Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa quân sự Việt Nam gắn với thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuôc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.56 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Đ



<b>BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ</b>


<b>DI SẢN VĂN HÓA QUÂN SỰ VIỆT NAM GẮN VỚI </b>


<b>THỜI KỲ DỰNG NƯỚC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC</b>



<b>NGUYỄN TIẾN DŨNG</b>


<b>Tóm tắt</b>


<i>Di sản văn hóa quân sự Việt Nam thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuộc là tài sản văn hóa quý giá </i>
<i>của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, một bộ phận của di sản văn hoá dân tộc. Trải qua hàng nghìn </i>
<i>năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, các di tích văn hóa quân sự Việt Nam đã và đang bị mai </i>
<i>một và tiềm ẩn nguy cơ biến mất. Vì thế, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá quân sự Việt </i>
<i>Nam gắn với thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuộc có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết trong giai </i>
<i>đoạn hiện nay.</i>


<b>Từ khóa: Quân sự, dựng nước, chống Bắc thuộc, văn hóa quân sự, di sản văn hóa quân sự</b>
<b>Abstract</b>


<i>The Vietnam’s military cultural heritages during the period of the country’s building and fighting </i>
<i>against the Northern invaders is a precious cultural asset of the Vietnamese ethnic community, a part </i>
<i>of the national cultural heritage. During thousands of years with a series up and down of history, the </i>
<i>Vietnam’s military cultural relics have been lost and in the danger of disappearing. Therefore, the </i>
<i>protection and promotion the value of Vietnam’s military cultural heritage associated with the period </i>
<i>of national construction and fighting against Northern invaders is very important and essential in the </i>
<i>current period.</i>


<b>Keyword: Military, national construction, fighting against Northern invaders, military culture, </b>


military cultural heritage



<b>1. Khái niệm về di sản văn hóa quân sự</b>


ể có quan niệm về di sản văn hố
qn sự, trước hết cần làm rõ quan
niệm về di sản văn hoá. Xét đến
cùng thì văn hố và di sản văn hố là những


<i>phạm trù đồng chất. Mọi hiện tượng, quá trình </i>


văn hố khi đạt trình độ phổ qt của hệ chuẩn
<i>chân - thiện - mỹ ln có xu hướng tất yếu trở </i>


<i>thành di sản, và ngược lại chỉ trở thành di sản </i>


khi đạt trình độ phổ quát của hệ chuẩn chân
- thiện - mỹ. Song, chỉ có những nhân cách văn
hố, hành vi văn hoá, hiện tượng văn hoá, quan
hệ văn hoá, hoạt động văn hoá, thiết chế văn
hoá, đời sống văn hoá… hàm chứa giá trị bền
vững, tỏ rõ sức sống, được trau truyền, tích
hợp, phát huy lâu bền mới thực sự trở thành
văn hoá theo ý nghĩa tổng hồ trình độ phát
triển nhân tính trong lịch sử. Và đó chính là di
sản văn hoá.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

lĩnh vực tổ chức, hoạt động quân sự của cộng
đồng, dân tộc… xét về phương diện giá trị văn
hoá. Từ phân tích trên, có thể hiểu di sản văn
hố qn sự Việt Nam là những sản phẩm vật


chất và tinh thần được hình thành qua các
hoạt động quân sự, gắn với lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam có giá trị lịch
sử, văn hố, khoa học quân sự được lưu truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác.


Lịch sử dựng nước đi liền với giữ nước đã
để lại cho dân tộc Việt Nam kho tàng di sản
văn hoá quân sự phong phú. Cũng như di sản
văn hố nói chung, di sản văn hố qn sự Việt
Nam được tích hợp từ những giá trị văn hoá
quân sự tiêu biểu, hình thành và phát triển
trên cơ sở những nhân tố nền gốc về tiền đề
địa lý tự nhiên, bối cảnh kinh tế - xã hội và tâm
thức văn hoá đặc trưng của người Việt. Chính
những đặc điểm thực tiễn của lịch sử dân tộc
đã tích hợp nên những đặc trưng của di sản
văn hoá quân sự Việt Nam. Cấu trúc của di sản
văn hoá quân sự Việt Nam bao gồm di sản vật
thể và di sản phi vật thể được trầm tích tự
nhiên và được trau truyền chính thống.


<b>2. Di sản văn hóa quân sự Việt Nam thời Mở </b>


<b>nước và chống Bắc thuộc</b>


Nước ta có vị trí địa lý quan trọng ở vùng
Đông Nam Á, nằm trên ngã tư các đường giao
thông Bắc - Nam - Đông - Tây, giữa đại lục và
hải đảo. Đây là điều kiện thuận lợi để người Việt


giao lưu, tiếp xúc với các quốc gia khác, nhưng
đồng thời phải sớm đương đầu với nhiều mối
đe doạ từ bên ngoài. Về lãnh thổ, bờ cõi nước
ta trong thời kỳ này đã trải dài và khá rộng. Từ
Hà Giang và các vùng phụ cận ở phía Bắc vào
đến dãy Hồnh Sơn ở phía Nam; từ vùng rừng
núi phía Tây qua miền trung du và đồng bằng
các châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam...
ra biển Đông. Trung tâm của đất nước chuyển
dần và ngày càng mở rộng về vùng đồng bằng,
nhưng vẫn tựa lưng vững chắc vào vùng rừng
núi, nơi có thế thiên hiểm và chứa đựng
nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng. Đồng
thời, ngay từ thời lập quốc, đất nước ta đã có
một không gian nước bao la với bờ biển dài,
nhiều đảo và quần đảo giàu hải sản quý hiếm,
đặc biệt là ngọc trai, đồi mồi… mà giới quý tộc
phương Bắc ham chuộng. Ở nội địa, mạng
sơng ngịi chằng chịt không chỉ bồi đắp phù sa
màu mỡ cho vùng đồng bằng, thuận lợi cho
phát triển nông nghiệp mà cịn tạo ra hệ thống


giao thơng đường thuỷ, thuận tiện cho giao lưu,
trao đổi sản vật giữa các vùng của đất nước cũng
như với các nước khác, đồng thời tiện cho việc
cơ động lực lượng, vận chuyển lương thực, phát
huy thế mạnh của thuỷ chiến khi đất nước có
chiến tranh. Yếu tố nước chi phối nền văn hoá
Việt, bởi vùng cư trú của người Việt cổ có trên
50% diện tích là sơng hồ, cùng với tính chất bán


đảo (chiếm trọn phần phía Đơng của bán đảo
Đơng Dương). Đặc tính nền văn hố lúa nước với


<i>triết lý nước góp phần tạo nên tư tưởng chiến </i>


tranh linh hoạt, mềm dẻo của người Việt. Địa lý
tự nhiên, môi trường sinh thái, không gian sinh
tồn của người Việt gồm vùng núi, vùng đồng
bằng và các vùng nước nối liền và gắn kết với
nhau là những yếu tố quan trọng hình thành nên
các ngành, nghề kinh tế đa dạng cùng nền văn
hố phong phú, trong đó có những nét đặc sắc
liên quan đến hoạt động quân sự như tài bơi
lặn, giỏi dùng thuyền trong thuỷ chiến, đánh mai
phục, đánh gần...


Trải qua hàng nghìn năm, tổ tiên ta đã từng
bước tiến vào xã hội văn minh, định hình quốc
gia, dân tộc, xây dựng nền văn hiến, với nhà
nước sơ khai đầu tiên - nhà nước Văn Lang. Về
dân số nước ta thời Văn Lang, theo sách Tiền
Hán thư, ước đoán, có thể đã có khoảng một
triệu người. Trong buổi đầu ấy, tổ chức nhà
nước đã xuất hiện, nhưng còn sơ khai - Bộ
máy hành chính với hệ thống quan chức chỉ
được ghi chép sơ sài trong thư tịch và lưu ảnh
trong ký ức dân gian - qua truyền thuyết. Ở các
bộ (địa phương) có Lạc Tướng đứng đầu, cha
truyền con nối, gọi là phụ đạo. Bộ máy chính
quyền trung ương do Hùng Vương đứng đầu,


với các Lạc Hầu là người giúp việc, cùng đội
thân binh làm nhiệm vụ bảo vệ và dần hình
thành một lực lượng vũ trang thường trực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

do tổ tiên chúng ta là người Lạc Việt đã xuất
đầu lộ diện trên lịch sử chính là kết quả của
cuộc kháng chiến bền bỉ của tổ tiên ta chống
quân nhà Tần. Nó có ý nghĩa trọng đại đối với
lịch sử nước ta”(1).


Năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà
chiếm được Âu Lạc, từ đó, đất nước ta phải
trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc. Các triều
đại phong kiến phương Bắc từ Triệu, Hán, Ngô,
Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tuỳ, Đường đã thực
thi nhiều chính sách và mưu đồ nhằm đồng
hoá dân tộc ta, xoá tên quốc gia của người Việt.
Tuy nhiên, dựa trên nền tảng vững chắc của
một cộng đồng quốc gia dân tộc có lãnh thổ
riêng, tiếng nói riêng, nền văn hố riêng, nhân
dân ta không chịu khuất phục, liên tục đấu
tranh chống các triều đại phong kiến phương
Bắc. Tiêu biểu, như khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
chống ách đô hộ nhà Đông Hán năm 40 - 43;
khởi nghĩa Bà Triệu chống ách đô hộ nhà Đông
Ngô năm 248; khởi nghĩa Lý Bí chống ách đơ
hộ nhà Lương năm 542 - 545; kháng chiến
chống ách đô hộ nhà Tuỳ của Lý Phật Tử năm
603; khởi nghĩa Mai Thúc Loan chống ách đô
hộ của nhà Tùy năm 722; kháng chiến chống


ách đô hộ của nhà Đường do Phùng Hưng
lãnh đạo năm 766 - 791, của Khúc Thừa Dụ
năm 905; kháng chiến chống quân Nam Hán
xâm lược giai đoạn 930 - 938...


Theo đó, di sản văn hóa quân sự vật thể
thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuộc của dân
tộc đã được định hình qua hàng nghìn năm lao
động, đấu tranh bền bỉ và sáng tạo của tổ tiên
ta, điển hình là các di chỉ có vũ khí, trang bị
quân sự, như mũi tên, nỏ, lao, giáo, rìu chiến,
dao găm, kiếm ngắn, tấm che ngực, mộc,
những phương tiện thông tin liên lạc, thuyền
chiến... thuộc các giai đoạn văn hóa Phùng
Nguyên, Đồng Đậu, Gị Mun, Đơng Sơn; các
cơng trình phịng thủ quân sự, như làng Việt,
thành cổ của Kinh Dương Vương (Việt Trì - Phú
Thọ); thành Cổ Loa (Đơng Anh - Hà Nội)...; các
di tích chiến trường, dấu tích chiến cơng, như
căn cứ Cấm Khê, thuộc dãy núi Ba Vì trong khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng; căn cứ núi Nưa, thuộc
miền núi Nưa, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa,
nơi Triệu Thị Trinh và anh trai là Triệu Quốc Đạt
dấy binh khởi nghĩa; đầm Dạ Trạch ở huyện
Chu Diên (tức bãi Màn Trị, Khối Châu, Hưng
n) - căn cứ qn sự được Triệu Quang Phục


sử dụng để sản xuất lương thực, rèn giũa binh
khí, huấn luyện quân sĩ, tập kích quân nhà
Lương; cửa sông Bạch Đằng (thị xã Quảng Yên


- Quảng Ninh), nơi được Ngô Quyền chọn làm
chiến trường quyết chiến với quân Nam Hán.


Bên cạnh đó là các di sản văn hóa quân sự
phi vật thể thời kỳ dựng nước và chống Bắc
thuộc như: truyền thuyết Thánh Dóng, truyền
thuyết An Dương Vương xây dựng thành Cổ
Loa... Các cuộc khởi nghĩa thời Bắc thuộc còn để
lại cho chúng ta những thông điệp và tư tưởng
quân sự, chiến lược và chiến thuật quân sự,
như: tư tưởng“đồng khởi” của Hai Bà Trưng,
“nam nữ bình quyền” của Bà Triệu,“Nam đế cư”
và kháng chiến trường kỳ của Lý Bí, lối đánh “du
kích” của Triệu Quang Phục, kế vây hãm thành
của Phùng Hưng, tinh thần độc lập tự chủ của
họ Khúc, Dương Đình Nghệ... Di sản văn hóa
quân sự phi vật thể còn được thấy qua một số
lễ hội truyền thống, như hội đền Hùng - khơi dậy
tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân
tộc; hội đền Dóng, lễ hội đền Hai Bà Trưng...


<b>3. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quân </b>


<b>sự Việt Nam thời Mở nước và chống Bắc </b>
<b>thuộc</b>


Với đường lối đúng đắn và sáng tạo của
Đảng ta, di sản văn hóa Việt Nam nói chung
và di sản văn hóa quân sự Việt Nam nói riêng
đã và đang được bảo tồn, phát huy, góp phần


quan trọng vào những thắng lợi to lớn của
nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bởi vậy, bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn
hóa quân sự, trong đó có di sản văn hóa quân
sự thời dựng nước và chống Bắc thuộc trong
sự phát triển toàn diện đất nước, làm cho di
sản văn hóa quân sự tiếp tục tỏa sáng trong
giao lưu, hội nhập là nhiệm vụ quan trọng, có
ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

mạng khoa học - công nghệ thế giới, cùng với
việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội để
chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của
nhân loại, đồng thời, cũng đặt ra những thách
thức mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc. Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc
tế, bên cạnh những tác động tích cực, cũng đã
bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến
việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
quân sự dân tộc. Mặt khác, các thế lực thù địch
cũng luôn ráo riết chống phá ta trên mặt trận
tư tưởng văn hóa, nhằm chia rẽ khối đại đồn
kết dân tộc... Trong khi đất nước ta còn nghèo,
nhu cầu văn hóa của nhân dân rất lớn nhưng
khả năng đáp ứng còn hạn chế do thiếu những
điều kiện và phương tiện vật chất cần thiết.


Một điều đáng quan tâm là những di sản
văn hóa quân sự gắn với thời kỳ dựng nước và


chống Bắc thuộc cách đây hàng ngàn năm, ở
một đất nước đã trải qua biết bao biến cố, nhất
là chiến tranh, lại thường xun phải chống
lại chính sách thơn tính, đồng hóa thâm độc
của các thế lực phong kiến phương Bắc, rất
dễ bị mai một và ln tiềm ẩn nguy cơ biến
mất nhanh chóng. Vì thế, việc bảo vệ và phát
huy giá trị hệ thống di sản văn hoá quân sự
Việt Nam gắn với thời kỳ dựng nước và chống
Bắc thuộc có ý nghĩa rất quan trọng. Đó cũng
chính là việc bảo vệ và phát huy một tài sản
văn hóa quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, một bộ phận của di sản văn hoá dân
tộc và di sản văn hóa quân sự của nhân loại -
cội nguồn, nền tảng tạo nên hệ giá trị của văn
hóa qn sự Việt Nam hơm nay và mai sau.


Để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa quân sự Việt Nam gắn với thời kỳ dựng
nước và chống Bắc thuộc trong giai đoạn hiện
nay, trước hết chúng ta cần quán triệt sâu sắc
những quan điểm cơ bản của Đảng về xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững
đất nước, văn hóa phải được đặt ngang hàng
với kinh tế, chính trị, xã hội. Tăng cường vai
trị quản lý của nhà nước trong việc xây dựng
và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.



Cơng tác bảo tồn và trùng tu các di sản văn
hóa quân sự thời dựng nước và chống Bắc
thuộc cần đảm bảo tính nguyên gốc và tính
chân thực lịch sử của di sản, đó là cần làm rõ
lịch sử hình thành, ý nghĩa của di sản, phải bảo
đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho di sản
văn hóa và khi cần đến phải đảm bảo việc giới
thiệu, trưng bày, phục dựng và tôn tạo. Tăng
cường việc ứng dụng những thành tựu khoa
học kỹ thuật hiện đại trong việc bảo tồn di sản
góp phần chống xuống cấp và bảo vệ lâu dài
cho di sản văn hóa quân sự thời dựng nước và
chống Bắc thuộc là rất cần thiết, bởi những di
sản đó đã có cách đây hàng nghìn năm rất dễ
bị hư hại trong điều kiện khí hậu nóng ẩm,
đồng thời cũng cần áp dụng các biện pháp
khoa học, các phương tiện hiện đại trong
trưng bày phát huy giá trị các di sản.


Phát huy di sản văn hóa quân sự Việt Nam
thời mở nước và chống Bắc thuộc có hiệu quả,
thu hút được sự quan tâm của cơng chúng với
di sản đó là cần khai thác những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp
nên qua lịch sử ngàn năm đấu tranh giữ nước
gắn liền với dựng nước. Những giá trị tiêu biểu
như lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đồn kết, cả nước một lịng,
tồn dân đánh giặc, nghệ thuật quân sự “lấy


ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”, “lấy đoản
binh thắng trường trận”, là tinh thần nhân đạo,
nhân văn, hòa hiếu, là phương lược giữ nước
từ lúc nước chưa nguy, là nghệ thuật dựng
binh và dụng binh độc đáo…


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

quân sự thời kỳ mở nước và chống Bắc thuộc,
khơi dậy lòng tự hào đối với di sản văn hóa
quân sự là cơng việc có ý nghĩa quan trọng để
hướng người dân chủ động tìm tịi, sưu tầm và
bảo tồn các loại hình di sản văn hóa qn sự
này. Cùng với việc phổ biến các quy định, cần
thiết phải giải thích và cụ thể hóa, thể chế hóa
các quy định chung, các văn bản hướng dẫn
phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để mọi người
dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành.
Ngoài ra, cần phải làm rõ và gắn lợi ích của
người dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn.
Đây cũng là cách thức thu hút đông đảo người
dân tham gia lưu giữ di sản văn hóa quân sự.
Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân
phải thực hiện tốt chính sách xã hội hóa hoạt
động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quân
sự thời kỳ mở nước và chống Bắc thuộc, nhằm
động viên sức người, sức của của các tầng lớp
nhân dân, các tổ chức xã hội. Chính sách này
được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai
trò và trách nhiệm của nhà nước. Các cơ quan
chủ quản về văn hóa của Nhà nước phải làm
tốt chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp


vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa.
Cần ban hành và thực hiện nghiêm cơ chế và
chính sách phát huy nội lực của nhân dân; tạo
được phong trào quần chúng mạnh mẽ tham
gia bảo tồn di sản văn hóa quân sự, coi trọng
bồi dưỡng, giáo dục và phát huy khả năng của
tuổi trẻ là lực lượng chính, là đối tượng chủ yếu
của hoạt động này.


Củng cố, hoàn thiện thể chế văn hóa ở cơ sở,
bảo đảm tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước, vai trò làm
chủ của nhân dân và lực lượng những người làm
công tác bảo tồn các di sản văn hóa quân sự.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết
chế văn hóa hiện có, thực hiện phương
trâm“Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”,
hình thành các hình thức sáng tạo và


lợi. Xây dựng các quy chế, quy định về lễ hội,
việc cúng bái ở các đền chùa, việc đốt vàng mã,
việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi cơng cộng, v.v...
Khuyến khích nhân dân các xã, phường, thôn
ấp, cụm dân cư xây dựng các quy ước về nếp
sống văn hóa, giữ gìn trật tự vệ sinh cơng cộng,
bảo vệ các di sản văn hóa.


Di sản văn hóa quân sự Việt Nam thời dựng
nước và chống Bắc thuộc là một bộ phận quan
trọng của Di sản văn hóa Việt Nam và của di


sản văn hóa quân sự nhân loại. Do đó, bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa quân sự Việt
Nam thời dựng nước và chống Bắc thuộc
khơng chỉ có giá trị về lĩnh vực văn hóa, khoa
học, kinh tế mà cịn có giá trị thực tiễn trong
công tác bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


N.T.D


<i>(ThS, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)</i>


<b>Tài liệu tham khảo</b>


<i>1. Đào Duy Anh (1956), Lịch sử Việt Nam, </i>


<i>quyển thượng, Hà Nội.</i>


<i>2. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hố sử </i>


<i>cương, Nxb. Văn hố - Thơng tin, Hà Nội, .</i>


<i>3. Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh (2002), Văn </i>


<i>hoá quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, </i>


Hà Nội.


<i>4. Nguyễn Văn Tài (tổng chủ biên) (2010), Sự </i>


<i>nghiệp bảo vệ, giải phóng Thăng Long - Hà Nội, </i>



Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.


5. Nguyễn Văn Tài - Văn Đức Thanh (2010),


<i>Lược khảo danh nhân quân sự trong sự nghiệp bảo </i>
<i>vệ, giải phóng Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Chính trị </i>


Quốc gia, Hà Nội.


<i>6. Văn Đức Thanh (2001), Quán triệt và vận </i>


<i>dụng quan điểm của Đảng về “bảo tồn và phát huy </i>
<i>các di sản văn hoá dân tộc”, Tạp chí Khoa học xã </i>


hội, số 6.


tham gia hoạt động văn hóa của các tập thể,


cá nhân trong khn khổ luật pháp và chính
sách. Khuyến khích các hình thức bảo trợ văn
hóa. Nghiêm trị những hành động xâm phạm
các di sản văn hóa, ngăn chặn và đẩy lùi các
hoạt động phản văn hóa, làm biến dạng các
di sản văn hóa, lợi dụng di sản văn hóa để trục


Ngày nhận bài: 2 - 3 - 2017


Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 3 - 2017



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6></div>

<!--links-->

×