văn hóa truyền thống, tơn trọng tính đa dạng của văn
hóa và đồn kết dân tộc. Khơng chỉ tại tháp Po Ina Nagar, diễn xướng văn hóa Chăm cịn được
phục dựng và trình diễn tại nhiều địa điểm tham quan khác như khu đền tháp Mỹ Sơn, cụ thể là
chương trình ca múa nhạc dân gian của người Chăm như múa Apsara do người Việt trình diễn.
Năm 2004 và 2005 là thời điểm tháp Po Ina Nagar có sự chuyển đổi về cơ cấu nhân sự và chủ
trương khai thác, phát triển du lịch theo nhu cầu thị trường. Do đó, yêu cầu về sản phẩm du lịch
mang đậm sắc thái văn hóa địa phương trở nên rất cấp thiết. Trong lúc này, Ban quản lý tháp đã
nhận định rằng sự hiện diện của văn hóa Chăm tại tháp Po Ina Nagar phản ánh bản sắc văn hóa
của khu vực Nam Trung Bộ, cụ thể là Nha Trang (Khánh Hịa), nơi có sự giao thoa văn hóa giữa
người Chăm và người Việt. Bên cạnh những đoàn hành hương người Chăm mang đến những hoạt
động trình diễn nghi lễ ấn tượng và sinh động với lễ vật dâng cúng, điệu múa của bà bóng người
Chăm và âm nhạc tế lễ; văn hóa dân gian Chăm cần được quảng bá cho du khách trong và ngoài
nước bằng những sản phẩm du lịch thực sự. Với chủ trương này, Ban quản lý tháp đã hướng đến
một số sản phẩm văn hóa cụ thể như gốm Bàu Trúc, thổ cẩm (dệt vải) để mang về trưng bày tại
tháp, đồng thời tạo điều kiện cho người Chăm đến tháp mở cửa hàng bán sản phẩm. Thế mạnh về
nghi lễ diễn xướng cũng là một nguồn lực để khai thác sản phẩm du lịch. Tuy nhiên, để xây dựng

một sản phẩm du lịch từ nghi lễ diễn xướng là một cơng việc rất khó khăn. Do đó, Ban quản lý
tháp đã hướng đến nghệ thuật ca múa dân gian Chăm nhằm để phục vụ du khách trong thời gian
ngắn, hướng đến sự giải trí và thu hút cái nhìn mới lạ.
Ban quản lý tháp đã mời một số thành viên đại diện trong cộng đồng người Chăm ở huyện
Ninh Phước, Phan Rang để cộng tác cùng xây dựng và tập luyện đội múa dân gian Chăm. Làng
Chăm Mỹ Nghiệp (thị trấn Phước Dân, Ninh Phước, Ninh Thuận) là nơi đội múa và đánh trống
được chọn lựa. Đây là làng Chăm vẫn cịn gìn giữ nét văn hóa truyền thống lâu đời. Với yêu cầu
của Ban quản lý tháp, cộng đồng làng Chăm Mỹ Nghiệp đã thống nhất và đồng thuận trong việc
chọn lựa thành viên của đội múa Chăm, gồm các cô gái người Chăm và nghệ nhân đánh trống,
thổi kèn. Hình thức cộng tác là thông qua hợp đồng của Trung tâm Bảo tồn Di tích với một số
nghệ nhân biểu diễn múa và đánh trống ghi-năng, thổi kèn sanarai. Đội múa người Chăm thực hiện
hợp đồng ngắn hạn theo mỗi năm, vào năm 2019, mức lương của nghệ nhân khoảng 3 triệu/tháng
và được cung cấp chỗ ở. Đội múa biểu diễn hằng ngày, nhất là khi có đồn khách du lịch đến tham
quan. Ngoài tiền lương hằng tháng, thỉnh thoảng đội múa còn nhận được tiền tip của du khách.
Một số điệu múa đã được trình diễn từ năm 2005 cho đến nay là múa đội lu, múa quạt và
múa Apsara. Đây là những điệu múa dâng lên cho nữ thần xứ sở của người Chăm, vừa có tính chất
nghi lễ vừa giàu tính nghệ thuật dân gian. Vì vậy, các cơ gái Chăm múa dưới chân tháp thờ nữ
thần Po Ina Nagar là một hình ảnh đẹp phản ánh giá trị văn hóa truyền thống của người Chăm.
Mặt khác, những điệu múa này khơng nặng về yếu tố tín ngưỡng thuần túy, có thể trình diễn ở
khơng gian đền tháp hoặc trong khơng gian làng Chăm. Ngồi ra, những điệu múa do nghệ sĩ dân
gian Chăm sáng tạo cũng giàu tính nghệ thuật và giải trí. Thời gian trình diễn là 15 phút/tiết mục
trên sân trải tấm bạt (khơng trang trí sân khấu) nhằm đảm bảo tính chân thực khi tái hiện tiết mục
múa dân gian Chăm.
Một số sản phẩm du lịch của người Chăm ở tháp Po Ina Nagar góp phần lan tỏa văn hóa
truyền thống của người Chăm ra khỏi không gian làng Chăm và hội nhập vào không gian du lịch.


Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53

51


Đây được xem là một cách thức bảo tồn văn hóa truyền thống rất hiệu quả trong bối cảnh xã hội
đương đại. Bên cạnh đó, phương pháp bảo tồn này cịn có ý nghĩa thực tiễn là khẳng định thương
hiệu của sản phẩm du lịch như gốm Chăm, thổ cẩm Chăm và múa dân gian Chăm.
Trong bối cảnh phát triển du lịch, văn hóa truyền thống đứng trước hai xu thế, hoặc là hội
nhập, biến đổi để phát triển hoặc tự tách ra khỏi bối cảnh hiện đại với nỗ lực bảo tồn trong khơng
gian truyền thống. Sản phẩm văn hóa phục vụ du lịch của người Chăm đã đáp ứng xu hướng thứ
nhất, đã vươn ra khỏi không gian truyền thống làng Chăm để du khách chiêm ngưỡng tại một địa
điểm thiêng. Ông Th. là người đi đầu trong chủ trương và thực hiện kế hoạch xây dựng sản phẩm
du lịch, cho rằng việc xây dựng sản phẩm du lịch mang lại hai lợi ích cơ bản là phát huy giá trị
văn hóa truyền thống của người Chăm, ni dưỡng văn hóa Chăm trong hoàn cảnh mới và tạo điều
kiện thu nhập cho nghệ nhân để họ dành tâm huyết bảo tồn văn hóa bằng chính hoạt động nghệ
thuật của mình.
Sự tham gia của cộng đồng với tư cách là người cộng tác và hưởng lợi đã phản ánh cụ thể
trong quá trình gắn bó với hoạt động trình diễn sản phẩm du lịch trong suốt thời gian dài với một
mức thù lao vừa phải. Mức thù lao hợp đồng dành cho nghệ nhân biểu diễn tăng dần qua nhiều
năm, đáp ứng một phần nhu cầu việc làm trong hồn cảnh khó khăn về sinh kế. Trong trường hợp
nghệ nhân C. (Phan Rang, Ninh Thuận) là người đã gắn bó với đội múa Chăm hơn 10 năm, phụ
trách chơi trống ghi-năng, vốn xuất phát từ niềm say mê với văn hóa, nghệ thuật dân gian Chăm
và mong muốn bảo tồn văn hóa truyền thống đang mai một, do đó đã tham gia đội múa để đưa làn
điệu dân gian của dân tộc mình đến với du khách trong và ngồi nước. Ơng C. cho rằng thu nhập
hằng tháng khá thấp nhưng khoản tiền tip của du khách khá lớn đã đóng góp thêm vào thu nhập,
cùng với niềm say mê và trách nhiệm bảo tồn văn hóa truyền thống đã giúp ơng trụ vững cùng đội
múa hơn một thập kỉ qua.
3.2.2. Hiệu quả của sản phẩm du lịch
Múa Chăm, gốm Chăm và thổ cẩm Chăm là những sản phẩm du lịch đầu tiên và thành
cơng tại tháp Po Ina Nagar tính đến thời điểm hiện nay. Trong đó, múa Chăm là sản phẩm diễn
xướng độc đáo nhất tạo nên hiệu quả giải trí và tái tạo cảm xúc cho du khách. Hơn thế, múa Chăm
diễn ra trong khơng gian tín ngưỡng kết hợp với nghi lễ tạ ơn của người Chăm hành hương thực
sự đã kiến tạo hình ảnh văn hóa của cộng đồng người Chăm. Đây cũng là hàm ý quảng bá văn hóa

trong phát triển du lịch, cụ thể là du khách không cần phải đến các làng Chăm cũng có thể chiêm
ngưỡng và tìm hiểu văn hóa Chăm trong một điểm đến du lịch vốn đã biểu hiện một cách chân
thực nghi lễ diễn xướng truyền thống, cùng với sự tăng cường hỗ trợ và minh họa của sản phẩm
du lịch. Mặc dù trải qua 15 năm hình thành và phát triển, song các sản phẩm du lịch của người
Chăm đã đạt đến trạng thái bão hòa về lượng và chất, chỉ diễn ra sự thay đổi về nhân sự. Đối với
vấn đề này, tồn tại nhiều quan điểm tranh luận khác nhau, một là quan điểm của nhà quản lý trước
đây cho rằng sản phẩm du lịch của người Chăm được xây dựng với mục đích chính là bảo tồn văn
hóa và lan tỏa cái đẹp của văn hóa đến du khách, tạo thêm sức hấp dẫn cho điểm đến, nhưng khơng
phá vỡ tính chất ổn định, cổ kính của khơng gian thiêng; hai là quan điểm của những nhà quản lý
hiện nay cho rằng cần tăng cường thêm sản phẩm du lịch bên cạnh sản phẩm du lịch của người
Chăm đã tồn tại nhiều năm nay. Cả hai quan điểm trên đều hướng đến mục tiêu bảo tồn văn hóa.
Trong chủ trương phát triển du lịch ở điểm thiêng của các nhà quản lý hiện nay ở Khánh Hịa đều
thống nhất khơng thương mại hóa và khơng phát triển bằng mọi giá.
“Thật ra tháp Bà có lợi thế vị trí trung tâm, cảnh quan đẹp, kiến trúc đẹp, thêm giá trị văn
hóa tác động vào nâng nó lên, cho dù khơng có du khách tham quan thì hằng ngày người
hành hương, đi cúng rất nhiều làm cho di tích sinh động. Phần diễn xướng múa Chăm
chừng đó là đủ, nếu làm hồnh tráng nữa thì khơng phù hợp, vì khách du lịch nhanh đến
nhanh đi, nên khơng thể sân khấu hóa, dàn trải cho họ xem như vậy là hợp lý. Hồi chú còn


52

Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53

làm, ln khuyến khích người nước ngồi vào cùng múa, cùng nhảy, giao lưu, phải mời
khách vào để múa cùng với nhau, chỉ cần chụp ảnh chung lưu niệm là đã thú vị. Du khách
thích lắm”. (PVS, ơng T., Nha Trang)
“Mình tạo nên sản phẩm gì đó, khơng phải riêng gì nghệ thuật khơng đâu, cái giá trị đó
thì phải giá trị cốt lõi, khơng ăn xổi ở thì, khơng chạy theo kinh tế, nó phải bộc lộ bản sắc
của dân tộc mình. Quan điểm của trung tâm không đặt nặng lắm vấn đề doanh thu. Nó là

một nơi để thu hút khách, đồng thời phục vụ cơng tác tín ngưỡng, khơng chỉ là khách Việt
mà khách Trung Quốc và khác họ cũng đến với Mẫu, họ cũng chắp tay lạy, họ cũng thực
hiện theo cách của người Việt người Chăm là xoa tay lên tượng, họ cũng rất tâm linh. Giờ
đầu tư bằng cách là tôn tạo cảnh quan xanh sạch đẹp, con người ngày một hoàn thiện hơn,
phong cách phục vụ tốt hơn, văn minh lịch sự hơn. Cịn về phía đầu tư chuyên môn sẽ đầu
tư thêm, đồng thời công tác mang tính tín ngưỡng sẽ nâng tầm lên”. (PVS, ông N., Nha
Trang)
Thành công tiếp theo của sản phẩm du lịch của người Chăm đó là tính hiệu quả của mơ
hình du lịch dựa trên sự tham gia của cộng đồng, trong đó các thành viên của cộng đồng được
tham gia và hưởng lợi từ hoạt động này, thể hiện qua một số đặc điểm như sau: cộng đồng có
quyền thảo luận để lựa chọn người tham gia (giai đoạn đầu), người tham gia là nghệ nhân dân gian
với khả năng chơi trống hoặc những cơ gái có niềm đam ca múa được cộng đồng tuyển chọn; chính
sách thù lao và ràng buộc trách nhiệm; thu nhập từ hoạt động biểu diễn được chia sẻ cho các thành
viên trong đội múa; hỗ trợ về chỗ ở và chế độ nghỉ phép.
Tóm lại, thơng qua những phát hiện của nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của khai
thác nguồn lực văn hóa trong phát triển song cần phải đảm bảo tính bền vững của văn hóa và du
lịch. Mặc dù sản phẩm văn hóa giàu tính giải trí và thẩm mĩ song sự chân thực của trình diễn văn
hóa vẫn luôn tạo sức hút đối với trải nghiệm của du khách. Do vậy, đối với những địa điểm di sản
giàu giá trị lịch sử và văn hóa truyền thống, cần thiết phải vận dụng chính sự phát triển của du lịch
trở thành cơ hội bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, đồng thời việc khai thác cần dựa trên quá trình
tham gia của cộng đồng địa phương.
4. Thảo luận
Q trình khai thác văn hóa trong phát triển du lịch tại tháp Po Ina Nagar thể hiện qua việc
xây dựng biểu trưng văn hóa và sản phẩm du lịch. Xây dựng biểu trưng văn hóa phản ánh sự hợp
tác thành công giữa nhà quản lý và một số bên tham gia khác nhằm tăng cường sự hiện diện của
trình diễn văn hóa giàu tính chân thực tạo sức hút cho điểm đến. Ở đây, cộng đồng có vai trị trung
gian tạo nên tính chân thực đó. Họ hồn tồn không tham gia hoặc chỉ cung cấp thông tin cho nhà
quản lý và một vài bên tham gia với tư cách là một tín đồ hành hương và lễ bái. Trong khi đó, các
bên tham gia đã có uy quyền tác động đến quyết định kiến tạo biểu trưng văn của nhà quản lý.
Mặc dù vậy uy quyền này luôn thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào chủ trương phát triển du lịch

và bảo tồn văn hóa. Xây dựng sản phẩm du lịch thực sự là một “sân chơi”, trong đó, cộng đồng
bước đầu khẳng định sự tham gia của mình thể hiện qua tính chất cộng tác bằng hình thức hợp
đồng với nhà quản lý. Múa Chăm (cùng một số sản phẩm khác như thổ cẩm, gốm Bàu Trúc) là sản
phẩm du lịch thành công tại tháp Po Ina Nagar trong suốt 15 năm qua.
Trong quá trình này, cộng đồng đóng vai trị như người cộng tác và thực hiện chế độ hợp
đồng với nhà quản lý, khá gần với vai trò của một bên tham gia/liên quan. Tuy nhiên, trong q
trình cộng tác, người tham gia khơng có nghĩa vụ đóng góp ý kiến với nhà quản lý, ngoài ra, họ
phải tuân thủ theo các quy định theo hợp đồng. Có thể thấy rằng, mơ hình du lịch dựa vào cộng
đồng này chỉ dừng lại ở sự tham gia mang tính cộng tác của cộng đồng đối với nhà quản lý mặc dù
cũng có hơi hướng của một bên tham gia thông qua sự ràng buộc về hợp đồng. Ngồi ra, do tính
chất bão hịa của sản phẩm du lịch, cho nên cơ hội đóng góp ý kiến của người tham gia rất thấp.


Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53

53

5. Kết luận và khuyến nghị
Sự gia tăng của du lịch đại chúng tác động lên kinh tế - xã hội và văn hóa mang đến lợi ích
song cũng hàm chứa ảnh hưởng tiêu cực. Trong bối cảnh phát triển du lịch di sản của tháp Po Ina
Nagar, khai thác nguồn lực văn hóa, xây dựng sản phẩm du lịch vừa là giải pháp tăng sức hút của
điểm đến đồng thời là cơ hội để bảo tồn văn hóa. Tuy nhiên, q trình này cần thiết phải đảm bảo
sự tham gia của cộng đồng, trao đổi ý kiến và trình diễn nghi lễ. Nhu cầu trải nghiệm của du khách
không chỉ đến từ phong cảnh, kiến trúc mà còn đến từ hoạt động nghi lễ, lễ hội hoặc những diễn
xướng dân gian truyền thống giàu tính nghệ thuật. Nghiên cứu này cũng cho thấy xu hướng xây
dựng sản phẩm du lịch gắn liền với trình diễn văn hóa của cộng đồng địa phương, đồng thời hạn
chế hoạt động nghệ thuật dàn dựng mà để cho diễn xướng, nghi lễ, lễ hội, hành hương diễn ra chân
thật. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng gợi mở về cách thức gia tăng sự tham gia của cộng đồng
địa phương trong bảo tồn văn hóa truyền thống.
Sự tham gia là vấn đề quan trọng bậc nhất trong khai thác văn hóa phát triển du lịch hiện

nay. Nghiên cứu này đề xuất giải pháp đối với quá trình tham gia khai thác nguồn lực văn hóa gồm
ba giai đoạn như sau: 1) xác định mức độ tham gia của cộng đồng; 2) xây dựng cơ chế hợp tác; 3)
đóng góp vào q trình ra quyết định theo mức độ tham gia. Qua đó cung cấp góc nhìn mới về
việc khai thác văn hóa trong mối tương tác với nhiều bên tham gia khác nhau, trong đó cộng đồng
phải trở thành một bên tham gia/liên quan như các bên tham khác. Từ q trình tái hiện tính chân
thực trong thực hành thờ cúng cho đến sản phẩm du lịch, cộng đồng là tác nhân quan trọng nhất
để thúc đẩy sự trải nghiệm của du khách, nhờ đó củng cố và bảo vệ nguồn lực văn hóa. Nghiên
cứu này cũng gợi mở một số khả năng mới trong hợp tác song phương hoặc đa phương giữa nhà
quản lý với các đối tượng khác thông qua sự thành công của sản phẩm du lịch. Tuy nhiên, sự phát
triển du lịch tại một khơng gian tín ngưỡng tơn giáo chỉ là hoạt động có tính chất phụ trợ, yếu tố
chính vẫn là thực hành thờ cúng và sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng. Việc phát triển du lịch chỉ
là một yếu tố để tạo nên môi trường trao đổi, chia sẻ liên văn hóa và tạo động lực thúc đẩy sự hợp
tác giữa cộng đồng với nhà nghiên cứu, quản lý và một số bên tham gia khác.
Tài liệu tham khảo
MacCannell, D. (1976). The tourist: A new theory of the leisure class. Berkeley, LA and London:
University of California Press.
Macleod, D. V. L., & Carrier, J. G. (Eds.) (2010). Tourism, power and culture: Insights from
Anthropology. Bristol, UK: Channel View Publications.
Maspero, G. (1928). Le royaume de Champa. Paris et Bruxelles: Les Edition G. Van Oest.
Nguyen, B. C. (2000). Khái quát về văn hóa tiền - sơ sử Khánh Hịa. Khánh Hịa diện mạo một
vùng đất [An overview of prehistoric culture - Khanh Hoa. A new look of Khanh Hoa]. Phân
Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Khánh Hòa, 2, 11-12.
Okazaki, E. (2008). A community-based tourism model. Journal of Sustainable Tourism, 16(5),
511-530. doi:10.2167/jost782.0
Parmentier, H. (1902). Le sanctuaire de Po-Nagar à Nhatrang. Bulletin de l'Ecole franҫcaise
d'Extrême-Orient, 2, 17-54.
Schweyer, A.-V. (2004). Po Nagar de Nha Trang (1re partie). Aséanie, 14, 109 - 140.
Theodossopoulos, D. (2010). Tourists and indigenous culture as resources: Lessons from embera
cultural tourism in Panama. In D. V. L. Macleod & J. G. Carrier (Eds.), Tourism, power and
culture: Insights from Anthropology (pp. 115-132). Bristol, UK: Channel View Publications.

Tư liệu điền dã tại Nha Trang (Khánh Hòa), 2019.



×