Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Tuyển tập những bài văn mẫu hay nhất phân tích bài thơ Đất nước ôn thi tốt nghiệp THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.11 KB, 56 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bài văn mẫu lớp 12</b>



<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm </b>



<b>Dàn ý phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm </b>



<b>I. Mở bài: </b>


- Sơ lược về nền văn học 1945-1975, giới thiệu tác phẩm.
II. Thân bài:


a. Đất Nước có từ bao giờ?


- Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu
chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa.


- Gợi ra những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, truyền
thuyết.


+ Sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình
nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái
phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng.


+ Truyền thuyết Thánh Gióng vơ cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu
nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.


- Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục.


+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc
trịn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa.



+“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống
coi trọng tình nghĩa vợ chồng.


+ Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con
người Việt Nam trong cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa,...


<b>b. Đất nước là gì? </b>


- Về khơng gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến
trường”, “nơi em tắm”,... là không gian gần gũi, thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng lại


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’, “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về
sau những ngày tháng xa quê hương.


- Về thời gian lịch sử:


+ Quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về giống
nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về
truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông.


+ Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong
mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những
phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống.


+ Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai
được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để
làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước.


<b>c. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân: </b>



- Trên phương diện không gian địa lý:


- Cảm nhận Đất Nước qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng
nhắc tên chúng một cách dày đặc trong từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả
đối với quê hương, đất nước.


- Gợi nhắc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.


- Nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sơng nối liền, từ đó gợi lên ý chí
thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta.


- Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình
cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nhắc
lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống hiếu học
của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm
nên thắng cảnh cho quê hương.


=> Khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là
do nhân dân cùng góp cơng, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.


<b>* Phương diện thời gian lịch sử: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Suốt 4000 năm lịch sử, nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai
nhớ mặt đặt tên” nhưng họ chính là những người làm ra Đất Nước.


- Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là
người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần.


<b>* Trên bình diện văn hóa: </b>



- Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt
Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc Việt nói chung.


- “u em từ thuở trong nơi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm
trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình.


- “Cầm vàng mà lội qua sơng/Vàng rơi khơng tiếc, tiếc cơng cầm vàng”, từ đó thấy
được vẻ đẹp của lịng biết q trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm
thường.


-“Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.


<b>III. Kết bài: </b>


- Tổng kết giá trị nội dung nghệ thuật.


<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 1 </b>



Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh
cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều
tác giả chọn đưa vào tác phẩm của mình mới những vần thơ, lời văn chân thành tha
thiết, thấm đẫm hào khí dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ
trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng chọn cho mình đề tài đất
nước, giữa những năm tháng cuộc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục
sôi máu lửa. Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đặt nặng trong tác phẩm của mình
màu sắc tun truyền, khơng ồn ào, rộn rã mà ơng cho riêng cho mình một chất giọng



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bằng
một cách rất riêng, bằng một cảm xúc mới lạ giữa thời chinh chiến “hoa lửa”, ơng
nhìn nhận Tổ quốc từ những điều giản dị, từ những con người rất đỗi bình thường. Sử
dụng thành cơng giọng thơ mang tính triết luận trữ tình, đặc biệt là sự kết hợp với các
chất liệu văn hóa dân gian lấy từ vốn hiểu biết rộng lớn của nhà thơ về văn hóa ngàn
đời của dân tộc. Tất cả đã tạo nên một Đất Nước với vẻ giản dị, thân thương, Đất
Nước của nhân dân, một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền
thuyết, những phong tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào.


<i>“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi </i>


<i>Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể </i>
<i>Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn </i>


<i>Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc </i>
<i>Tóc mẹ thì bới sau đầu </i>


<i>Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn </i>
<i>Cái kèo, cái cột thành tên </i>


<i>Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng </i>
<i>Đất Nước có từ ngày đó…” </i>


Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác giả đi vào phân tích và làm rõ vấn đề Đất
Nước có từ bao giờ. Trong 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất
Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ
tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa. Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây
giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son
sắt thủy chung. Khơng chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác giả còn gợi lại những


cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua
Hùng dựng nước và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước
lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta
nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng vơ cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Như vậy, có thể thấy rằng
Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế nhưng Đất
Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần u nước, có được lịng
dũng cảm, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đi từ những câu
chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có
từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc
người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc trịn, thấp sau gáy của các bà, các
mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy
chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca
Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn
kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. “Cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ
chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở nên thương yêu
và gắn kết bền chặt với nhau hơn.


Thứ ba nữa, Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển
của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ
chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu
chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho
mình. Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ
cái chỗ nhân dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh,
thì người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt
gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống. Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên
để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác giả đã chốt lại bằng câu thơ “Đất
Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày


chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là
ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa. Có thể nói Đất Nước mà
Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi, thân thuộc và bình dị, để lại
trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vơ cùng.


<i>“Đất là nơi anh đến trường </i>
<i>Nước là nơi em tắm </i>
<i>Đất Nước là nơi ta hò hẹn </i>


<i>Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm </i>
<i>Đất là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc” </i>


<i>Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi </i>
<i>Thời gian đằng đẵng </i>


<i>Không gian mênh mông </i>
<i>Đất Nước là nơi dân mình đồn tụ” </i>


Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình
tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ơng khơng trả lời khái niệm này theo
cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự,
tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người
đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về
phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví ““Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi
em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời
thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong
nỗi nhớ thầm”, tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và
em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra


thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hị hẹn” và Đất Nước trở
thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình u của lứa đơi. Khơng chỉ thế
“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hịn núi bạc...Đất Nước là nơi dân mình
đồn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu ở trên ta thấy một Đất
Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng
vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc,
được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Và cuối cùng dù đi đâu về đâu


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

thì phượng hồng cũng phải về núi, cá ngư ơng thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc
Việt Nam thì phải đồn tụ ở nơi có tên là Đất Nước. Như vậy có thể tóm gọn lại Đất
Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.


<i>“Đất là nơi Chim về </i>
<i>Nước là nơi Rồng ở </i>
<i>Lạc Long Quân và Âu Cơ </i>
<i>Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng </i>


<i>Những ai đã khuất </i>
<i>Những ai bây giờ </i>
<i>Yêu nhau và sinh con đẻ cái </i>
<i>Gánh vác phần người đi trước để lại </i>


<i>Dặn dò con cháu chuyện mai sau </i>
<i>Hằng năm ăn đâu làm đâu </i>
<i>Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” </i>


Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng
một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính
xác nhất. Trong q khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi
nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân


tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng
dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua
Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha
thiết, phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nịi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ
gìn non sơng gấm vóc, và ln nhớ về nguồn cội của mình với tấm lịng thành kính,
trân trọng.


<i>“Trong anh và em hơm nay </i>
<i>Đều có một phần Đất Nước </i>


<i>Khi hai đứa cầm tay </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm </i>
<i>Khi chúng ta cầm tay mọi người </i>


<i>Đất nước vẹn tròn, to lớn” </i>


Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong
mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những
phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất
Nước trong chúng mình hài hịa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi
ta hị hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình u lứa đơi mỗi con người phải có trách nhiệm
xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hịa nồng thắm”.
Khơng chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người cịn là “cầm tay mọi người”,
phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên
một “đất nước vẹn trong to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ
vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” cịn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở
chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau.


<i>“Mai này con ta lớn lên </i>


<i>Con sẽ mang đất nước đi xa </i>
<i>Đến những tháng ngày mơ mộng” </i>


Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai
được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để
làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước. Con sẽ đưa Đất Nước đi xa,
sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới, đưa Đất Nước trở nên giàu đẹp vững
mạnh gấp nhiều lần hôm nay.


Sau khi đã định nghĩa một cách rõ ràng Đất Nước cả về không gian và thời gian, cả về
địa lý lẫn lịch sử thì Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại bằng những câu thơ rất tha thiết
về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình </i>
<i>Phải biết gắn bó san sẻ </i>


<i>Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở </i>
<i>Làm nên Đất Nước mn đời…” </i>


Lời thơ như là lời tâm tình của người anh với người em, lời tâm tình của chàng trai đối
với một người con gái, cũng là lời lay tỉnh của nhà thơ, của thế hệ trước với thế hệ
sau, cũng là lời lay tỉnh của cách mạng đối với tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam, những con người đang ngủ quên trong cuộc sống hưởng thụ . Đất Nước là một
khái niệm trừu tượng, thế nhưng khi so sánh Đất Nước với hình ảnh “máu xương của
mình” thì đó lại là một khái niệm cụ thể, hữu hình. Đây cũng là phần nối tiếp trong ý
thơ “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước”, thì ở đây Nguyễn Khoa
Điềm đã chỉ rõ Đất Nước là máu xương của mỗi con người, đã là phần căn cơ cốt yếu
trong mỗi cá nhân, ai cũng phải có. Điệp từ “phải biết” trong hai câu thơ sau là biểu
hiện của một mệnh lệnh, xác định trách nhiệm cho mỗi người, yêu nước không phải là
một khái niệm chung chung, một tư tưởng trừu tượng mà yêu nước phải thực hiện


bằng hành động. Mỗi con người cần phải biết “gắn bó san sẻ”, đặc biệt phải “biết hóa
thân cho dáng hình xứ sở”, dâng cả sự sống, thanh xuân cho Đất Nước, coi trọng Đất
Nước hơn cả hạnh phúc riêng của bản thân mình.


Sau những dịng thơ nêu nên sự hình thành và phát triển của Đất Nước thì Nguyễn
Khoa Điềm bắt đầu đi vào nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân, bằng câu hỏi
Đất Nước do ai làm nên.


<i>“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu </i>
<i>Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống Mái </i>


<i>Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại </i>
<i>Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương </i>


<i>Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm </i>


<i>Người học trị nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh </i>
<i>Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm” </i>


Trên phương diện không gian địa lý, tác giả đã cảm nhận Đất Nước qua những địa
danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong
từng ý thơ. Đặc biệt những địa danh này vốn đã trở nên quen thuộc với người dân Việt
Nam và gắn liền với những cổ tích, những thần thoại trong văn hóa dân tộc, mục đích
là để gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước. Không chỉ vậy,
sâu xa hơn nữa việc Nguyễn Khoa Điềm liệt kê các địa danh như vậy cũng là nhằm kể
tên các vùng đất tương ứng trên dải đất hình chữ S, ví như “núi Vọng Phu” ngự ở
Lạng Sơn, và còn ở rất nhiều nơi khác, gợi nhắc về hình ảnh những người vợ chờ
chồng đi đánh giặc trên khắp Tổ quốc. Rồi “hịn Trống Mái” thì ở Thanh Hóa, “trăm


ao đầm” mà gót ngựa Thánh Gióng đi qua thì rải rác khắp mọi miền đất nước, “đất tổ
Hùng Vương” là vùng Phú Thọ, “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng Ngãi, “Hạ Long” ở
Quảng Ninh, “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” là những địa danh ở mảnh đất
miền Nam. Thêm nữa, việc nhắc đến các vùng đất khắp Tổ quốc như vậy còn là để
nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí
thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta. Đồng thời những danh lam
thắng cảnh ấy cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung
son sắt trong tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam, nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền
thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc,
con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương. Ngoài ra việc sử dụng cấu trúc thơ
độc đáo, một bên là con người, sự vật sự việc dung dị đại diện cho hình ảnh của nhân
dân, một bên là những địa danh, những thắng cảnh kỳ vĩ, lớn lao đại diện cho hình ảnh
của Đất Nước được nối với nhau bằng những từ “góp”, “góp tên”, “góp mình”,... Đã
khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do
nhân dân cùng góp cơng, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi </i>


<i>Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha </i>
<i>Ơi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy </i>


<i>Những cuộc đời đã hố núi sơng ta…” </i>


Sau khi diễn giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân ở các chi tiết, thì Nguyễn Khoa
Điềm chuyển sang nâng ý thơ lên tầm khái quát. Khẳng định tầm vóc kỳ của Đất
Nước vĩ ở phương diện địa lý qua hình ảnh “khắp ruộng đồng gị bãi” để mở ra một
không gian lớn lao cao rộng, sau đó khẳng định sự trường tồn, vĩnh hằng của Đất
Nước ở phương diện lịch sử “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm”. Từ đó dẫn dắt, khẳng
định nhân dân chính là người đã tạo ra Đất Nước vừa kỳ vĩ, vừa có bề dày lịch sự ở


những ý thơ rất hay “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi/Chẳng mang một dáng
hình, một ao ước, một lối sống ơng cha” cùng với “Ơi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi
đâu ta cũng thấy/Những cuộc đời đã hố núi sơng ta…”. Rất tha thiết, nồng đượm yêu
thương khẳng định Đất Nước đã được tạo nên bằng chính cuộc đời của các thế hệ cha
ơng, bằng các dáng hình, những ước mơ, những phong tục tập quán đã in hằn trên
dáng vẻ của Đất Nước.


<i>“Em ơi em </i>
<i>Hãy nhìn rất xa </i>


<i>Vào bốn ngàn năm Đất Nước </i>
<i>Năm tháng nào cũng người người lớp lớp </i>


<i>Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta </i>
<i>Cần cù làm lụng </i>


<i>Khi có giặc người con trai ra trận </i>
<i>Người con gái trở về nuôi cái cùng con </i>
<i>Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh </i>


<i>Nhiều người đã trở thành anh hùng </i>
<i>Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ </i>


<i>Những em biết khơng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Có biết bao người con gái, con trai </i>
<i>Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi </i>


<i>Họ đã sống và chết </i>
<i>Giản dị và bình tâm </i>


<i>Không ai nhớ mặt đặt tên </i>
<i>Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” </i>


Tư tưởng Đất Nước của nhân dân tiếp tục được khẳng định thông qua phương diện
thời gian lịch sử. Trong suốt 4000 năm nhân dân đã chăm chỉ cần cù để xây dựng Đất
Nước, khi có chiến tranh thì người con trai lập tức ra trận bảo vệ Đất Nước. Còn
người con gái trở thành người chèo chống gia đình, ni con cái, thế nhưng mang
trong mình dịng máu Bà Trưng Bà Triệu, họ cũng trở nên mạnh mẽ kiên cường cả
trong chiến đấu. Sự anh dũng của ông cha ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm đã
khiến họ trở thành những người anh hùng lưu danh sử sách, thế nhưng bên cạnh


những con người hữu danh thì người ta thấy nhiều hơn là những con người vô danh
“không ai nhớ mặt đặt tên”. Dù không ai nhớ mặt đặt tên, thế nhưng những thế hệ sau
vẫn ln trân trọng, u q bởi họ chính là người làm ra Đất Nước.


<i>“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng </i>
<i>Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi </i>


<i>Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói </i>
<i>Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân </i>


<i>Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái </i>
<i>Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm </i>


<i>Có nội thù thì vùng lên đánh bại </i>
<i>Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” </i>


Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân cịn là người
làm nhiệm vụ vơ cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị
văn hóa vật chất và tinh thần. Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh nông



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

nghiệp lúa nước ngàn đời, truyền cho con cháu ngọn lửa sáng ngời sau bao năm tháng
sống trong tối tăm, lạnh lẽo. Truyền cho con thứ ngơn ngữ tiếng nói của riêng dân tộc
mình, giữ cho mình cái văn hóa làng, xã trong mỗi chuyến di dân, tạo dựng cơ sở vật
chất, đất đai để cho các thế hệ kế tiếp phát triển trên mảnh đất ấy.


<i>“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại </i>
<i>Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” </i>


<i>Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội </i>
<i>Biết trồng tre đợi ngày thành gậy </i>


<i>Đi trả thù mà không sợ dài lâu” </i>


Trên bình diện văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm cũng chỉ ra những nét đẹp riêng của tâm
hồn Việt, của văn hóa Việt. Vì “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần
thoại” thế nên khi nhìn vào kho tàng văn học dân gian đều thấy hiện lên diện mạo văn
hóa của Đất Nước, thấy được hình bóng của nhân dân những con người mang đậm nét
truyền thống của dân tộc. Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp
tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc
Việt nói chung. “u em từ thuở trong nơi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp
say đắm trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình. Tiếp
theo là câu “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ
đó thấy được vẻ đẹp của lịng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất
tầm thường. Cuối cùng là câu tục ngữ “Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy
gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của
nhân dân ta từ bao đời nay.


<i>“Ơi những dịng sơng bắt nước từ lâu </i>
<i>Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát </i>


<i>Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác </i>


<i>Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Kết lại đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng thì tác giả đã nêu lên
những cảm nhận rất tinh tế về vẻ đẹp của q hương, của Đất Nước. “dịng sơng” dù
có bắt nguồn từ đâu thì khi chảy đến mảnh đất quê hương cũng đều mang giọng hát
của Đất Nước, mang đậm bản sắc của dân tộc. Mỗi con người Việt Nam, trong công
cuộc mưu sinh, lao động trên cái dịng chảy ấy lại có những cách ứng xử khác nhau
rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến.


Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước với giọng văn chính luận trữ tình đã bộc
lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết của mình đối với đất nước trên
nhiều bình diện, địa lý, lịch sử, và bình diện văn hóa với tư tưởng bao trùm xuyên suốt
ấy là tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Về nghệ thuật đoạn trích được viết theo lối quy
nạp, biểu hiện nội dung chính luận một cách trữ tình bằng cách mượn các chất liệu
văn hóa dân gian thân thuộc, mượt mà, êm ái, mang đến cho người đọc những xúc
cảm thẩm mỹ độc đáo. Giọng điệu xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình tình,
tha thiết, sâu lắng như giọng điệu của đôi lứa yêu nhau làm cho nội dung nghị luận
vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào lòng người.


<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 2 </b>



Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước
chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hồng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng
ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh,
đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất
nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh
được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khống của Nguyễn Khoa
Điềm



Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử.
Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của
cảm xúc chính tác giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với
những ngày đầu mới khai sinh:


<i>Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi </i>
<i>Đất nước có trong những cái ngày xửa </i>


<i>Ngày xưa mẹ thường hay kể </i>


<i>Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn </i>
<i>Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc. </i>


Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó khơng phải là một khái
niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi
chúng ta. Tác giả sử dụng từ "khi" để đánh dấu sự ra đời của khái niệm "đất nước". Từ
khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lý giải
nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu
nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những "ngày xưa ngày xưa". Đó như một nốt
nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ :ngày xửa, ngày
xưa" đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ
biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh
giặc. Là những con người đó làm nên đất nước...


Đất nước cịn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam.


Tác giả khơng chỉ dừng lại ở đó, đất nước cịn được lý giải chính là thành quả của


cơng cuộc lao động để xây dựng và phát triển:


<i>Cái kèo cái cột thành tên </i>


<i>Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng </i>
<i>Đất nước có từ ngày đó </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt
của con người như "kèo, cột" đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị,
rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.


Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất
nước, đó là chuyện tình u lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:


<i>Đất là nơi anh đến trường </i>
<i>Nước là nơi em tắm </i>
<i>Đất nước là nơi ta hò hẹn </i>


<i>Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khan trong nỗi nhớ thầm </i>


Đất nước không chỉ hiện hiển trong không gian văn hóa, phong tục tập qn của con
người mà cịn hiện lên trong những tình u lứa đơi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả
đã cắt nghĩa "đất nước" thành hai từ "đất" và "nước" để lý giải cụ thể ý nghĩa của từng
từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được
tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.


Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn
hóa, của những con người vẫn cịn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng q hương. Đất
nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà
người đời sau vẫn ln nhắc nhở nhau. Hình ảnh "con chim phượng hồng", "núi bà


đen, bà điểm", "lạc long quân âu cơ" chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều
thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. NHớ về cội nguồn, nhớ về những ngày
xưa vất vả chính là đạo lý, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân
ta.


Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:


<i>Những ai đã khuất </i>
<i>Những ai bây giờ </i>
<i>Yêu nhau và sinh con đẻ cái </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i>Gánh vác phần người đi trước để lại </i>
<i>Dặn dò con cháu chuyện mai sau </i>


Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định.
Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải
cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.


Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía
cạnh lịch sử, khía cạnh khơng gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức
đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.


Hơn hết tác giả còn khẳng định


<i>Trong anh và em hơm nay </i>
<i>Đều có một phần đất nước </i>


Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách
nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của
đất nước này.



Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:


<i>Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi </i>


<i>Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha </i>
<i>Ơi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy </i>


<i>Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta </i>


Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể
phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế.


Đất nước cịn biểu tượng cho lịng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã
xuống vì hịa bình, tự do cho hôm nay:


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i>Họ đã sống và chết </i>
<i>Giản dị và bình tâm </i>
<i>Khơng ai nhớ mặt đặt tên </i>
<i>Nhưng họ đã làm ra đất nước </i>


Lại thêm một sự lý giải đúng đắn cho định nghĩa "đất nước", những con người đó họ
dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại.


Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng
đắn và sâu sắc nhất về đất nước:


<i>Đất nước này là đất nước của nhân dân </i>


<i>Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại . </i>



Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc
về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.


Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã
khẳng định được vị trí, vai trị vơ cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi
con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn cịn sống mãi
trong lịng người đọc.


<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 3 </b>



Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim
con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua
những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào
của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời
lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ
trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn tồn
vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng
ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ
muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ
trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.


Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với
hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước.


<i>Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi </i>
<i>Đất Nước có trong những cái ngày xửa </i>



<i>Ngày xưa mẹ thường hay kể </i>


<i>Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn </i>
<i>Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. </i>


Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình
trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre
trước ngõ... gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son
tình nghĩa anh em, nhưng cũng vơ cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả
cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn
nguồn lịch sử dân tộc.


Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của
một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình u thương gắn bó với mái ấm gia
đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất
nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia.
Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của
một ai đó hơm nào : Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng
quên nhau.


Đất nước cịn là thành quả của cơng cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà
cửa:


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i>Cái kèo cái cột thành tên </i>


<i>Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng </i>
<i>Đất Nước có từ ngày đó. </i>


Ở đây Đất nước khơng cịn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và


giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng
của mình về đất nước với quan niệm "Đất nước của nhân dân".


Vẫn bằng lời trị chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn
Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :


<i>Đất là nơi anh đến trường </i>
<i>Nước là nơi em tắm </i>
<i>Đất Nước là nơi ta hò hẹn </i>


<i>Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. </i>


Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lý mênh mơng từ rừng đến bể
mà cịn được cảm nhận bởi khơng gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, khơng
gian của tình u đơi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được
gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi
ra từ đó. Sử dụng lối chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý
nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta
về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.


Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu
hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hị hẹn. Khơng
những thế, đất nước cịn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những
người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp
khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn - biểu tượng của nỗi nhớ thương - đã từng
làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : "Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất...",


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của
những tâm hồn yêu thương say đắm.



Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con
chim phượng hồng bay về hịn núi bạc, con cá ngư ơng móng nước biển khơi mang
phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước
mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vơ cùng, nhất
là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc
cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng
về cội nguồn.


Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian
mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đồn tụ, là khơng gian sinh tồn của cộng đồng
Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và
Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu
Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội
nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất
tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.


Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:


<i>Những ai đã khuất </i>
<i>Những ai bây giờ </i>
<i>Yêu nhau và sinh con đẻ cái </i>
<i>Gánh vác phần người đi trước để lại </i>


<i>Dặn dò con cháu chuyện mai sau </i>


Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống
lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong
chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lý, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian
lịch sử, trong bề dày của văn hóa - phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì
tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ quy chiếu mọi
cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.


Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng
ta:


<i>Trong anh và em hôm nay </i>
<i>Đều có một phần đất nước </i>


Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người,
vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả
đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần
của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.


Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra
Đất nước.


Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh
lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hịn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên... khơng cịn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được
cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là
những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người khơng tên tuổi :
"Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ
chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái", "Người học trị thắng cảnh". Ở đây cảnh vật
thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn,
máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi
dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dịng sơng. Từ những hình ảnh, những cảnh
vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc :



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi </i>


<i>Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha </i>
<i>Ơi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy </i>


<i>Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta. </i>


Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử
bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ khơng ca ngợi các triều đại, khơng nói đến
những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vơ
danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người
vơ danh bình dị đó.


<i>Họ đã sống và chết </i>
<i>Giản dị và bình tâm </i>
<i>Khơng ai nhớ mặt đặt tên </i>
<i>Nhưng họ đã làm ra Đất nước </i>


Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau
các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm
xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài
thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo :


<i>Đất nước này là Đất nước nhân dân </i>


<i>Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại </i>


Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng


vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân
tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quý trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm
hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách
reo vui...


Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành cơng cho mảng thơ viết về Đất
nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước khơng cịn xa lạ,
trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của


Nguyễn Khoa Điềm ta khơng chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần
dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.


<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 4 </b>



Từ bao đời nay, đất nước luôn là đề tài muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ, nhà
văn từ khắp mọi miền, tình yêu quê hương đất nước dường như đã đi vào từng câu hát,
từng lời văn, lời thơ. Khơng giống như đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Hồng
Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài đất nước hiện lên thật
đầy đủ và trọn vẹn. Bài thơ "Đất nước" của tác giả xoay quanh cuộc sống sự gần gũi,
bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường,
mạnh mẽ vươn lên trên mọi sóng gió.


Ngay từ đầu, những vần thơ đầy nhẹ nhàng, bình dị đến thân thương đã dẫn dắt người
đọc trở về thuở sơ khai, khi đất nước mới được sinh ra:


<i>"Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi </i>



<i>Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể </i>
<i>Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn </i>


<i>Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc… </i>
<i>Tóc mẹ thì bới sau đầu </i>


<i>Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn </i>
<i>Cái kèo, cái cột thành tên </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng </i>
<i>Đất Nước có từ ngày đó... " </i>


Bằng những lời thơ bình dị mà tinh tế, khái niệm "Đất nước" đã được nêu lên thật cụ
thể. Đất nước hiện ra thật đẹp đẽ, giản đơn mộc mạc hơn bao giờ hết, khơng biết có từ
bao giờ, chỉ biết trong những câu chuyện mẹ kể từ rất bé thì đất nước đã có rồi. Người
đọc như được dẫn dắt trở về với quá khứ, với những điều thân quen đầy nhưng nhớ
"ngày xửa ngày xưa", một khoảng


Không gian dài đằng đẵng hiện lên, thật xa vời nhưng cũng gần gũi đến lạ thường.
Không xác định được một mốc dấu cụ thể, chính xác. Tiếp theo, đất nước được hiện
lên qua miếng trầu bà ăn, qua hình ảnh những lũy tre xanh bên làng quanh năm mưa
nắng nhọc nhằn. Đất nước đã lớn lên và vượt qua bao khó khăn từ khi người dân mình
biết trồng tre đánh giặc, bảo vệ xóm làng, bảo vệ từng tấc đất thân yêu của quê hương.
Hay cả những hình ảnh thật đơn giản, nhưng lại có một tình cảm dào dạt chan chứa, là
hình ảnh mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rồi cả
những hình ảnh mộc mạc tưởng như vơ tri, vô giác nhưng lại mang một linh hồn của
sự sống "cái cột", "cái kèo", hạt gạo tinh trắng tượng trưng cho hình ảnh đẹp đẽ của
đất nước trải qua biết bao thăng trầm, chông gai.


Đất nước được thấy qua cái nhìn đơn giản của người dân lao động chất phác, chân lấm


tay bùn nhưng tình cảm vẫn luôn nồng nàn, đằm thắm.


Bằng những lời thơ bình dị như thế, đất nước tiếp tục được nhà thơ vẽ ra qua cái nhìn
của một tình yêu trong sáng, thuần khiết lứa đôi:


<i>"Đất là nơi anh đến trường </i>
<i>Nước là nơi em tắm </i>
<i>Đất Nước là nơi ta hò hẹn </i>


<i>Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" </i>
<i>Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm, </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Đất Nước là nơi hẹn hò, là nỗi nhớ thầm da diết. Một sự hội tụ đầy tương xứng đẹp
đẽ đến bất ngờ, sự nảy mầm và ra hoa kết trái của Đất-Nước như chính tình yêu xanh
tươi được vun đúc để tạo thành nỗi nhớ vơ bến bờ. Đất nước được hình thành từ chính
những tình u lứa đơi chung thủy, mặn nồng hịa quyện vào tình u to lớn của q
hương đất nước.


Không phải là một khoảng không thênh thang, rộng lớn bao la, Đất nước còn hiện hữu
trong chính khơng gian sinh hoạt, cuộc sống bình dị của người dân:


<i>"Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc" </i>
<i>Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi" </i>


<i>Thời gian đằng đẵng" </i>


Như quay ngược thời gian, mảnh đất đầu tiên đã có, những người con đất việt đầu tiên
đã đặt chân lên cái nền móng của quê hương từ thời tổ tiên Lạc Long Quân và Âu Cơ:


<i>"Đất là nơi Chim về </i>


<i>Nước là nơi Rồng ở </i>
<i>Lạc Long Quân và Âu Cơ </i>
<i>Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng" </i>


Cội nguồn của một dân tộc hào hùng dần lộ ra qua những lời thơ quá rõ ràng của tác
giả. Khẳng định chắc chắn rằng đất nước đã có từ rất lâu, từ thời Lạc Long Quân và
Âu cơ, những người tổ đã khai hoang nên mảnh đất màu mỡ, xanh tươi của cuộc sống
với biết bao trang sử hào hùng, lẫm liệt.


Hay đất nước lại trở về với sự gần gũi quanh ta, về với mái nhà của sự yêu thương,
che chở:


<i>"Những ai đã khuất </i>
<i>Những ai bây giờ </i>
<i>Yêu nhau và sinh con đẻ cái </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>Gánh vác phần người đi trước để lại </i>
<i>Dặn dò con cháu chuyện mai sau </i>


<i>Hằng năm ăn đâu làm đâu </i>
<i>Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ </i>


<i>Trong anh và em hơm nay </i>
<i>Đều có một phần Đất Nước </i>


<i>Khi hai đứa cầm tay </i>


<i>Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm </i>
<i>Khi chúng ta cầm tay mọi người </i>



<i>Đất Nước vẹn tròn, to lớn" </i>


Tác giả như khẳng định một trách nhiệm to lớn cho thế hệ đi sau, nó như một cây cầu
cịn dang dở trên con đường đi tới ngày mai của đất nước. Không chỉ có vậy, đất nước
vẹn trịn, to lớn khi tất cả mọi người cùng nắm tay, cùng nhau xây dựng, vun đắp nên
một đất nước hịa bình, tươi đẹp.


Và hơn thế nữa, đất nước sẽ còn đi xa, đi tới những chân trời mộng mơ, và mãi trường
tồn vững vàng:


<i>"Mai này con ta lớn lên </i>
<i>Con sẽ mang Đất Nước đi xa </i>
<i>Đến những tháng ngày mơ mộng </i>
<i>Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình </i>


<i>Phải biết gắn bó và san sẻ </i>


<i>Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở </i>
<i>Làm nên Đất Nước muôn đời... " </i>


Gánh nặng như được sẻ chia cho thế hệ sau, giữ gìn đất nước hịa bình và ln thật
tươi đẹp để có thể vươn xa hơn trong tương lai. Như một lời nhắn nhủ đầy tha thiết,
dạy cho con cháu phải biết sống và đấu tranh cho chính quê hương thân yêu, san sẻ và


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

gắn bó cùng đất nước như chính xương thịt, ruột gan của mình để làm nên Đất Nước
muôn đời.


Đi sâu vào từng ngõ ngách trên đất nước Việt Nam, tác giả đã vẽ nên một bức tranh
toàn cảnh với đầy đủ những núi non trập trùng, hiên ngang như chính dáng hình đất
nước, cả những dịng sơng sâu thẳm, nước xanh một màu. Đất Nước hiện hữu khắp


mọi nơi, tác giả như muốn nói rằng đất nước là do nhân dân làm nên từ mn đời
bằng chính tình u nồng thắm, chân thành:


<i>"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu </i>
<i>Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái </i>


<i>Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại </i>
<i>Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương </i>


<i>Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm </i>


<i>Người học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên </i>
<i>Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh </i>
<i>Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm </i>


<i>Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi </i>


<i>Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha </i>
<i>Ơi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy </i>


<i>Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta" </i>


Bằng ngịi bút ví von mà chân thực tác giả Nguyễn Khoa Điềm lần lượt vẽ nên những
chiến công hiển hách của cha ơng ta. Là hình ảnh những người con đất Việt hi sinh cả
tuổi xuân, cả cuộc đời mình để góp xương, góp máu cho Đất nước, để lại con thơ, vợ
hiền da diết ngóng trơng. Là tình yêu vững bền như những tảng đá lớn, đứng hiên
ngang chẳng ngại gió mưa. Những vết dấu oai hùng, dũng mãnh bước qua để đời đời
còn nhắc mãi,... Đất nước có một phần xương máu của những con người bất khuất,
trung kiên, một đời vì Đất nước, nguyện hi sinh tất cả để đất nước được trường tồn



</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

hơn bốn nghìn năm và lâu hơn thế. Vẽ ra bức tranh toàn cảnh rộng lớn của đất nước,
sự tươi đẹp của non sông gắn liền với những trang sử hào hùng của cả một dân tộc.


Để làm nên một người anh hùng thì có biết bao nhiêu người anh hùng đã ngã xuống,
mà khơng ai biết tên họ, khơng ai cịn nhớ. Để làm ra đất nước những vị anh hùng dân
tộc đã ngã xuống không một chút do dự, nuối tiếc, sẵn sàng đánh đổi tất cả để thấy
được sự tươi đẹp của Đất Nước mai sau:


<i>"Em ơi em </i>
<i>Hãy nhìn rất xa </i>


<i>... </i>


<i>Họ đã sống và chết </i>
<i>Giản dị và bình tâm </i>
<i>Khơng ai nhớ mặt đặt tên </i>
<i>Nhưng họ đã làm ra Đất Nước" </i>


Cuộc chiến khơng lại từ đấy, bàn tay chai sạn vì cầm súng lại tiếp tục cầm cuốc, cầm
cày tiếp tục xây dựng đất nước. Bảo vệ Đất nước khỏi nịng súng giặc ngoại xâm rất
gian nan, nhưng cơng cuộc sản xuất kinh tế để làm nên Đất nước giàu mạnh cũng
chẳng hề dễ dàng. Họ tiếp tục truyền lửa cho thế hệ sau, không bao giờ quên ơn đức
của thế hệ đi trước và tiếp tục làm nên lịch sử đời đời của dân tộc, của Đất nước:


<i>"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng </i>
<i>Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi </i>


<i>Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói </i>
<i>Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân </i>



<i>Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái </i>
<i>Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm </i>


<i>Có nội thù thì vùng lên đánh bại </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<i>Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân </i>


<i>Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại" </i>


Tình yêu Đất Nước như được truyền đời đời, khắc sâu vào trong trái tim của mỗi con
người Việt Nam, tình u đó chợt cất lên thành những câu hát thân thương hay là cả
một truyền thống văn hóa trăm sắc màu:


<i>"Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi" </i>
<i>Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội </i>


<i>Biết trồng tre đợi ngày thành gậy </i>
<i>Đi trả thù mà không sợ dài lâu </i>
<i>Ơi những dịng sơng bắt nước từ đâu </i>
<i>Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát </i>
<i>Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác </i>


<i>Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi" </i>


Bằng lời văn giản dị mà tinh tế, đầy sức thuyết phục đã làm rõ nét hình ảnh Đất nước
trong cuộc sống của mỗi con người. Dáng vẻ Đất Nước đầy thân thương như chẳng
thể nào phai mờ trong những thứ nhỏ nhặt nhưng không chút tầm thường.


<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 5 </b>




Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ thơ trẻ thời
kì chống Mỹ cứu nước. Thơ ơng thường có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn
và suy tư sâu lắng, giữa chất trữ tình và chất chính luận. Đoạn trích "Đất nước" đã cho
người đọc thấy rõ được những đặc điểm của thơ ông. Đặc biệt đoạn thơ đầu của bài
thơ nhà thơ đã giải thích Đất nước bằng những hình ảnh giản dị hằng ngày:


<i>"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi </i>
<i>.... </i>


<i>Đất nước có từ ngày đó". </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Câu thơ đầu cất lên đầy giản dị và mộc mạc: "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi". Câu
thơ ngỡ như một câu nói bình thường, đưa người đọc trở về những hình ảnh thuở xưa
của đất nước. Tổ quốc này đã phơi thai và hình thành suốt chiều dài lịch sử, khi con
người xuất hiện, lớn lên thì đất nước đã có rồi.


<i>"Đất nước có trong… mẹ thường hay kể." </i>


Hình ảnh đất nước hiện lên qua những lời kể của mẹ. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa"
gợi trong chúng ta những nỗi niềm cổ tích xa xăm nhưng thật diệu kỳ. Nơi ấy có cơ
tấm, tràng Thạch Sanh, một thế giới lung linh huyền ảo ấy ta đã có dịp lạc vào từ thuở
ấu thơ.


<i>"Đất nước bắt đầu.. bà ăn" </i>


Đất nước vốn lao lao nhưng bây giờ cũng ẩn mình vào trong miếng trầu bà ăn. Và
chính miếng trầu ấy lại chứa đựng cả một nền văn hóa của người Việt Nam ta. Người
xưa có câu "miếng trầu là đầu câu chuyện" nó thể hiện sự giao tiếp, là tín hiệu của
hạnh phúc nhân duyên. Miếng trầu đã đi sâu và nếp cảm, nếp nghĩ của người ấn Việt
từ bao đời nay. Qua hình ảnh này chúng ta cũng thấy được chiều dài của lịch sử, của


đất nước, cội nguồn nơi chúng ta sinh sống.


<i>"Đất nước lớn lên… đánh giặc" </i>


Tổ quốc vững mạnh và trưởng thành theo từng năm tháng, phải trải qua những năm
tháng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Câu thơ trên mang hơi thở của Thánh Gióng
là người đã sử dụng tre làng để đánh giặc. Và bất cứ một người Việt Nam nào khơng
thể khơng biết đến truyền thuyết Thánh Gióng ấy. Và với lời thơ bình dị của Nguyễn
Khoa Điềm, đất nước còn hiện lên qua những phong tục cổ truyền của người Việt
Nam:


<i>"Tóc mẹ thì bới sau đầu" </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xuất hiện với mái tóc búi sau trở thành nét đẹp, nét
truyền thống của phụ nữ Việt. Tập tục này không chỉ tôn lên vẻ đẹp đoan trang của
người phụ nữ mà còn thể hiện nét đẹp đặc trưng trong bản sắc văn hóa của người Việt.


Trang cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng đất nước cũng gắn liền với
những đạo lý son sắc thủy chung mà tính nghĩa : "Cha mẹ...gừng cay muối mặn".
Người Việt Nam ta vốn coi trọng nghĩa tình, sống có trước có sau, đặc biệt là sự thủy
chung trong tình yêu và tình nghĩa vợ chồng. Đặc biệt, sự vận dụng câu ca dao"gừng
cay muối mặn" là sự có chủ ý của nhà thơ.


Tác giả tiếp tục phát hiện hình ảnh đất nước có mặt trong những sự vật rất đỗi bình
thường "cái kèo, cái cột thành tên". Thì ra đất nước to lớn, vĩ đại như vậy chẳng ở đâu
xa, nó gắn liền với những công việc lao động thường ngày nhất với con người.


<i>"Hạt gạo… sàng" </i>


Tác giả sử dụng thành ngữ "một nắng hai sương" kết hợp với phép liệt kê đã khắc sâu


sự vất vả của người nơng dân để làm ra hạt thóc, hạt gạo. Đồng thời , câu thơ cũng
cho thấy những vẻ đẹp phẩm chất của người lao động Việt nam. Đó là sự chịu thương,
chịu khó, sự cần cù của người dân trên dải đất hình chữ S này.


Đất Nước đã được nhà thơ lí giải cắt nghĩa theo cảm nhận của riêng mình. Đoạn thơ
thể hiện niềm tự hào, trân trọng sâu sắc của tác giả dành cho Tổ quốc mình. Đoạn thơ
rất thành cơng với thể thơ tự do mỗi câu như một cảm xúc trào dâng từ đáy lòng thi sĩ.
Nhà thơ đã vận dụng thành cồn những chất liệu văn hóa văn học dân gian. Và khi kết
thúc những câu thơ ấy, trong lịng người đọc cũng xuất hiện hình ảnh đất nước vừa
quen thuộc, vừa mới lạ, vừa thiêng liêng, vừa gần gũi và biết bao mến thương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 6 </b>



Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn
thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh
của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế
quốc Mỹ; hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình,
đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của tồn dân tộc. Đoạn
trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.


Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả
về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó
là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc
của tác giả khá chặt chẽ nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bằng những lời
định nghĩa say sưa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời
gian - lịch sử, qua về rộng của không gian - lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn hóa -
phong tục, lối sống, tính cách của người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc.
Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng, giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo:
"Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Mạch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi chảy
một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy hứng khởi, đồng thời lại cũng có những vang


động sâu xa.


Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình - chính luận, nhà thơ đã đưa ra
định nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ
tích, ca dao. Lời thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành một
cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm đặc của các chất liệu lấy
từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại.... tạo cho đoạn thơ đầu một âm
hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:


<i>Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi </i>


<i>Đất Nước có trong những cái "Ngày xửa ngày xưa..."mẹ thường hay kể </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ
khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn
hóa dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân
dân. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo
tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với người đọc.


Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì
thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi
chúng ta. Nõ dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và
bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với
nhân dân trong mỗi chúng ta.


Phần sau của đoạn thơ từ "Những người vợ nhớ chồng" đến hết đoạn trích là phần tập
trung làm nổi bật tư tưởng "Đất nước của nhân dân". Trong phần này, tư tưởng đã quy
tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về
địa lí, lịch sử và văn hóa của đất nước.



<i>Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu </i>
<i>Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái </i>


<i>Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại </i>
<i>Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương </i>


<i>Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm </i>


<i>Người học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên. </i>


Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên,
núi Vọng Phu, hòn Trống Mái... vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó
khơng phải là sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây,
thiên nhiên, tạo hóa khơng phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền
thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người
trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái
nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái qt đầy thấm thía:


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<i>Ơi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy </i>
<i>Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta... </i>


Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá
vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trị, vị trí của con người Việt Nam
trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu
thương sâu sắc, thủy chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng
trong đánh giặc; là những con người "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ "đã
làm ra Đất Nước". Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ
những nét văn hóa của dân tộc qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.


Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:



<i>Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân </i>


<i>Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. </i>


Đó là một chân lý. Một chân lý đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài
lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao,
mới cất lên thành những tuyên ngôn đầy tự hào và hang động sâu xa.


Làm nên sự thành cơng của đoạn trích Đất Nước, ngồi sự độc đáo đầy phóng túng
của thể thơ tự do còn phải kể đến tài năng xuất sắc của Nguyễn Khoa Điềm trong việc
tiếp thu và sử dụng những chất liệu dân gian. Bài thơ là sự hòa nhập một cách thật
nhuần nhuyễn giữa hình thức trữ tình - chính trị với các chất liệu từ ca dao, cổ tích,
huyền thoại...


Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ tình - chính trị, đoạn trích Đất Nước quy
tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn, quy tụ vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm
cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của
cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng "Đất nước của nhân dân".


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 7 </b>



Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn
Khoa Điềm về vai trò và những hy sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng
nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời
kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân
thơng qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng "Đất nước của nhân
dân, Đất nước của ca dao thần thoại" là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình
thức chương V của bản trường ca này.



Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ
trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản
dị: Khơng phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo
vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống văn hóa, lịch sử hàng ngàn
đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà
bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sơi nổi tha thiết của mình. Thơng qua những vần
thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn
thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ
trong những năm chống Mĩ.


Mượn hình thức trị chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu
chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của
cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư
tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện:
trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn
hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hồ quyện,
thống nhất chặt chẽ với nhau trong một "hệ quy chiếu". Đất nước của nhân dân vốn là
linh hồn của cả bài thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi khơng
khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các
chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong
tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những
chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kỳ
diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sơng, đất nước. Điều đó khơng đơn thuần
chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo văn học
dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ
- đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của
bài thơ.



Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định
nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thơng qua những hình tượng cụ thể, sinh
động, đầy gợi cảm.


Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình
lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua "miếng trầu bây giờ bà ăn", qua cái kèo, cái
cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.


Đất nước không phải là cài gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:


<i>Trong anh và em hơm nay </i>
<i>Đều có một phần Đất Nước </i>


Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận
mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà
vấn đề dân tộc nói lên như một vấn đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước
khơng phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:


<i>Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình </i>
<i>Phải biết gắn bó và san sẻ, </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<i>Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở, </i>
<i>Làm nên Đất Nước mn đời. </i>


Đất nước cịn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng
ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối
quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử,
truyền thơng, phong tục và văn hố của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc
Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca


dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương
diện truyền thống, văn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc
sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền
với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:


<i>Những ai đã khuất, </i>
<i>Những ai bây giờ, </i>
<i>Yêu nhau và sinh con đẻ cái, </i>
<i>Gánh vác phần người đi trước để lại. </i>


<i>Dặn dò con cháu chuyện mai sau, </i>
<i>Hằng năm ăn đâu nằm đâu, </i>
<i>Cũng biết cúi đầu nhớ ngày dỗ tổ. </i>


Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất
Nước.


Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam
thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên khơng cịn là những cảnh thú thiên nhiên thuần t nữa,
mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận
như là những đóng góp của nhân dân, hố thân của những con người không tên, không
tuổi: "Những người vợ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái". "Người học trị nghèo góp cho Đất Nước mình
Bút non Nghiên". Cả đến "Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành
thắng cảnh", ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa
Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo
dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dịng


sơng, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã
"quy nạp" thành một khái quát sâu sắc:


<i>Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, </i>


<i>Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha, </i>
<i>Ơi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy, </i>


<i>Những cuộc đời đã hố núi sơng ta. </i>


Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch
sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ khơng ngợi ca các triều đại, cũng khơng nói
tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con
người vơ danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những
con người bình dị, vơ danh đó:


<i>Họ đã sống và chết </i>
<i>Giản dị và bình tâm </i>
<i>Khơng ai nhớ mặt đặt tên </i>
<i>Nhưng họ đã làm ra Đất Nước. </i>


Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau
những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ.
Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm
bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i>Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, </i>
<i>Đất Nước của ca dao, thần thoại. </i>



Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và
sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là
chương tiêu biểu và tinh túy nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo
nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm
xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế
hệ mình về đất nước.


<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 8 </b>



Cùng với các nhà thơ trong thế hệ chống Mỹ lúc bấy giờ, Nguyễn Khoa Điềm dường
như cũng hướng ngòi bút của mình đến một chủ đề lớn lao của thơ ca đương thời đó
khơng gì khác chính là đất nước. Tuy nhiên, có thể nói rằng hình ảnh “đất nước” trong
thơ Nguyễn Khoa Điềm khơng chỉ có đau thương mất mát hay chỉ có những cảnh sơn
hào hùng vĩ mà “đất nước” hiển hiện lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết
sức mới mẻ. Qua đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của
ơng thì đây chính là một định nghĩa đủ đầy về đất nước và qua đó cũng thể hiện sâu
sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân.


Mở đầu bài thơ chính là một lời tâm tình sâu lắng đưa ta về với cội nguồn:


<i>Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi </i>
<i>Đất nước có trong những cái ngày xửa </i>


<i>Ngày xưa mẹ thường hay kể </i>


<i>Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn </i>
<i>Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc </i>


<i>Tóc mẹ thì bới sau đầu </i>



<i>Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn </i>
<i>Cái kèo cái cột thành tên </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<i>Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng </i>
<i>Đất nước có từ ngày đó… </i>


Trong đoạn thơ này của Nguyễn Khoa Điềm dường như ta có thể thấy rằng, đất nước
khơng phải là cái gì trừu tượng, xa xơi khó nắm bắt mà đất nước chính là những gì
thân thuộc và gần gũi nhất. Đất nước có từ trong những câu chuyện ngày xửa ngày
xưa, trong miếng trầu của bà ăn, trong ống tre bất khuất kiên cường, trong những phục
tục tập quán, trong hạt gạo nấu những bữa cơm hàng ngày… đều hiện hình lên một đất
nước Việt Nam rất đỗi anh hùng, tình nghĩa, giản dị mà thân thương nhất. Và đây có
thể nói chính là một định nghĩa, định danh về đất nước hoàn toàn mới và hoàn toàn
thiết thực nhất, rõ ràng nhất.


Với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ là những khoảng giới hạn về
không gian địa lý chật hẹp nữa mà ở đây nó cịn có chiều dài thời gian lịch sử và chiều
sâu văn hóa. Khơng những thế, “đất nước” cịn chính là tình u đơi lứa, có trong tình
u đơi lứa:


<i>Đất là nơi anh đến trường </i>
<i>Nước là nơi em tắm </i>
<i>Đất Nước là nơi ta hò hẹn </i>


<i>Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm… </i>


Đất và nước dường như tách riêng, và từng phần đều lại như đã tượng trưng cho
những điều gần gũi nhất. “Là nơi anh đến trường” hay “là nơi em tắm” hàng ngày.
Thế nhưng để rồi khi “ta hị hẹn” thành một đơi trọn vẹn thì cũng như đất nước gộp lại
vẹn tròn lại thành một. Và có thể nói rằng với phát hiện mới mẻ này, Nguyễn Khoa


Điềm đã chỉ ra rằng Đất nước khơng chỉ bên ta, xung quanh ta và cịn có cả ở trong ta
nữa.


Đất nước cịn chính là nơi khởi đầu cho những câu chuyện xa xưa, cho những câu ca
dao tục ngữ, điển tích điển cố và tất thảy mọi sự sinh thành. Và hình ảnh đặc sắc “con


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

chim phượng hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” là những
minh chứng độc đáo cho đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến của chúng ta. Nhớ về
đất nước cũng như chính là một cách để ta có thể nhớ về cội nguồn, hiểu được vì sao
chúng ta được sinh ra. Chính vì thế, đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm
còn là sự tiếp nối truyền thống:


<i>Những ai đã khuất </i>
<i>Những ai bây giờ </i>
<i>Yêu nhau và sinh con đẻ cái </i>
<i>Gánh vác phần người đi trước để lại </i>


<i>Dặn dò con cháu chuyện mai sau… </i>
<i>Trong anh và em hôm nay </i>
<i>Đều có một phần đất nước </i>


Biết bao thế hệ anh cha ta đã hi sinh, đã ngã xuống để bảo vệ đất nước, bảo vệ núi
sông bờ cõi. Đó cịn chính là cả một chiều dài lịch sử hào hùng rất tự hào của dân tộc
ta. Chính vì thế, con cháu đời sau phải tiếp tục gìn giữ truyền thống ấy. Với một
truyền thống yêu nước, thương nịi, ln ln sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ non sông
cho những thế hệ về sau. Và cho đến thời đại của ngày hôm nay, “trong và em” “đều
có một phần đất nước”. Dường như chính phần đất nước ấy là phần máu thịt, là một
phần trách nhiệm phải giữ gìn và xây dựng, phần tình yêu để bảo vệ đất nước cho con
cháu mai sau.



Vì có phải những người đã khơng quản ngại thân mình hy sinh cho đất nước, làm nên
hình hài của đất nước cho nên:


<i>Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi </i>


<i>Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha </i>
<i>Ơi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy </i>


<i>Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Khi nói về 4000 năm lịch sử oanh liệt hào hùng của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm
không hề kể về những vương triều to lớn hay những anh hùng nổi tiếng mà lại nhấn
mạnh “người làm ra đất nước” lại chính là những con người bình dị đời thường và họ
là những người vô danh. Chính họ chứ khơng phải ai khác, khơng phải là một ơng vua
bà chúa nào, họ đã gìn giữ và truyền lại hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngơn ngữ cho đời
sau. Và từ chính những con người vô danh làm nên đất nước bao năm qua đã giúp tác
giả khẳng định một chân lý:


<i>Đất nước này là đất nước của nhân dân </i>


<i>Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại </i>


Đối với câu thơ sau, hai vế dường như song song nhân dân – đất nước lại càng khẳng
định đất nước chính là kết tinh những giá trị tinh thần cao q trong đời sống trí tuệ và
tình cảm của nhân dân. Những giá trị ấy cũng như đã kết tinh lại trong những câu ca
dao, tục ngữ, trong những câu chuyện thần thoại cổ tích của cha ông ta để lại. Và định
nghĩa về đất nước đến đây vừa giản dị nhưng cũng vừa lớn lao, sâu sắc biết bao nhiêu.


Đất nước đã dường như đã được khẳng định là của nhân dân và cũng là của anh, của
em, và:



<i>Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình </i>
<i>Phải biết gắn bó và san sẻ </i>


<i>Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở </i>
<i>Làm nên Đất Nước muôn đời </i>


Đoạn thơ thân tình như một lời nhắn nhủ thiết tha đằm thắm mà rất đỗi chân thành.
Bởi sự sống của chúng ta không chỉ do cha mẹ sinh thành mà cịn vì đất nước ni
dưỡng. Chính vì thế mà trong mỗi chúng ta cần phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển
nó và truyền lại cho những thế hệ tiếp theo.


Đất nước đã được xem là một đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì kháng chiến
chống Mỹ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng đã nhận thức sâu sắc vai trò


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

và sự đóng góp to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh trường kỳ và vô cùng ác liệt
này. Chính vì thế có thể nói rằng tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học
truyền thống đã được nhà thơ phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc.
Dùng chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn, biến đổi linh hoạt đầy
sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ và thống nhất với tư tưởng “đất nước của nhân
dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài thơ.


<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 9 </b>



Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu
nước và cách mạng ở thơn Ưu Điềm, xã Phong Hịa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên – Huế. Quê gốc của ông ở làng An Cựu, xã Thủy An. Ông học tập và trưởng
thành trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, rồi trở về Nam tham
gia chiến đấu chống Mĩ. Sau 1975, Nguyễn Khoa Điềm hoạt động văn nghệ và chính
trị ở Huế.



Ơng được bầu làm Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam khóa V và Bộ trưởng Bộ Văn
hóa – Thơng tin. Từ năm 2001 đến 2006, ông là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương Đảng, Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương. Nguyễn Khoa Điềm thuộc
thế hệ các nhà thơ mà tài năng và tên tuổi được khẳng định trong thời kì chống Mĩ cứu
nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng về
đất nước, về dân tộc. Năm 2000, ông vinh dự được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật.


Tác phẩm chính: Đất ngoại ơ (thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974),
Ngơi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986), Cõi lặng (thơ, 2007). Trường ca Mặt đường
khát vọng được tác giả sáng tác ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm
1974, nội dung phản ánh sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm bị chiếm ở miền
Nam đang xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

xâm lược; đồng thời thể hiện những suy ngẫm và quan điểm của nhà thơ về đất nước,
dân tộc.


Đoạn trích Đất Nước nằm ở phần đầu chương V của trường ca là một trong những
đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Tác giả bày tỏ suy
nghĩ và tình cảm tha thiết, sâu sắc của bản thân về đất nước trên nhiều bình diện địa lí,
lịch sử, văn hóa, phong tục… với tư tưởng bao trùm: Đất Nước của Nhân dân


Đoạn trích chia làm hai phần: Phần một: Từ đầu đến… Làm nên Đất Nước muôn đời:
cảm nhận của tác giả về đất nước trên các phương diện cuộc sống của con người: địa
lí, lịch sử, văn hóa, phong tục. Phần hai: Tác giả đúc kết nên một chân lí khái quát:
Đất Nước của Nhân dân.


Giữa hai phần gần như khơng có sự tách biệt rõ ràng về nội dung vì ở phần nào tác giả
cũng thể hiện sự cảm nhận về Đất Nước trên nhiều mặt, nhưng mỗi phần có một trọng


tâm khác nhau trong nội dung tư tưởng và cảm xúc. Ở phần 1, Đất Nước được tác giả
cảm nhận từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc sống hằng ngày, sau đó mở rộng ra
với Thời gian đằng đẵng – Không gian mênh mông trong những truyền thuyết về thời
dựng nước. Cuối cùng, cảm nhận của nhà thơ hướng vào sự hiện diện của Đất Nước
trong mỗi con người; từ đó nhắc nhở trách nhiệm của mỗi công dân đối với Đất Nước.


Ở phần sau, Đất Nước được nhà thơ đúc kết thành quan niệm: Đất Nước của Nhân
dân, chính Nhân dân đã làm nên đất nước. Khái niệm Đất nước được gợi nên từ những
thắng cảnh thiên nhiên, những địa danh gắn với những tên người bình dị… Đất Nước
gắn với bề dày lịch sử bốn nghìn năm với những lớp người không nhớ mặt đặt tên.


Họ từng sống rất giản dị và bình tâm, nhưng cũng chính họ là những người đã làm nên
Đất Nước, truyền lại cho con cháu muôn đời. Cuối cùng, mạch suy tưởng của tác giả
dẫn đến một chân lí khái quát: Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần
thoại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Khác với các nhà thơ trước, khi viết về đất nước thường dùng những hình ảnh kì vĩ,
mĩ lệ, mang tính biểu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cách thể hiện rất tự nhiên và
bình dị:


<i>Khi ta lớn tên Đất Nước đã có rồi </i>


<i>Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”mẹ thường hay kể </i>
<i>Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn </i>


<i>Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc </i>
<i>Tóc mẹ thì bới sau đầu </i>


<i>Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn </i>
<i>Cái kèo, cái cột thành tên </i>



<i>Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng </i>
<i>Đất Nước có từ ngày đó… </i>


Trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm bày tỏ cảm xúc và suy tưởng của mình về
Đất Nước dưới hình thức trị chuyện tâm tình, tạo ra một cảm giác gần gũi, thân thiết.
Nhà thơ lấy chất liệu từ văn hóa dân gian, từ ca dao, tục ngữ, từ đời sống quen thuộc
hằng ngày. Bởi vậy nên không gian nghệ thuật được mở rộng ra nhiều chiều và hình
tượng thơ trở nên trữ tình, bay bổng.


Đất Nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, từ lời kể chuyện ngày xửa ngày
xưa của mẹ, từ các phong tục tập quán có từ lâu đời: Miếng trầu bây giờ bà ăn, Tóc
mẹ thì bới sau đầu. Đất Nước có từ khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Đất
Nước hình thành từ tình nghĩa vợ chồng thủy chung, Cha mẹ thương nhau bằng gừng
cay muối mặn, từ quá trình lao động bền bỉ của dân tộc; từ hình ảnh hạt gạo ta ăn hằng
ngày thấm đẫm mồ hôi một nắng hai sương.


Câu thơ: Cái kèo cái cột thành tên diễn tả thời gian hơn là không gian. Phải bao năm
tháng những vật dụng hằng ngày trong nhà mới có tên để gọi. Đấy cũng là q trình


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

sinh thành của Đất Nước từ không đến có, từ nhỏ hẹp tới lớn lao. Tất cả những điều
đó làm cho khái niệm Đất Nước trở nên gần gũi, thân thiết đối với mỗi con người.


Có thể coi đoạn thơ mở đầu là câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có tự bao giờ? Lịch
sử lâu đời của đất nước Việt Nam được cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các
triều đại phong kiến hay các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các
truyền thống có từ xa xưa: Trầu cau (miếng trầu bây giờ bà ăn), Thánh Gióng (dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc… đến nền văn minh lúa nước sống Hồng cùng
những phong tục, tập quán có từ lâu đời. Đó chính là Đất Nước được cảm nhận từ
chiều sâu, từ bề dày của văn hóa và lịch sử.



Những câu thơ chính luận – trữ tình tiếp theo vẫn trả lời cho câu hỏi: Đất Nước là gì ?
Đó là sự cảm nhận về Đất Nước trong sự thống nhất, hài hòa giữa các phương diện địa
lí và lịch sử, khơng gian và thời gian nhưng không dừng lại ở mức khái niệm mà nâng
cao lên một tầng ý nghĩa sâu xa hơn. Hình tượng Đất Nước thiêng liêng được cảm
nhận thông qua cách nhìn nhận, suy nghĩ của tuổi trẻ nên vừa cụ thể, vừa mới mẻ và
hết sức táo bạo:


<i>Đất là nơi anh đến trường </i>
<i>Nước là nơi em tắm </i>
<i>Đất Nước là nơi ta hị hẹn </i>


Hình ảnh con đường đến trường, bến sông em tắm, nơi lứa đôi u nhau hị hẹn… gợi
ra khơng gian cụ thể, thân quen, nhưng cũng không kém phần đẹp đẽ, thơ mộng. Đất
Nước gắn bó anh và em, gắn bó mỗi con người với cuộc đời. Đất Nước là không gian
sinh tồn của cả cộng đồng người Việt qua bao nhiêu thế hệ. Rộng lớn hơn nữa, Đất
Nước là không gian mênh mông của núi sông, rừng biển:


<i>Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm </i>
<i>Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” </i>


<i>Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi " </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Các câu thơ trên lấy ý từ những bài ca dao miền Bắc và những câu hị Bình Trị Thiên
để mở ra một không gian lãng mạn, bay bổng của một tình yêu say đắm, thủy chung.
Trong mắt của những người trẻ tuổi, Đất Nước là một không gian thơ mộng với bao
kỷ niệm dịu ngọt của tình u. Đất Nước cịn được tác giả cảm nhận theo nhiều chiều:
khơng gian và thời gian, địa lí và lịch sử:


<i>Thời gian đằng đẵng </i>


<i>Không gian mênh mơng, </i>
<i>Đất Nước là nơi dân mình đồn tụ. </i>


Đất Nước tồn tại trong sâu thẳm của kí ức, từ thời nảy sinh huyền thoại về mối duyên
kỳ ngộ giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ:


<i>Đất là nơi chim về </i>
<i>Nước là nơi Rồng ở </i>
<i>Lạc Long Quân và Âu Cơ </i>
<i>Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. </i>


Đất Nước đã trải qua bốn nghìn năm lịch sử. Dân tộc ta đã xây dựng nên nhiều truyền
thống và nét đẹp văn hóa Việt Nam. Hai tiếng đồng bào gợi tình cảm máu thịt và tinh
thần đồn kết nhất trí. Đất Nước mấy nghìn năm lịch sử được chuyển giao qua nhiều
thế hệ:


<i>Những ai đã khuất </i>
<i>Những ai bây giờ </i>
<i>Yêu nhau và sinh con đẻ cái </i>
<i>Gánh vác phần người đi trước để lại </i>


<i>Dặn dò con cháu chuyện mai sau </i>
<i>Hằng năm ăn đâu làm đâu </i>
<i>Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ…
tất cả đều nói lên chiều sâu, bề dày lịch sử của đất nước Việt Nam.Đất Nước còn được
tác giả cảm nhận trong sự thống nhất giữa các phương diện văn hóa, truyền thống,
phong tục, trong cái hằng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống của mỗi cá nhân và cả
cộng đồng, ở chiều rộng của khơng gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử.



Đến cuối phần một, cảm hứng thơ dẫn dắt tác giả đến sự chiêm nghiệm, suy ngẫm sâu
sắc về Đất Nước: Trong anh và em hôm nay – Đều có một phần Đất Nước.


<b>Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 10 </b>



<i>“… Trong anh và em hơm nay </i>
<i>Đều có một phần Đất Nước </i>


<i>Khi hai đứa cầm tay </i>


<i>Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm </i>
<i>Khi chúng ta cầm tay mọi người </i>


<i>Đất Nước vẹn tròn, to lớn </i>
<i>Mai này con ta lớn lên </i>
<i>Con sẽ mang Đất Nước đi xa </i>
<i>Đến những tháng ngày mơ mộng </i>
<i>Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình </i>


<i>Phải biết gắn bó và san sẻ </i>


<i>Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở </i>
<i>Làm nên Đất Nước muôn đời…” </i>


“Mặt đường khát vọng” là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong
chiến tranh ác liệt thời chống Mỹ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm nóng - trên
chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc
động, tự hào về đất nước và nhân dân.



</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Trong bài “Có một thời đại mới trong thi ca”, Trần Mạnh Hảo viết: “Vào đêm giao
thừa Tết âm lịch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tơi xúc động nghe trích
đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà
thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.


“Đất Nước” - là chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dài 110 câu thơ
(trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về
Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với
đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về
Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.


Từ đó, nhà thơ nhận diện phát hiện Đất Nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn
hố, ngơn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc
đáo của chương V “Đất Nước” là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân
gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị,
hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.


Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể hiện cảm nhận:
Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt Nam:


<i>Trong anh và em hơm nay </i>
<i>Đều có một phần Đất Nước </i>


<i>… </i>


<i>Làm nên Đất Nước muôn đời… </i>


Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất Nước và Nhân Dân
đều được viết hoa, trở thành “mỹ tự” gợi lên khơng khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ


cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân. Chủ thể trữ tình là “anh
và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

câu thơ là cấu trúc tổng - phân - hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của
ngịi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.


Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch
sử,… Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:


<i>“Trong anh và em hơm nay </i>
<i>Đều có một phần Đất Nước”. </i>


Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ
khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của Đất Nước” được
diễn đạt một cách “mềm hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.


Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm nay”
đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.


<i>“Khi hai đứa cầm tay </i>


<i>Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”. </i>


Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường - Nước là nơi em
tắm - Đất Nước là nơi ta hò hẹn – Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây
dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước.


Chỉ có tình u và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hịa, nồng thắm” với tình
u q hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới.


Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi
“nhớ”:


<i>“Anh yêu em như anh yêu đất nước </i>
<i>Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

Từ tình u và hạnh phúc lứa đơi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước,
mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hịa nồng thắm”, mới
tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao
lứa đôi khác:


<i>“Xưa u q hương vì có chim có bướm </i>
<i>Có những lần trốn học bị địn roi. </i>
<i>Nay u q hương vì trong từng nắm đất </i>


<i>Có một phần xương thịt của em tơi”. </i>


(Giang Nam)


Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích
“Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân và Âu Cơ -
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng - Những ai đã khuất - Những ai bây giờ…”. Từ
huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:


<i>“Khi chúng ta cầm tay mọi người </i>
<i>Đất Nước vẹn tròn, to lớn” </i>


Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu
thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,…
Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất Nước


vẹn trịn, to lớn”, mới có đại đồn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa,
nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân
tộc và đất nước.


Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba
cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong
một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất Nước
vẹn trịn, to lớn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”…
“Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hòa nồng thắm…”. “Đất Nước vẹn
tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mỹ sâu sắc:
hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này.


Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hịa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình u lứa
đơi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đồn kết
dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nền truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người”
và đó là sức mạnh Việt Nam. Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh
và em hôm nay”, đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng
ngời niềm tin:


<i>“Mai này con ta lớn lên </i>
<i>Con sẽ mang Đất Nước đi xa </i>
<i>Đến những tháng ngày mơ mộng”. </i>


Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp
dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,…
cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là
cách nói của bà con xứ Huế.



Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại”
xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to
đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh
nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất
đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh.


Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực
“mai này” gần. Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở
nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<i>“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình </i>
<i>Phải biết gắn bó và san sẻ </i>


<i>Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở </i>
<i>Làm nên Đất Nước muôn đời…” </i>


“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang
dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là
máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình,
và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu
xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:


<i>“Ni lớn người từ ngày mở đất, </i>
<i>Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật </i>
<i>Một tấc lịng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”. </i>


(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)


Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của
tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san


sẻ… phải biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước mn đời”. Điệp ngữ
“phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn
động.


Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất
của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”,
“hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngồi
giới hạn thơng tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.


Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng
nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất
nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm
xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:


<i>“Tơi yêu đất nước này chân thật </i>
<i>Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tơi </i>


<i>Như u em nụ hơn ngọt trên môi </i>
<i>Và yêu tôi đã biết làm người </i>
<i>Cứ trơng đất nước mình thống nhất” </i>


(Trần Vàng Sao)


<i>“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt </i>
<i>Như mẹ cha ta như vợ như chồng </i>


<i>Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết </i>
<i>Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”. </i>



(Chế Lan Viên)


Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân
thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn
thơ đẹp cịn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân
tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính cơng dân của thời đại
mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngơn từ, hình
ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều
mới mẻ tìm tịi.


“Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ
lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hịa bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất
Nước, “làm nên Đất Nước mn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng hồng hơn”. Lúc có
chiến tranh phải đem xương máu để bảo tồn Sơng núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân”


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và
em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…


</div>

<!--links-->

×