NHIỄM TRÙNG TUYẾN NƯỚC BỌT
Giảng viên: Bùi Hữu lâm
Mục tiêu:
1/ Trình bày được cơ chế bệnh sinh của nhiễm trùng tuyến nước bọt
2/ Liệt kê được các yếu tố bệnh nguyên tại chỗ và toàn thân của nhiễm trùng tuyến nước
bọt.
3/ Trình bày được phân loại nhiễm trùng tuyến nước bọt
4/ Trình bày được đặc điểm vi sinh học trong nhiễm trùng tuyến nước bọt
4/ Trình bày phác đồ hướng dẫn chẩn đoán và điều trị nhiễm trùng tuyến nứơc bọt
I/ Phân loại:
Nếu không kể u thì phần lớn bệnh lý còn lại của tuyến nước bọt thường liên quan
đến nhiễm trùng cấp hoặc mãn của tuyến mang tai, dưới hàm và có khi cả dưới lưỡi
do vi khuẩn, siêu vi hay mycobacteria. Dù tuyến nước bọt chính hay phụ đều có thể
bị ảnh hưởng, nhưng thường gặp nhất là tuyến mang tai và tuyến dưới hàm dưới
dạng viêm tuyến mang tai cấp do vi khuẩn (ABP: acute bacterial parotitis) và viêm
tuyến dưới hàm cấp do vi khuẩn (ABSS: acute bacterial submandibular sialolenitis).
Nguyên nhân gây viêm tuyến nước bọt khá đa dạng như do _giảm lưu lượng nước
bọt (do mất nước, suy dinh dưỡng, tắc nghẽn và thuốc men), _chấn thương ống
hoặc lổ ống tuyến (do nghề nghiệp, thói quen, răng) hay _tắc nghẽn lưu thông nước
bọt (do chấn thương ống tuyến, nút dịch nhầy, sỏi , hay bệnh mạch máu – tạo keo)..
Một điều cần nhấn mạnh là phải luôn cảnh giác để phân biệt 1 tiến trình viêm tuyến
với các bệnh lý khác cũng gây sưng phồng tuyến nước bọt, ví dụ u tuyến lành hoặc
ác. Viêm tuyến dưới hàm thường do tắc nghẽn trong khi viêm tuyến mang tai lại do
những nguyên nhân không gây tắc nghẽn. Viêm hệ thống ống tuyến cũng có thể xảy
ra sau các đợt tắc nghẽn cấp tính do sỏi. Viêm tuyến nước bọt cấp và mãn bị ảnh
hửơng bởi nhiều yếu tố như tuổi tác, tiền sử nội, ngoại khoa, tình trạng miễn dịch,
cân bằng thể dịch toàn thân, thuốc men và dị ứng. Ngòai ra, còn có các yếu tố gây
bệnh khác như: bất thường ống tuyến bẩm sinh hoặc mắc phải, dị vật, các thao tác
trong khi chữa răng, bệnh u hạt hệ thống, nhiễm HIV, chấn thương hàm mặt và (tình
trạng )vừa mới nằm viện.
Phân lọai nhiễm trùng tuyến nước bọt
Nhiễm vi khuẩn
Viêm tuyến dưới hàm cấp
Viêm tuyến mang tai cấp
Viêm tuyến dưới hàm mãn
Viêm tuyến mang tai mãn
Viêm tuyến mang tai mãn ở trẻ nhỏ
Viêm tuyến nước bọt dị ứng cấp (viêm tuyến mang tai quang tuyến)
Bệnh do Actinomyces
Bệnh mèo quào
Nhiễm siêu vi
Dịch viêm tuyến mang tai (bệnh quai bị)
Tổn thương lymphô-biểu mô lành tính (bệnh nhân nhiễm HIV)
Virus cự bào (CMV_Cytomegalovirus)
Nhiễm nấm
Nhiễm mycobacterium
Lao
Các mycobacteria không điển hình
Nhiễm ký sinh trùng
Các bệnh nhiễm trùng liên quan đến hệ miễn dịch
Viêm tuyến nước bọt do bệnh tạo keo (Lupus ban đỏ toàn thân)
Hội chứng Sjogren
Dị sản tuyến nước bọt hoại tử
Bệnh sarcoid
II/ Khám tổng quát :
Khám thường quy bệnh nhân bao gồm hỏi kỹ lịch sử bệnh và thăm khám thực thể.
1/Lịch sử bệnh :Tiền sử, bệnh sử có thể cung cấp các thông tin hữu ích bởi có rất
nhiều bệnh lý khác nhau có thể dẫn đến tình trạng tuyến nước bọt bị sưng
phồng(Bảng 1). Nhiều trường hợp viêm tuyến mang tai cấp do vi khuẩn (ABP) xảy
ra ở những bệnh nhân nằm viện bị suy kiệt, ăn uống kém dẫn đến thiếu nứơc gây
mất cân bằng thể dịch hoặc thậm chí mất nước. Bệnh nhân khai sưng và đau vùng
dưới hàm sau khi ăn thì hầu như chắc chắn do sỏi tuyến dưới hàm gây nên các cơn
tắc nghẽn cấp tính. Bản thân tiền sử có sỏi tuyến nước bọt cũng có giá trị chẩn đoán.
Trẻ con bị sưng nề cấp tuyến nước bọt và đau có thể mắc quai bị. Khi khám 1 bệnh
nhân bị sưng nề cấp tuyến nước bọt cần phải hỏi xem họ có tiếp xúc với thú vật
trước đó không, đặc biệt với mèo. Nhạc công chơi nhạc cụ hơi sau buổi hoà nhạc bị
sưng tuyến mang tai hai bên có thể do không khí bị bơm vào tuyến mang tai gây
nên cái gọi là “hội chứng người thổi kèn Trumpet” kinh điển (Trumpet blower’s
syndroma).
Bảng 1
Các yếu tố nguy cơ đối với nhiễm trùng tuyến nước bọt
Mất nước
Sau gây mê và phẫu thuật
Bệnh mạn tính
Tuổi cao
Trẻ sinh thiếu tháng
Xạ trị
Tình trạng suy giảm miễn dịch
Nằm viện dài ngày
Suy thận
Suy gan
Suy tim xung huyết (congestive heart failure)
Đái đường
Suy giáp
Suy dinh dưỡng
Sỏi tuyến nước bọt
Viêm miệng
Nhiễm HIV
Hôị chứng Sjogren
Trầm cảm
Rối loạn tâm thần
Biếng ăn tâm thần /chứng ăn vô độ (Anorexia nervosa/bulimia)
Tăng acid uric huyết
Tăng lipoprotein- huyết
Bệnh xơ nang ( hay bệnh nhầy nhớt)(cystic fibrosis/mucoviscidosis)
Ngộ độc chì
Bệnh Cushing
Thuốc men
Yếu tố khác
__________________________________________________________________
Ở các bệnh nhân vừa mới đi làm răng (nhất là gắn mắc cài chỉnh nha) hoặc bệnh
nhân có thói quen cắn má, viêm tuyến mang tai ngược dòng(hay VTMT ứ đọng)
{stasis, retrograde sialadenitis ) có thể xảy ra do các sang chấn đẩy vi khuẩn vào hệ
thống ống tuyến. Mặc dù hiếm gặp, cũng nên loại trừ khả năng viêm tuyến do răng
bằng cách khám răng, thử tủy và chụp X quang răng. Chấn thương hàm mặt có thể
làm tổn thương (rách, đứt) ống Sténon, dẫn đến sưng phồng vùng tuyến mang tai do
thành lập nang giả tuyến nước bọt, hoặc chấn thương để lại các dị vật (đất cát,
mảnh chai, lông bàn chải…) có thể làm nghẽn dòng chảy nứơc bọt. Bệnh nhân có
tiền sử bệnh mạch máu – tạo keo hoặc bệnh tự miễn có khả năng hệ thống ống
tuyến bị tắt nghẽn dẫn đến viêm tuyến nước bọt (ví dụ: có mối liên hệ giữa bệnh
sarcoid và sự hình thành nang nhái ở tuyến dưới lưỡi). Sau cùng, việc khai thác lịch
sử bệnh đầy đủ có thể giúp phát hiện nhiều loại thuốc mà bệnh nhân đang sử dụng
có khả năng làm giảm lưu lượng nước bọt dẫn đến viêm tuyến ngược dòng. Đó là
các loại thuốc như : thuốc lợi tiểu, kháng - cholinergic (như atropin), kháng
histamin, các thuốc chống trầm cảm 3 vòng, phenothiazin, các thuốc chẹn – beta,
các thuốc chống tiết nước bọt, và một số loại thuốc dùng trong hóa trị ung thư
(Bảng 2). Cần xác định các dấu chứng toàn thân như sốt, bứt rứt, toát mồ hôi, ớn
lạnh và nôn ói.
Bảng 2
Các thuốc có liên quan đến nhiễm trùng tuyến nước bọt
Các thuốc kháng histamin
Các thuốc lợi tiểu
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng
Thuốc chống tăng huyết áp( thuốc chẹn bêta)
Các barbiturat
Các thuốc chống tiết nước bọt
Các thuốc kháng – cholinergic (atropin)
Thuốc dùng trong hóa trị liệu
2/ Khám thực thể:
Sau khi khai thác lịch sử bệnh đầy đủ, bắt đầu khám thực thể bằng cách trước hết
quan sát xem có sự bất cân xứng về hình dạng và kích thước của các tuyến ở 2 bên
không trước khi sờ nắn, vì rằng: chính động tác sờ nắn của thầy thuốc có thể gây
nên tình trạng sưng nề sau đó. Cần nhận diện các dấu chứng chủ yếu của tình trạng
viêm nhiễm gồm sưng, nóng, đỏ, đau. Cần ghi nhận các dấu chứng về chấn thương
mặt như vết rách, vết bầm hay vết xước (ví dụ: vết mèo quào hay vết đâm thủng).
Nên khám theo trình tự ngoài mặt trước trong miệng sau. Dùng hai tay sờ nắn nhẹ
nhàng các tuyến nứơc bọt chính, ống tuyến và lổ ống tuyến. Phải quan sát cẩn thận
xem có dòng nước bọt chảy hoặc phọt ra tự phát hoặc do động tác ép vuốt
tuyến/ống tuyến của thầy thuốc. Dòng nước bọt này có thể mang theo các nút nhầy,
viên sỏi nhỏ hoặc để lại ít mũ đọng ở miệng ống tuyến. Chụp phim quanh chóp và
thử tủy để loại trừ bất cứ khả năng nhiễm trùng do răng nào (thường liên quan đến
các khoang sâu) khi sưng vùng dưới hàm hoặc sau mặt.
Cần phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định dùng dụng cụ thăm dò lổ và ống
tuyến. Động tác thăm dò cơ học này có giá trị chẩn đoán và/ hoặc điều trị, ví dụ:
giúp xác định sự hiện diện của sỏi (chẩn đóan) hoặc lấy đi các nút nhầy, nong rộng
chỗ chít hẹp của ống tuyến nước bọt (điều trị). Nhưng mặt khác, thao tác này có thể
đẩy vi khuẩn thường trú quanh miệng lổ vào trong ống tuyến gây viêm tuyến ngược
dòng. Nói chung, thăm dò ống tuyến tuyệt đối chống chỉ định đối với dịch quai bị ở
trẻ con và nên chống chỉ định đối với viêm tuyến mang tai cấp do vi khuẩn (ABP).
U hoặc viêm tuyến dưới lưỡi rất hiếm gặp; sang thương thường gặp nhất của tuyến
dưới lưỡi là nang nhái. Cuối cùng, sờ nắn vùng mặt và cổ để phát hiện các dấu hiệu
liên quan đến bệnh lý hạch bạch huyết.
3/Chẩn đóan hình ảnh:
Dựa trên lịch sử bệnh và khám lâm sàng, thầy thuốc sẽ quyết định việc chụp X –
quang tuyến nước bọt và đây là một xét nghiệm hữu ích trong chẩn đóan đối với các
trường hợp tuyến nước bọt sưng phồng. Chụp X – quang không sữa soạn có thể
phát hiện sỏi nhu mô hoặc ống tuyến (Hình 1). Tuy nhiên phương pháp này có mặt
hạn chế vì chỉ khỏang 80 – 85% sỏi cản quang thấy được trên phim không sữa soạn.
Chụp phim mặt nhai hàm dưới giúp phát hiện của tuyến dưới hàm và dưới lưỡi. Đối
với tuyến mang tai và nhất là ống Sténon, nên chụp phim ở tư thế “phồng má”,
nghĩa là cho bệnh nhân giữ hơi trong miệng càng nhiều càng tốt để đẩy má ra ngòai
tối đa, như vậy hình ảnh (cản quang) của sỏi (nếu có) dễ được phát hiện hơn do
không bị chập lên hình ảnh (cản quang) cành cao (hàm dưới) và cung tiếp. Phim
quanh chóp và phim toàn cảnh đôi khi cho thấy hình ảnh của sỏi tuyến nước bọt
chính.
Chụp cắt lớp điện toán (CT), mặc dù có độ nhiễm xạ cao hơn nhưng ít xâm lấn hơn,
cho phép phân biệt mô tuyến nước bọt với mô mềm kế cận rõ hơn so với phương
pháp chụp cản quang tuyến nước bọt. Chụp CT cho phép phân biệt sang thương ở
trong hay ngoài tuyến. Ví du: hình ảnh lâm sàng của 1 nhiễm trùng khoang nhai
(nguyên nhân do răng chẳng hạn) rất giống với 1 viêm tuyến mang tai cấp. Trong
trường hợp này hình ảnh phim CT cho phép phân biệt được 2 tình huống trên. Phim
CT cũng có thể cho thấy hình ảnh sỏi rốn tuyến dưới dưới hàm vốn khó thấy được
trên các phim không sữa soạn. Hình ảnh CT ba chiều gíup khảo sát các bất thường
ống tuyến cũng như các thay đổi cấu trúc nhu mô tuyến trong không gian 3 chiều.
Siêu âm là1 kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh đơn giản và không xâm lấn có thể hữu ích
trong việc đánh giá các sang thương dạng khối (mass lesion) của tuyến mang tai và
tuyến dưới hàm. Siêu âm có thể phân biệt sang thương dạng đặc hay dạng nang
(chứa dịch). Nang, sỏi tuyến mang tai/tuyến dưới hàm, ống tuyến giãn rộng và áp-
xe có thể phát hiện nhờ siêu âm. Tuy nhiên hình ảnh siêu âm thiếu độ phân giải cần
thiết để cho các hình ảnh chi tiết.
Cộng hưởng từ (MRI) cung cấp hình ảnh mô mềm tuyệt vời nhất trong khi bệnh
nhân không bị nhiễm tia và không phải sử dụng chất cản quang. Việc sử dụng MRI
trong nhiễm trùng tuyến nước bọt trước đây khá hạn chế, nhưng gần đây đã trở nên
phổ biến hơn nhờ hình ảnh giải phẫu ống tuyến nước bọt tuyệt hảo của kỹ thuật này.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy việc sử dụng hình ảnh MR – T2 nhanh có khả
năng cung cấp hình ảnh chi tiết cấu trúc của ống tuyến giúp có thể xác định được
sỏi.
Trong thập niên qua, nội soi tuyến nước bọt là 1 kỹ thuật ít xâm lấn được dùng để
chẩn đoán và điều trị các rối loạn do tắc nghẽn tuyến nước bọt. Kĩ thuật này được
dùng trong các truờng hợp khó tiếp cận và/hoặc khó lấy sỏi (sỏi nằm ở phần sau
ống Wharton hoặc ở rốn tuyến dưới hàm); hoặc dùng để khảo sát hệ thống ống dẫn
sau khi đã lấy sỏi hay sau khi phát hiện có sỏi dựa vào phim chụp X – quang hay
siêu âm; hoặc dùng để thám sát trong những trường hợp sưng nề tuyến tái phát mà
không chẩn đoán được nguyên nhân hay bệnh lý. Đây là 1 kỹ thuật nhiều hứa hẹn
do ít gây biến chứng trong điều trị lấy sỏi tuyến nước bọt và trong chẩn đoán viêm
ống tuyến và di chứng sẹo gây chít hẹp ống tuyến .
Chụp cản quang tuyến nước bọt (sialography) từng được xem là “chỉ định ưu tiên
1” trong X quang chẩn đoán tuyến nước bọt. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
nó đã được thay thế rộng rãi bằng CT và MRI. Chụp cản quang tuyến nước bọt
được chỉ định chủ yếu cho các trường hợp tắt nghẽn hoặc viêm tuyến mãn do tắt
nghẽn. Kỹ thuật này giúp phát hiện được khỏang 15% đến 20% trường hợp sỏi thấu
quang hoặc tắt nghẽn do các nút nhầy, đồng thời cung cấp khá chi tiết hình ảnh nhu
mô tuyến nước bọt và hệ thống ống tuyến. Chụp cản quang còn cho thấy những chỗ
chít hẹp của ống tuyến , dị vật, sỏi, ổ áp – xe trong nhu mô tuyến cũng như đánh
giá mức độ tổn thương ống tuyến và nhu mô tuyến do các bệnh lý tắt nghẽn, nhiễm
trùng, chấn thương và u tân sinh gây ra.
Chụp cản quang tuyến bằng cách bơm các chất cản quang tan trong nước hoặc dầu
có nồng độ i-ốt (iodine) từ 28-38%. Do chất cản quang chứa nồng độ i- ốt cao, chụp
cản quang không được chỉ định trong cơn viêm tuyến cấp vì chất cản quang có thể
thoát ra khỏi bao tuyến đang viêm và bị tổn thương, gây đau đớn và thương tổn mô
mềm thậm chí dẫn đến họai tử nhu mô tuyến. Các chống chỉ định khác của chụp cản
quang tuyến nước bọt có thể kể như : bệnh nhân mẩn cảm với iodine, thực hiện
trước khi bệnh nhân làm các xét nghiệm khảo sát chức năng tuyến giáp. Ngoài khả
năng phát hiện sỏi và các nút dịch, chụp cản quang tuyến nưốc bọt còn có tác dụng
điều trị như tống xuất các viên sỏi nhỏ hay nút nhầy, nhờ vậy giải phóng sự tắc
nghẽn, phục hồi lưu lượng nước bọt. Hầu hết các chất cản quang được xem là có
tính kìm khuẩn (1 số là hỗn hợp chất cản quang và kháng sinh); tuy nhiên tác động
kìm khuẩn của chúng trong các tuyến vẫn chưa được chứng minh. Chụp cản quang
tuyến nước bọt có thể gây nên tình trạng du khuẩn huyết thoáng qua. Chụp cản
quang giúp xác định mức độ hủy hoại của ống và nhu mô tuyến do qúa trình viêm
hoặc nhiễm trùng tuyến nước bọt gây ra. Nhiễm trùng hoặc viêm tuyến lâu ngày
dẫn đến teo các túi tuyến (acinar atrophy) làm cho dung dịch cản quang không thể
đi vào các ống nhỏ ngọai vi, khi đó phim chụp cản quang có hình ảnh cây phân
nhánh không đầy đủ, gọi là hình ảnh “tỉa cây” (pruning). Trong khi đó, viêm ống
tuyến có hình ảnh kinh điển “gút thắt xúc xích” trên phim cản quang. Các chỗ
phình to dạng túi của hệ thống ống tuyến là kết qủa của quá trình viêm mãn làm
thay đổi cấu trúc của thành ống tuyến, hoặc do nổ lực co bóp thường xuyên để đẩy
nước bọt vượt qua chỗ tắc nghẽn làm mất đi tính đàn hồi của ống tuyến, hoặc do cả
hai quá trình này. Các ổ áp- xe bên trong nhu mô tuyến có thể nhận biết qua hình
ảnh cấu trúc bình thường của tuyến bị đẩy lệch và dồn ép ra xung quanh quanh 1
vùng thấu quang. Cuối cùng, số lượng dung dịch cản quang còn lưu lại trong tuyến
sau khi chụp phản ánh mức độ suy giảm chức năng tuyến. Gần đây, chụp cản quang
tuyến nước bọt được kết hợp với cả CT và MRI để cải thiện độ phân giải và chi tiết
của hình ảnh.
Quét đồng vị phóng xạ hay chụp nhấp nháy có thể hữu ích trong việc khảo sát nhu
mô tuyến nước bọt. Kỹ thuật này dựa trên khả năng tập trung chọn lọc các nguyên
tố phóng xạ – như iod phóng xạ - cuả mô tuyến. Tính chọn lọc này tương tự như
của tuyến giáp. Nói chung, các sang thương bên trong tuyến như u hỗn hợp, u
Warthin và các u ác của tuyến nước bọt có thể được phát hiện nhờ tiêm tĩnh mạch
chất đồng vị phóng xạ (99m Tc pertechnetate). Chụp nhấp nháy cho thay tăng tích
tụ 99m Tc trong trường hợp viêm tuyến cấp hay giảm tích tụ trong trường hợp
tuyến bị suy giảm chức năng do viêm nhiễm mãn tính và xơ hóa. Ưu điểm chụp
nhấp nháy là tất cả tuyến nước bọt đều hiện hình cùng lúc; tuy nhiên lại có nhược
điểm là độ phân giải kém.
4/Xét nghiệm la bô: Các xét nghiệm labô cũng góp phần hổ trợ chẩn đoán nhiễm
trùng tuyến nước bọt. Trong viêm tuyến nước bọt cấp do vi khuẩn thường có tăng
bạch cầu ngoại vi; trong viêm tuyến nước bọt do siêu vi thì bạch cầu giảm và
lympho bào tăng tương đối. Hóa sinh tuyến nước bọt đo lường các thay đổi về nồng
độ ion natri và kali cùng với những thay đổi lưu lượng nước bọt. Nói chung, các rối
loạn của tuyến nước bọt không do viêm (ví dụ: sỏi tuyến )có mức kali cao (mức kali
bình thường ở tuyến mang tai là 25 mEeq/L; tuyến dưới hàm 20 mEq/L) trong khi
viêm tuyến nước bọt thì hàm lượng kali giảm và hàm lượng natri tăng (hàm lượng
natri bình thường ở tuyến mang tai là 7 mEq/L; tuyến dưới hàm 5 mEq/L). Viêm
tuyến mang tai tái phát làm cho nồng độ protein gia tăng (> 4oo mg/dL), và viêm
tuyến nước bọt trong bệnh tạo keo (vd: lupus ban đỏ toàn thân ) làm cho nồng độ
chloride tăng cao hơn 2 đến 3 lần so với bình thường. Lưu lượng nước bọt cũng có
thể giảm trong viêm tuyến nước bọt.
Vi trùng học có tầm quan trọng rất đặc biệt trong chẩn đoán nhiễm trùng tuyến nước
bọt. Mủ lấy theo cách thường quy (chọc hút hay qua dẫn lưu tự phát hoặc do rạch)
được nhuộm Gram, cấy nấm, cấy hiếu, kỵ khí và làm kháng sinh đồ. Kỹ thuật
nhuộm kháng acid nhanh (acid-fast staining techniques) cũng có thể sử dụng trong
trường hợp nghi do mycobacterium.
5/ Chẩn đoán phân biệt:
Trước 1 tuyến nước bọt bị sưng phồng, có thể có rất nhiều rối lọan khác nhau gây
nên mà ta cần phải chẩn đoán phân biệt (Bảng 3). Nói chung, có thể lọai trừ u bướu
và các bệnh hệ thống vì chúng không có bất cứ dấu chứng cơ bản nào của viêm
nhiễm. Bệnh tuyến nước bọt, hay sưng tuyến nước bọt không do viêm nhiễm có thể
bắt nguồn từ nhiều bệnh lý toàn thân khác nhau. Bướu lành của tuyến thường biểu
hiện là một khối chắc, không đau, phát triển chậm trong khi một bướu ác phát triển
nhanh hơn, có thể có những dấu hiệu thiểu năng thần kinh (như yếu, liệt thần kinh
mặt), đau hoặc dính với tổ chức bên dưới. Sưng tuyến và đau sau bữa ăn thường là
do viêm tuyến do tắc nghẽn. Hình 1 đề xuất 1 phác đồ đánh giá sự sưng phồng
tuyến nước bọt.
III/ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
1/ VIÊM TUYẾN NƯỚC BỌT DO VI KHUẨN
a/ Viêm tuyến mang tai cấp do vi khuẩn:
Lịch sử nhiễm trùng tuyến mang tai cấp do vi khuẩn (acute bactreial parotitis: ABP)
đồng hành với lịch sử y học hiện đại. Trường hợp ABP đầu tiên được báo
cáo vào năm 1829 ở Hotel Dieu (Paris). Năm 1834, Brodie phân biệt ABP với bệnh
quai bị do siêu vi gây ra. Thực thể bệnh lý này còn được gọi là viêm tuyến mang tai
mưng mủ, viêm tuyến mang tai sinh mủ, hay bệnh quai bị ngoại khoa (vì về mặt
lịch sử, nó được cho là do tình trạng giảm lưu lượng tuần hòan và mất nước hậu
phẫu gây ra). Trước kỷ nguyên của kháng sinh và phẫu thuật Y khoa hiện đại, ABP
là biến chứng hay gặp của phẫu thuật bụng và chấn thương bụng
Bảng 3: Chẩn đoán phân biệt sưng tuyến nước bọt
với tỷ lệ tử vong gần 50 %. Tiền bán thế kỷ XX, sự hiểu biết sinh lý về cân bằng
nước-điện giải và mất nước hậu phẫu vẫn còn rất hạn chế. Do không bù
đủ dịch thay thế cho khôi lượng dịch có thể ước lượng và không thể ước lượng
được bị mất đi trong lúc mổ, cũng như tiếp tục duy trì sự cân bằng đó sau mổ, giảm
khối lượng tuần hòan sau mổ đã dẫn đến viêm ứ đọng hay ngược dòng tuyến mang
tai qua ống Sténon. Tháng 7-1881, Tổng thống thứ 20 của Mỹ James Garfield bị
trúng đạn ở bụng trong một vụ mưu sát. Ông được phẫu thuật bụng để thám sát, sau
đó bị viêm phúc mạc và mất nước. Mười tuần sau ông qua đời do nhiễm trùng huyết
mà nguyên nhân có lẽ là hậu qủa cuả tình trạng viêm tuyến mang tai mưng mủ.
Năm 1919, 1 báo cáo về 7 trường hợp phơi mình lâu dưới ánh nắng ở miền trung
tây Hoa Kỳ dẫn đến mất nước kèm theo khô miệng được cho là có liên quan với
ABP. Cuối thập niên 1930 và trong Chiến Tranh Thế Giới thứ hai, khi truyền dịch
đường tĩnh mạch trong và sau mổ đã trở thành 1 phương pháp hồi sức thường quy
thì người ta thấy tỷ lệ ABP hậu phẫu đã giảm xuống một cách
Hình 1 Sơ đồ đánh giá và xử trí đối với sưng tuyến nước bọt
Nhiễm trùng tuyến nước bọt(xem bảng 1)
Phì đại tuyến mang tai(sialosis,
sialadenosis)
Nội tiết
Thần kinh thể dịch
Rối loạn men (Dysenzymatic)
Suy dinh dưỡng
Bệnh nhầy nhớt (mucoviscidosis,
cysticfibrosis)
Sỏi tuyến
Nang tuyến
Chít hẹp ống tuyến
Nang nhầy
Nang nhái
Ong Sténon to (megastenon)
Chứng tăng tiết nước bọt
Chứng khô miệng
Chấn thương
Nhiễm trùng do răng
U lành tuyến nước bọt:
U hỗn hợp
U tuyến đơn dạng
U Warthin
U tuyến tế bào ưa a xít
U ác tuyến nước bọt
Ung thư biểu mô nhầy bì
Ung thư biểu mô nang dạng tuyến
U hỗn hợp ác
Ung thư biểu mô tế bào túi tuyến
Ung thư biểu mô tuyến đa dạng độ ác
thấp( polymorphous low-grade
adenocarcinoma)
U tổ chức liên kết (u máu, u xơ thần
kinh, u mỡ, u xơ..)
Bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng
(infection mononucleosis)
Nang dạng da
Nang dạng thượng bì
U hạch (lymphoma)
ngoạn mục. Đến năm 1955, với việc sử dụng thường quy kháng sinh dự phòng và
điều trị chu phẫu , Robinson cho rằng ABP là một bệnh đang dần lụi tàn. Nhưng
đến năm 1958, Petersdorf và cộng sự báo cáo 7 trường hợp viêm tuyến mang tai do
Staphylococcus đề kháng với penicillin, và đến đầu thập niên 1960 hàng loạt trường
hợp ABP được báo cáo.
Lan tỏa
Một bên Hai bên
Giới hạn rõ
Một bên
Cấp Mãn Cấp Mãn
Triệu chứng toàn
thân(sốt, ớn lạnh, đổ
mồ hôi..)
Đau
Sốt
Mưng mũ
ABP
Cấy khuẩn + kháng
sinh đồ
Bù nước
Không dùng thuốc ức
chế tiết nước bọt
Dùng kháng sinh theo
kinh nghiệm
Rạch và dẫn lưu
Lấy sỏi.
Không khỏi
Cấy lại
CT, MRI
Rạch + dẫn lưu lại
Nội soi tuyến nước bọt
Chụp cản quang (mạn
tính)
Sưng tuyến nước bọt
Tắc nghẽn Không tắc nghẽn
Lấy sỏi nước bọt/tạo hình ống tuyến
Cắt tuyến nước bọt(mãn tính)
H/C Sjogren
Lupus ban đỏ
toàn thân
Sarcoid
Bệnh khác
CT,MRI
Bướu Loại trừ bướu
Phân loại TNM
Phẫu thuật
Điều trị
bằng thuốc
2 bên
bêbbênbên
U Warthin