Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị » Tài liệu miễn phí cho Giáo viên, học sinh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.41 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị số 1</b>


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
đặc biệt là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều khâu, nhiều
cơng việc khác nhau, song có một nội dung mà Người đặc biệt quan tâm, đó là vấn đề kỷ luật của
Đảng. Người khẳng định: "Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ
chức nghiêm chỉnh của cán bộ đảng viên". [1] Đảng muốn mạnh thì trước hết phải có kỷ luật.
Bằng ngược lại, nếu kỷ luật lỏng lẻo, Đảng chắc chắn sẽ suy yếu, khơng thể đảm đương được vai
trị lãnh đạo đất nước, lãnh đạo nhân dân trước những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn cách
mạng. Thi hành kỷ luật trong Đảng cũng chính là để giáo dục, sửa chữa khuyết điểm, giúp loại
bỏ những phần tử cơ hội, thối hóa, biến chất, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của các
tổ chức đảng và đảng viên, củng cố sự đoàn kết cũng như nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng được thể hiện trong hàng ngàn bài nói, bài viết khác
nhau. Tuy nhiên, tựu chung lại, di sản tư tưởng của Người về kỷ luật của Đảng có thể khái quát
qua một số nội dung sau:


Thứ nhất, kỷ luật của Đảng phải là "kỷ luật sắt". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định
điều này: "Đảng có kỷ luật rất nghiêm khắc, tất cả Đảng viên đều phải tuân theo". [2] Hoặc là:
"Đảng phải có kỷ luật rất nghiêm. Kiên quyết chống những hiện tượng phớt kỷ luật, phớt tổ
chức". [3] Kỷ luật sắt này phải được giáo dục, quán triệt ngay từ khâu giáo dục, bồi dưỡng chuẩn
bị kết nạp Đảng: "Trước khi kết nạp một đảng viên mới, phải dựa vào quần chúng mà xem xét
cẩn thận (...). Những điều ấy chưa đủ, còn phải giáo dục thêm về kỷ luật sắt và tự giác của
Đảng..." [4] Có thể thấy, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỷ luật là một vấn đề vô
cùng quan trọng, liên quan trực tiếp tới sức mạnh của tổ chức Đảng. Kỷ luật của Đảng khơng có
ngoại lệ, bất cứ cán bộ, đảng viên nào cũng phải phục tùng vô điều kiện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

vì vậy, khi sự giác ngộ càng cao thì tính bắt buộc càng ít đi. Đối với một cán bộ, đảng viên, khi
đã giác ngộ lý tưởng cách mạng, thì họ phục tùng kỷ luật Đảng một cách tự giác, thoải mái mà
không cần những biện pháp cưỡng ép, chế tài. Thậm chí, đặt mình trong kỷ luật Đảng, cũng có


nghĩa là người cán bộ, đảng viên phải nêu gương, chấp nhận thiệt thòi, hi sinh lợi ích cá nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đề cập đến vấn đề này một cách rất cụ thể: "Anh em ngồi Đảng cho
là Đảng thiên tư thiên vị. Có khơng? Có. Nhưng cái "thiên" khơng phải như anh em ngồi Đảng
tưởng. Cái "thiên" ở đây là: Thí dụ, hai anh A là người trong Đảng và B là người ngoài Đảng, hai
người cũng làm một cơ quan ấy, cùng có thành tích như nhau thì anh A được khen thưởng thấp
hơn anh B. Trái lại, hai anh A, B cùng có khuyết điểm, cũng một khuyết điểm ấy thì anh A phải
bị phê bình hay xử trí nặng hơn anh B". [5] Như vậy, chỉ có những cán bộ, đảng viên giác ngộ
được lý tưởng cách mạng mới có thể tự giác hi sinh quyền lợi cá nhân để phục tùng kỷ luật Đảng
một cách tuyệt đối; bằng ngược lại, họ sẽ ln bị vấn đề lợi ích chi phối, không thể chấp hành kỷ
luật Đảng một cách vô tư.


Thứ ba, kỷ luật của Đảng phải dựa trên tình đồng chí thương yêu nhau. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tăng cường kỷ luật Đảng không phải là để kỷ luật cho nhiều đảng viên, mà chủ yếu để
nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường khối đoàn kết trong Đảng. Ngay trong vấn đề xử lý
các cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật cũng cần quán triệt nguyên tắc là nghiêm minh nhưng phải
thấu tình đạt lý. Xử lý kỷ luật Đảng phải nhằm giúp cho người vi phạm nhận ra khuyết điểm của
bản thân để không ngừng tiến bộ, chứ không phải để triệt hạ lẫn nhau. Nói về vấn đề này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Đoàn kết là sức mạnh của Đảng. Đoàn kết chặt chẽ và kỷ
luật nghiêm khắc, hai điều đó khơng thể rời nhau". [6] Như vậy, mục đích của kỷ luật là để tăng
cường đoàn kết, ngược lại, đoàn kết là để cùng đảm bảo thực hiện kỷ luật tốt hơn. Nếu không
hiểu rõ và làm đúng tinh thần ấy, thì tổ chức Đảng sẽ mất đồn kết và tan rã.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

dân chủ thì sinh ra bất mãn, ốn ghét, từ đó dễ vi phạm kỷ luật. Ngược lại, thi hành công việc mà
kỷ luật lỏng lẻo, mỗi người một phách thì sẽ thành dân chủ quá trớn. Cả hai hướng đó đều đi đến
điểm chung là kết quả công việc kém, tổ chức Đảng mất uy tín trước quần chúng nhân dân. Vấn
đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đề cập: "Nếu cán bộ khơng nói năng, khơng đề ra ý kiến,
khơng phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì khơng phải họ
khơng có gì để nói, nhưng vì họ khơng dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế
là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lịng uất ức khơng dám nói ra, do
uất ức mà hố ra ốn ghét, chán nản”. [7] Vì thế, song song với siết chặt kỷ luật, cần phải mở


rộng dân chủ thực chất trong Đảng. Mất dân chủ, dân chủ hình thức hoặc dân chủ quá trớn đều là
những ngun nhân dẫn đến tình trạng vơ tổ chức, vô kỷ luật, làm suy yếu tổ chức Đảng.


Thời gian gần đây, vấn đề siết chặt kỷ luật Đảng đã được các cấp ủy Đảng từ trung ương đến cơ
sở quan tâm. Nhiều văn bản về kỷ luật đảng đã được ban hành như: Quy định số 102-QĐ/TW
ngày 15/11/2017 của Ban chấp hành Trung ương về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, các Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ... Trên cơ sở nhìn nhận thẳng thắn, nghiêm túc, trách nhiệm về thực trạng vấn
đề thi hành kỷ luật Đảng, nhiều cán bộ, đảng viên đã bị xử lý. Giai đoạn 2016 - 2019, có 1.111 tổ
chức Đảng, 18.265 cấp ủy viên các cấp và 54.573 đảng viên bị xử lý kỷ luật. Trong đó, Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 8 tổ chức Đảng, 45 đảng viên;
Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 111 đảng viên. Trong số đảng viên bị kỷ luật, có
92 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, gồm 2 ủy viên Bộ Chính trị, 21 ủy viên và nguyên ủy
viên Trung ương Đảng, 38 sĩ quan trong lực lượng công an, quân đội (cấp tướng là 23 người). [8]
Những kết quả nêu trên đã cho thấy quyết tâm chính trị rất cao Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và cá nhân đồng chí Tổng bí thư trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói
chung và siết chặt kỷ luật Đảng nói riêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

suy thối”. [9] Kỷ luật đảng có lúc, có nơi bị buông lỏng đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín,
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.


Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách
quan, song chủ yếu nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan. Có thể liệt kê một số nguyên nhân chính
như sau:


Một là, do bản thân một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa
cá nhân, không làm trịn bổn phận của mình trước Đảng, trước nhân dân. Thêm vào đó, cơ chế
kiểm sốt quyền lực chậm được hồn thiện, cịn nhiều sơ hở.



Hai là, cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa được coi trọng đúng
mức, kém hiệu quả.


Ba là, công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt chẽ. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt
chi bộ ở nhiều nơi cịn hình thức, chưa thực hiện hiệu quả việc phát hiện, chấn chỉnh các sai
phạm của cán bộ, đảng viên. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi bị bng lỏng, hoạt
động tự phê bình và phê bình thực hiện khơng nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người dám
thẳng thắn đấu tranh.


Bốn là, một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn, thiếu tính
khả thi và thiếu chế tài xử lý.


Năm là, một số cấp ủy đảng, đặc biệt là người đứng đầu chưa có quyết tâm chính trị cao, chỉ đạo
thiếu quyết liệt, cịn trơng chờ, ỷ lại cấp trên. Từ đó dẫn đến việc xử lý cán bộ, đảng viên vi
phạm còn nể nang, thiếu cương quyết.


Từ việc phân tích các nguyên nhân như trên, vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kỷ
luật Đảng, có thể xây dựng một số giải pháp như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

phê bình và phê bình nếu triển khai đúng nguyên tắc, chắc chắn sẽ giúp cán bộ, đảng viên nâng
cao được ý thức chấp hành kỷ luật Đảng.


Thứ hai, trong Đảng phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng ta, đảm bảo cho Đảng trở thành một tổ chức đồn kết,
thống nhất về ý chí và hành động. Vì vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả kỷ luật Đảng, phải thực
hiện nghiêm nguyên tắc này. Cụ thể là khi bàn bạc, thảo luận cơng việc thì cần tăng cường dân
chủ, minh bạch; còn khi đã vấn đề thống nhất thì khi triển khai phải đề cao tính kỷ luật, dám chịu
trách nhiệm. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở quan trọng đảm bảo cho kỷ
luật Đảng được thực hiện một cách nghiêm minh.



Thứ ba, phải tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Đây là một bộ phận quan trọng
công tác xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Tăng cường hiệu lực, hiệu
quả kỷ luật Đảng không thể tách rời hoạt động kiểm tra, giám sát. Hoạt động này không chỉ giúp
phát hiện những biểu hiện vi phạm kỷ luật Đảng để xử lý, mà còn giúp kịp thời phát hiện tấm
gương chấp hành tốt kỷ luật Đảng để biểu dương, khen thưởng, từ đó tạo sự lan tỏa trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Chú ý rằng, kiểm tra, giám sát là cơng việc của tồn
Đảng và mọi đảng viên, chứ không phải là nhiệm vụ riêng của ủy ban kiểm tra các cấp.


Thứ tư, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm kỷ luật Đảng. Một trong các nguyên nhân
khiến cho kỷ luật Đảng bị bng lỏng, đó là do việc xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm cịn có
biểu hiện nể nang. Do đó để nâng cao hiệu quả, hiệu lực kỷ luật Đảng, cần phải quán triệt quyết
tâm chính trị cao từ trung ương xuống cơ sở. Việc xử lý kỷ luật nghiêm minh một mặt giúp loại
bỏ những phần tử cơ hội, thối hóa ra khỏi đảng, cịn có tác dụng răn đe với những tổ chức, cá
nhân khác, từ đó làm cho Đảng khỏe mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Đây là
vấn đề cực kỳ quan trọng, nhưng lại là nhân tố quyết định đối với việc đảm bảo hiệu lực, hiệu
quả của kỷ luật Đảng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6></div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>2. Bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị số 2</b>



<b>BÀI THU HOẠCH</b>


<b>ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ </b>
<b>DÂN VẬN TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ </b>


<b>XÃ ...</b>


<b>A/- PHẦN MỞ ĐẦU</b>


<b>* Lý do chọn đề tài:</b>



Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất
nước, hội nhập kinh tế thế giới. Đảng ta xác định mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn chủ văn minh”, với nhiều chiến lược đang đặt ra (vừa là thời cơ, vừa là thách thức ),
đơí với đất nước ta trên nhiều lĩnh vực: đời sống kinh tế chính trị, văn hố xã hội, Quốc phòng
-an ninh và đối ngoại. Vì vậy, mọi vấn đề của đất nước để được dân biết và ủng hộ công cuộc đổi
mới đất nước của Đảng. Đó là đảm bảo quyền làm chủ của người dân thông qua quy chế dân ở
cơ sở.


Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm đảm bảo cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình trực
tiếp ở nơi cư trú và cơ quan, đơn vị công tác; đảm bảo mọi đường lối, chủ trương, chính sách
pháp luật đến tận dân là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với dân.


Lai Hồ là xã thuộc chương trình 135 của Thị xã Vĩnh Châu, vì vậy việc thực hiện quy chế dân
là rất cần thiết và quan trọng. Do đó, em chọn đề tài thực hiện quy chế dân chủ viết bài thu hoạch
nhằm thực quy chế dân chủ của xã mình trong thời gian tới.


<b>B/- PHẦN NỘI DUNG</b>


<b>I/. Cơ sở lý luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Dân chủ là một hình thức chính trị của xã hội, như vậy có thể dân là chính quyền thuộc về nhân
dân, một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó là nhà nước của chế độ dân chủ.


Dân chủ là khác vọng vươn tới, là mục tiêu đấu tranh của xã hội loài người, lịch sử thế giới
chứng tỏ rằng, sự phát triển của nền dân chủ qua các giai đoạn từng nấc thang là: dân chủ chủ nô,
dân chủ tư sản, dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa.


Dân chủ xã hội chủ nghĩa là đỉnh cao của nền dân chủ, vì các nền dân chủ. Trước đó là dân chủ
của giai cấp thiểu số trong xã hội, dân chủ mang bản chất giai cấp sâu sắc giai cấp nào nắm được
chính quyền vế tay mình cũng chỉ bảo đảm quyền dân chủ của giai cấp mình. Dân chủ chân


chính là quyền làm chủ của mọi cơng dân đối với nhà nước, đối với toàn xã hội.


Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức chính trị nhà nước của xã hội. Trong đó con người là
thành viên trong xã hội có đủ tư cách cơng dân là quyền làm chủ của nhân dân.


<b>2. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh:</b>


Cơ sơ quyền làm chủ của nhân dân là “ tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” dân là gốc, dân là
chủ, dân làm chủ. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được chủ Tịch Hồ Chí Minh
khẳng định “nhà nước ta là nhà nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì nhân dân, bao nhiêu quyền
hạn điều là của dân”. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng
chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân bầu
cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã là do dân bầu chọn nên. Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa
vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội. Trong quá trình đổi mới đất nước, nền dân chủ
ngày càng mở rộng về nội dung; dân chủ cả trong chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội và các cấp
từ trung ương đến cơ sở; Đến từng người dân cả về dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Nhằm
xây dựng nền văn chủ xã chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Quan điểm chỉ đạo việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở đã được Đảng ta chỉ rõ trong chỉ thị số
30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Ban chấp hành Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam về xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Uỷ Ban
Thường Vụ Quốc Hội ngày 24 tháng 04 năm 2007 về việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở:


Đặc biệt phát quy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính
trị “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Coi trong cả ba mặt nói trên, khơng vì
nhấn một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp các mặt khác.



Vừa phát huy tốt chế độ dân đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Quốc Hội,
chính phủ, hội đồng nhân và uỷ ban nhân dân các cấp vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp
ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực
gắn liền với ích của mình.


Phát huy dân chủ gắn liền với phát triển kinh tế- văn hoá – xã hội và nâng cao dân trí, tạo điều
kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.


Nội dung và chế thực các quy chế dân chủ ở sở phải phù hợp với biện pháp và pháp luật, thể hiện
tinh thần đi đôi với kỷ cương, trật tự, quyền hạn gắn liền với trách nhiệm, lợi ích đi đơi với nghĩa
vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vơ chính phủ, lợi dụng dân chủ vi
phạm pháp luật.


Gắn quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ với cơng tác cải cách hành chính sữa đổi
những cơ chế chính sách và thủ tục hành chính khơng phù hợp.


Trong thực quy chế dân hiện nay xã Lai Hoà đang thực hiện theo pháp lệnh số
34/2007/PL-UBTVQH11 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 20 tháng 04 năm 2007.


<b>II/. Thực trạng trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong vịêc thực hiện quy chế</b>
<b>dân chủ ở cơ sở</b>


<b>1/. Đặc điểm tình hình:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

biển Đơng; phía bắc giáp xã Hưng Thành, Tỉnh Bạc Liêu. Xã có bờbiển dài 7 km, diện tích tự
diên 5888,48 ha, trong đó diện tích sản xuất 3.533 ha.


Xã có 11 ấp, với dân số 25.222 người, 4.577 hộ, trong đó dân tộc kinh 912 hộ, 4966 người,
chiếm 19,93%, dân tộc khơme chiếm 3.359 hộ, 18.845 người, chiếm 73,39%, dân tộc Hoa chiếm


362 hộ,1.771 người, chiếm 6,68%. Hộ giàu 321 hộ, chiếm 7,01%, hộ khá 687 hộ, chiếm 15,01%,
hộ trung bính 1613 hộ, chiếm 35,24%, nghèo 1435 hộ chiếm 31,35%, hộ cận nghèo 521 hộ,
chiếm 10,54%.


Tổng số đảng viên của đảng bộ là 269 đ/c, trong đó ban chấp đảng uỷ có 20 d/c; ban thường vụ
đảng uỷ có 07 đ/c; có 25 chi bộ trực thuộc, trong đó có 11 chi bộ ấp; 07 chi bộ trường học; 01 bộ
hợp tác xã; 01 chi bộ quân sự; 01 chi bộ công An; 01 chi bộ DânVận; 01 chi bộ trạm y tế; 01 chi
bộ khối đảng; 01 chi bộ khối chính quyền.


Tổng số đồn viên; hội viên các đồn thể là hiện có 7.752 đ/c, chiếm 30,74% so với tổng số dân
trong đó: Đồn thanh niên: 494 đồn viên, chiếm 1,96% so với tổng số dân; HLHPN 2.585 hội
viên chiếm 1025% so với tổng số dân; Hội cựu chiến binh 165 hội viên chiếm,065% so với tổng
số dân; Hội LHTN 1.264 hội viên chiếm 5,01% so với tổng số dân; Hội nông dân 2.244 hội viên
chiếm 8,90%so với tổng số dân; Hội người cao tuổi: 683 hội viên chiếm 2,71%so với tổng số
dân; Cơng đồn: 35 đồn viên chiếm 1,71%so với tổng số dân; Hội chữ thập đỏ: 282 hội viên
chiếm 1,12%so với tổng số dân.


<b>2/. Cũng cố ban chỉ đạo, xây dựng quy chế, kế hoạch hoạt động:</b>


Sau đại hội Đảng nhiệm kỳ 2010-2015; xã tiến hành điều chỉnh bổ sung ban chỉ đạo thực hiện
quy chế dân chủ có 16 đồng chí, do đồng chí Bí thư Đảng uỷ xã làm trưởng ban, có 02 phó ban
là 02 đồng chí phó bí thư xã Đảng uỷ xã đồng chí phó bí thư thừơng trực kiêm trưởng khối vận
làm phó ban trực, các ban ngành là thành viên, có thơng báo phân cơng cho từng thành viên cụ
thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

trực Hội đồng nhân dân xã tổ chức kiểm tra, giám sát các chuyên đề về kinh tế - xã hội thực hiện
các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, cải cách hành chánh, công tác tiếp dân, hồ giải ở cơ sở;


Trong q trình thực hiện ban chỉ đạo chọ ấp Năm căn làm điểm chỉ đạo chung



Thành lập 01 ban thanh tra nhân dân với 12 thành viên trong đó đồng chí phó Chủ tịch Mặt trận
xã làm trưởng ban, các ấp đều có ban thanh tra nhân dân.


Thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo tháng, quý, năm theo đúng quy định.


<b>3/. Thành tựu trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong vịêc thực hiện quy chế dân</b>
<b>chủ ở cơ sở</b>


a/. Tình hình triển khai:


Bằng nhiều hình thức và nội dung tổ chức triển khai thực hiện quy chế dân chủ cho tất cả các
Đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân nắm rõ nội dung quy chế. Kết quả triển khai được
như sau: Trong Đảng đạt 98,2%, BCH đoàn thể đạt 96,38%, đoàn viên hội viên đạt 81,16% và
tuyên truyền ra dân đạt 61,45%.


Thông qua các cuộc họp lệ chi bộ, đảng bộ, các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
cũng như Mặt trận các đoàn thể, các hoạt động văn hố, văn nghệ, thơng tin đại chúng, tổ chức
tuyên truyền được 478 cuộc có 14.542 lượt người dự và nghe.


Trong quá trình tổ chức thực hiện có tổ chức họp rút kinh nghiệm, để trên có sở đó đề ra nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện phù hợp với điều kiện của từng địa bàn ấp trong tồn xã.


Việc thực hiện tốt nhiệm vụ cơng tác tun truyền đã đóng góp làm chuyển biến tích cực về mặt
nhận thức của nhân dân nói chung và đồng bàn dân tộc nói riêng về thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở, đồng thời góp phần thắng lại nhiệm vụ chính trị của địa phương.


b/. Kết quả trong việc thực hiên quy chế dân chủ xã Lai Hoà:


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Được sự quan tâm chỉ đạo của Thị uỷ, cấp uỷ đảng chính quyền, mặt trận các đồn thể, cơ quan
đơn vị đều quan tâm chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ.



Vịêc thực hiện quy chế dân chủ ở xã đạt được kết qua sau:


*Nội dung công khai để nhân dân biết:


Nhằm đảm bảo việc thực hiện nội dung quy chế dân chủ một cách có hiệu quả theo đúng quy
định, thời gian, những vấn đề cần thông báo cho nhân dân biết là nội dung quan trọng trong việc
thực hiện quy chế, từ đó thơng tin rộng rãi bằng nhiều hình thức như thơng tin tun truyền,
thông qua việc tiếp xúc cử tri, các cuộc họp dân, các cuộc họp của các ban ngành đoàn thể, niêm
yết công khai tại UBND Xã, nội dung cụ thể như: Luật thuế, luật nghĩa vụ quân sự, luật đất đai,
luật hơn nhân gia đình,... dự tốn thu chi ngân sách xã hàng năm, quyết toán thu chi các loại quỷ,
những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân, xây dựng cơ sở hạ tầng, chủ trương
kế hoạch vay vốn, phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, danh sách cử tri bầu cử đại biểu quốc
hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, danh sách thanh niên được gọi nhập ngũ...Qua thực
hiện các công việc nêu trên được nơng dân đồng tình ủng hộ, được nhân dân đóng góp nhiều ý
kiến, thiết thực góp phần thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội ở địa phương.


Đặc biệt là phát huy tốt vai trò, trách nhiệm có hiệu quả của tổ 1 cửa UBND xã.


* Nội dung dân bàn và và quyết định trực tiếp:


Ngoài những vấn đề cần thông báo kịp thời cho dân biết về còn những vấn đề quan trọng quyết
định đến quyền lợi của nhân dân, xây dựng nông thôn của xã được Đảng uỷ - UBND xã quan
tâm chỉ đạo thực hiện thông báo kịp thời rộng rải ra dân, nhằm để cho nhân dân trực tiếp bàn bạc
và quyết định qua hình thức họp dân từng tổ, khu ấp để thông qua cho nhân dân bàn bạc và trực
tiếp quyết định cụ thể là:


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

có hiêụ quả nhất là việc bàn bạc thống nhất chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi xây dựng kết
cấu hạ tầng, mức đóng góp phương pháp tiến hành thi cơng, nạo vét kinh thuỷ lợi nội đồng, là
cầu đường giao thông nông thôn, sắp xếp thứ tự ưu tiên trong xem xét xây dựng nhà tình nghiã,


tình thương; các khoản đồng góp từ thiện, nhân đạo và các khoản khác ngoài quy định của Nhà
nước. Tổ chức phê bình và tự phê bình trước dân, lấy phiếu tình nhiệm các chức danh chủ chốt
do HĐND xã bầu và tổ chức hiệp thương giới thiệu bầu trưởng ban nhân dân ấp để dân quyết
định.


Vấn đề dân bàn và quyết định trực tiếp đã tạo điều kiện cho nhân dân được quyết định trực tiếp
những vấn đề có liên quan đến đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, từ đó được nhân dân
đồng tình ủng hộ, hiệu quả cơng việc được nâng cao, trong q trình bàn bạc và quyết định. Từ
đó tạo niềm tin ở nhân dân, người tham gia đóng góp ngày càng nhiều hơn.


* Nội dung dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định:


Thực hiện cơ bản nội dung dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định tập
trung vào những nội dung như:


Trước khi quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến việc phát triển kinh tế xã hội ở địa
phương như: dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu sản xuất; đề án thâm canh định cư, vùng kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề
của xã, dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản lý,
sử dụng quỹ đất của xã và dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình dự án trên địa bàn; chủ
trương, phương án đền bù, hổ trợ giải phóng mặt bằng xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư;
phương án quy hoạch khu dân cư, hiệp thương lấy ý kiến chọn người ra ứng cử Đại biểu HĐND
xã, dự thảo các kế hoạch triển khai các chương trình quốc gia về y tế, nước sạch và vệ sinh mơi
trường, các chương trình an sinh xã hội, hỗ trợ sản xuất, bình nghị hộ thóat nghèo, bình nghị hộ
gia đình văn hố…thì HĐND - UBND xã kết hợp với mặt trận, các ban ngành đoàn thể, BND
các ấp tổ chức họp dân để nhân dân bàn bạc, có ý kiến đóng góp đề xuất đến HĐND - UBND xã
ra quyết định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ ở địa phương, cơng tác giám sát kiểm tra của nhân dân đối
với họat động của HĐND - UBND cũng như cán bộ nhân viên, đại biểu HĐND xã, nhằm tránh


được hoạt động không hiệu quả. Để thực hiện tốt công tác trên được cụ thể bằng hình thức thơng
qua các kỳ họp HĐND, nơi đại diện các đoàn thể tham dự, tiếp dân để hịa giải kịp thời, những
khiếu nại, tố cáo của cơng dân, ban thanh tra nhân dân, thông qua cho nhân dân biết về hoạt động
của HĐND, kết quả thực hiện nghị quyết của HĐND và các quyết định của UBND Xã giải quyết
khiếu kiện của cơng dân, dự tóan và quyết tóan ngân sách xã, thực hiện chế độ chính sách, các
chương trình an sinh xã hội khác để nhân dân giám sát kiểm tra phát hiện chấn chỉnh kịp thời.
Kết quả từ đầu năm đến nay đã thực hiện theo quyết định 167/CP của chính phủ đã thực hiện
được 266 căn; đợt 1/2011 đã triển khai được 265 căn;


Thực hiện theo quyết định số: 74/Tgg năm 2010 về chuyển đổi ngành nghề là 235 hộ;


Hỗ trợ hộ nghèo theo quyết định số: 102/Tgg là 1.435 hộ ;


Hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo theo quyết định số: 268/Tgg là 1.435 hộ;


Hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo theo quyết định số: 471/Tgg mổi hộ được 250.000đ/năm với số
tiền là 358.750.000đồng


Kết quả cải cách thủ tục hành chính: UBND xã có quyết định thành lập bộ phận tiếp nhận và trả
kết quả thủ tục hành chính của cơng dân, bố trí phân cơng giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành
viên, sắp xếp chỗ, nơi làm việc phục vụ tốt cho cơng tác cải cách hành chính theo cơ chế "một
cửa" đáp ứng được yêu cầu; thực hiện niêm yết cơng khai thủ tục hành chính trên một số lĩnh
vực theo quy định, từ đó đáp ứng kịp thời, giảm thời gian đi lại, giảm các thủ tục không cần thiết
cho người dân; Trong tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính cho cơng dân, cán bộ ln quan
tâm hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, có tác phong, lề lối làm việc nghiêm chỉnh, văn minh, lịch sự,
được nhân dân tín nhiệm.Tiếp nhận 32 vụ việc, đưa ra hịa giải 28 vụ việc, hịa giải thành 9 vụ
việc, khơng thành 19 vụ việc, hiện còn tồn tại tổ hòa giải 04 vụ việc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

bộ mặt tnông thân này càng đơỉ mới. lĩnh vực văn hố xã hội tiếp tuc phát triển và có nhiều tiến
bộ; quốc phịng an nhinh được giử vững ổn định, hệ thống chính trị ngày càng được cũng cố


hoàn thiện, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát huy hơn và có nhiều chuyển biến
theo hướng tích cực, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.


c/. Hạn chế


Việc triển khai pháp lệnh dân chủ chưa đều, chưa thường xuyên, mốt ít cấp uỷ Đảng, chính
quyền, trưởng ban nhân dân ấp, lảnh đạo cơ quan đơn vị và cán bộ đảng viên, công chức quán
triệt nội dung thực hiện Quy chế dân chủ chưa đầy đủ, một số nơi việc thực hiện bàn bạc lấy ý
kiến nhân dân chưa được chú trọng và nội dung cơng khai cịn chồng chéo, thiếu rõ ràng. nhất là
việc tổ chức cho nhân dân kiểm tra giám sát các cơng trình xây dựng cơ bản, bên cạnh vẩn cịn
một bộ phận người dân ít quan tâm đến việc thực hiện Quy chế dân chủ.


Sự phối hợp giửa UBND xã với Mặt trận các đoàn thể từng lúc chưa được đồng bộ, hiệu quả
chưa cao; hoạt động của ban thanh tra nhân dân còn hạn chế, việc thực hiện pháp lệnh dân chủ
gắn với cải cách hành chính chuyển biến cịn chậm so với u cầu.


Mặt trận các đoàn thể chưa phát huy tốt vai trò chức năng giám sát và phản biện xã hội, từ đó
chưa làm tốt nhiệm vụ đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân, trình độ năng lực một số cán
bộ chưa nang tầm với nhiệm vụ đặt ra.


Trong quá trình chỉ đạo thực hiện pháp lệnh dân chủ, ban chỉ đảo thiếu kiểm tra chặt chẽ, một số
ấp làm chưa tốt vịêc tổ chức họp định kỳ và sơ tổng kết theo quy định


* Nguyên nhân của thành tựu:


Có sự lảnh đạo, chỉ đạo sâu sát của ban chỉ đạo Thị uỷ và Đảng uỷ, phát huy vai trò tham mưu
của ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ của xã.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Đảng uỷ có chỉ đạo sơ tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời phát huy ưu điểm và khắc phục những
hạn chế thiếu sót để thực hiện phát lệnh dân chủ ở xã



* Nguyên nhân hạn chế:


Sự phối hợp chưa đồng bộ nhịp nhàng của từng thành viên trong ban chỉ đạo cũng nhưng các
ngành đồn thể trong cơng tác tun truyền vận động nhân dân tích cực hưởng ứng thực hiện
pháp lệnh dân chủ và những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân.


Trình độ năng lực của cán bộ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, chưa nắm vững
nội dung pháp lệnh dân chủ, thiếu xây dựng kế hoạch, chưa thực hiện tốt chức năng kiểm tra,
giám sát, việc nắm tâm tư nguyện vọng và giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân cịn
chậm


* Bài học kinh nghiệm:


Trong q trình thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương em rút ra bài học kinh nghiệm như sau:


- Cần tiếp tục quán triệt chỉ thị 30 - TW và pháp lệnh 34 của UBTVQH, đến chi bộ Đảng viên,
hội viên thơng qua quy chế dân chủ, các ngành có trách nhiệm xây dựng chính quyền trong sạch
vững mạnh, khắc phục quan liêu thiếu trách nhiệm, mất dân chủ trong giải quyết các công việc,
đẩy mạnh quan tâm xây dựng về tư tưởng cho đội ngủ cán bộ, Đảng Viên, đủ sức đáp ứng trong
tình hình mơí.


- Thực hiện đúng theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.


- Phối hợp Mặt Trận, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân thường xuyên kiểm tra, kịp thời nắm
tư tưởng, những kiến nghị có liên quan đến lợi ích chính đáng của nhân dân.


- Ban chỉ đạo quy chế dân chủ xây dựng kế hoạch kiểm tra, phân công từng thành viên, phát huy
trách nhiệm hơn nữa, định kỳ sơ, tổng kết kịp thời khen thưởng cho tổ chức và các nhân, điển
hình các khu dân cư thực hiện quy chế dân chủ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

* Phương hướng


Thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế chính trị của địa phương;


Cấp uỷ Đảng thường xuyên xuống địa bàn lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân để xây
dựng phương hướng, kế hoạch cho những năm tiếp theo;


Báo cáo kết quả hoạt động của đại biểu hội đồng nhân dân biết;


- Tiếp tục tuyên truyền chỉ thị 30-TW và pháp lệnh 34 của UBTVQH về thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở;


Niêm yết công khai thủ tục cải cách hành chính, quan tâm giải quyết khiếu nại tố cáo của người
dân được các ngành, các cấp giải quyết kịp thời, trách gấy phiền hà cho nhân dân nhất là trong
giải quyết tranh chấp đất đai.


* Nhiệm vu:


Tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân. Ngòai việc thơng qua các đồn thể
nhân dân cịn thực hiện quyền kiểm tra và giám sát thông qua tổ chức ban thanh tra nhân dân.


Cấp uỷ Đảng chính quyền đã tổ chức cho nhân dân tham gia đóng góp, lấy ý kiến đối với đảng
viên về việc thực hiện cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”


Các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân đề cao vai trò trách nhiệm, coi
trọng phát huy dân chủ trực tiếp của nhân dân trong kiểm tra giám sát, tham gia đóng góp ý kiến
cho cán bộ Đảng viên


Giữ mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân trong khối đại đoàn kết tồn dân, tích cực giữ gìn trật tự


an tồn xã hội, thực hiện cơng tác phê bình và phê bình đối với cán bộ chủ chốt.


* Giải pháp:


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Kiện toàn bộ máy ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở xã, nâng cao nâng lực chun mơn,
phảm chất đạo đức lối sống; bố chí sử dụng cán bộ hợp lý, đúng chuyên môn và nghiệp vụ.


- Thực hiện nhiệm vụ chính trị Đảng bộ về việc thực hiện quy chế dân chủ.


- Sự phối hợp chặt chẽ giửa Mặt trận các đồn thể trong cơng tác tuyên truyền và tổ chức thực
hiện quy chế dân chủ tại cơ sở. Đồng thời gắn với cụôc vận động “Học tập làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”.


- Thường xuyên tổ chức, đổi mới phương thức tập hợp nhân dân, đoàn viên, hội viên của các
đoàn thể nhân dân, thường xuyên phản ánh, ý kiến về xây dựng Đảng, chính quyền; thường
xuyên kiểm tra giám sát để kịp thời có hướng chỉ đạo.


- Định kỳ sơ tổng kết đúng giá rút kinh nghiệm có biểu dương khen thưởng kịp thời những cá
nhân, tập thể thực hiện tốt nhiệm vụ này.


- Phối hợp Mặt Trận, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân thường xuyên kiểm tra, kịp thời nắm
tư tưởng, những kiến nghị có liên quan đến lợi ích chính đáng của nhân dân.


<b>III/- PHẦN KẾT LUẬN</b>


<b>1/. Kết luận</b>


Qua nghiên cứu việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã Lai hồ tơi rút ra kết luận:


Trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở xã lai hồ, cơng tác chỉ đạo tổ chức thực hiện ln


có sự phối hợp giửa chính quyền, Mặt trận, và các đồn thể nhân dân, có xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, quốc phòng gắn với việc thực hiện quy chế
dân chủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở xã Lai Hồ đã góp phần đổi mới phương thức lảnh
đạo và điều hành bộ máy chính quyền, kịp thời triển khai chủ trương của cấp uỷ trong việc phát
triển kinh tế - xã hội tạo cho người dân phát triển sản xuất và tạo nên tinh thần đồn kết gắn bó
trong nhân dân, tinh thần tương thân tương ái gíup nhau xố đối giảm nghèo.


<b>2/. Kiến nghị</b>


Quan tâm đạo tạo chuẩn hoá cán bộ xã, ấp và thực hiên tốt các chấe độ chính sách có liên quan
đến quyền lợi cán bộ nhất là sinh hoạt phí hành tháng đặc biệt là cán bộ không hưởng lương.


Quan tâm hổ trợ vốn và dạy nghề cho hộ nghèo, đang gặp khó khăn trong cuộc sống về sản xuất.


Tăng cương công tác tuyên truyền thực hiện pháp lệnh dân chủ (băng, tài liệu, loa, hình …) bằng
tiếng dân tộc vì tồn xã đến 73% là người dân tộc khơme


Đầu tư xây dựng các thiết chê văn hóa ở ấp nhất là nhà hợp cộng đồng ( hiện nay xã có 8/11 ấp
có nhà sinh hoạt cộng đồng cịn lại 3 ấp chưa có nhà sinh hoạt) nhăm giúp cho việc họp dân
thuận tiên hơn.


</div>

<!--links-->

×