Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận Những giải pháp chủ yếu kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường củng cố QP, AN trong điều kiện hội nhập NG ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Trang

1.
1.1.
1.2.
2.

2.1.
2.2.
2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.3.

2.3.1
.
2.3.2
.
2.3.3
.
2.3.4
.
2.3.5
.

MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG



3

Cơ sở lý luận, thực tiễn Đảng ta đề ra đường lối kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh
Cơ sở lý luận
Cơ sở thực tiễn
Nguyên tắc, nội dung và những giải pháp chủ yếu kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện
nay.
Nguyên tắc kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh
Nội dung kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong điều
kiện hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay.
Kết hợp trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong phát triển các
vùng lãnh thổ.
Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong các ngành,
các lĩnh vực kinh tế chủ yếu.
Những giải pháp chủ yếu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh trong điều kiện hội nhập quốc tế
sâu rộng ở nước ta hiện nay.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý nhà nước
trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng, an ninh.
Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng
viên và toàn dân về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố quốc phịng, an ninh trong tình hình mới
Qn triệt và thực hiện nghiêm pháp luật, cơ chế chính sách của

Đảng và Nhà nước về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường củng cố quốc phịng, an ninh trong tình hình mới.
Xây dựng chiến lược cụ thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.
Thường xun kiện tồn và phát huy vai trò của cơ quan chuyên
trách về quốc phòng, an ninh trong kết hợp phát triển kinh tế - xã
hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
3
6
10

10
11
11
12
13
16

16

18

18

19
20


22
23


2
MỞ ĐẦU
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là hoạt động chủ động của mọi
quốc gia trên cơ sở vận dụng các quy luật của hai lĩnh vực kinh tế và quốc phòng.
Bất kỳ quốc gia nào cũng phải đặt phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng, an ninh trong một chiến lược chung. Đây là vấn đề mang tính quy luật.
Trong q trình xây dựng và phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh là quan điểm
nhất quán của Đảng ta, là sự tiếp nối truyền thống của dân tộc trong suốt chiều dài
lịch sử “dựng nước đi đôi với giữ nước”. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định:
Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng chúng ta phải kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong
một chỉnh thể thống nhất. Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định quan điểm kết
hợp chặt chẽ giữa kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh là
quy luật tất yếu, khách quan trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, trong điều kiện nước ta mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng đã tạo ra cả thời cơ và thách thức cho phát triển kinh tế - xã hội và
củng cố quốc phòng, an ninh. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, yêu cầu cấp bách đặt ra đối với chúng ta là vừa phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời vừa tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh.
Từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Những giải pháp chủ yếu kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong điều
kiện hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay” làm chủ đề viết tiểu luận mơn
học. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sỹ trong

Quân đội Nhân dân Việt Nam trong thực hiện hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.


3
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận, thực tiễn Đảng ta đề ra đường lối kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh.
1.1. Cơ sở lý luận.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Kinh tế, quốc
phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc độc lập
có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và chịu sự chi
phối của hệ thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan hệ, tác động qua
lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến quốc
phòng, an ninh; ngược lại, quốc phòng, an ninh cũng có tác động trở lại đối với
kinh tế.
Kinh tế quyết định đến: nguồn gốc, bản chất của quốc phòng, an ninh; quyết
định đến việc cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực cho hoạt động quốc
phòng, an ninh; quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực
cho quốc phòng, an ninh; quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang;
quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng, an ninh. Trong mối quan hệ giữa
kinh tế với quốc phòng, kinh tế là nhân tố giữ vai trò quyết định, chi phối quốc
phòng cả ở mặt vật chất kỹ thuật và chính trị - xã hội. Tiềm lực, sức mạnh của nền
quốc phòng mạnh hay yếu phụ thuộc vào tiềm lực và sức mạnh của nền kinh tế.
Một đất nước có nền kinh tế phát triển, tiềm lực kinh tế mạnh sẽ là tiền đề, cơ sở
để xây dựng một nền quốc phịng có tiềm lực mạnh. Và một nền quốc phịng mạnh
sẽ tạo điều kiện, mơi trường chính trị để phát triển kinh tế và bảo vệ được nền kinh
tế đó. Với một nền kinh tế kém phát triển, nghèo nàn, lạc hậu năng suất lao động
thấp, tổng mức GDP nhỏ, khả năng tích luỹ kém, thì khó có thể nói có cơ sở để xây

dựng một nền quốc phịng có tiềm lực lớn.
Quốc phịng, an ninh tác động trở lại kinh tế, cả tích cực và tiêu cực.
Sự tác động tích cực được biểu hiện ở việc quốc phịng bảo đảm mơi trường
chính trị - xã hội ổn định để kinh tế phát triển; quốc phòng là thị trường của kinh tế,
tiêu thụ các sản phẩm của kinh tế đáp ứng các nhu cầu hoạt động thuộc lĩnh vực


4
quốc phịng. C. Mác đã nói đến điều này khi ông nghiên cứu vai trò của quân đội
trong đời sống xã hội. Trong bức thư gửi Ph.Ăngghen ở Dai-nơ ngày 25 tháng 9
năm 1857, C.Mác viết: “Lịch sử quân đội đã xác nhận một cách rõ ràng hơn hết sức
đúng đắn quan điểm của chúng ta về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ xã hội. Nói chung quân đội là quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế”.
Quốc phịng khơng chỉ tác động tích cực đến kinh tế mà còn tác động tiêu
cực đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội. Một là, quốc phòng là lĩnh vực phi
kinh tế, tiêu tốn các của cải do nền kinh tế sản xuất ra. Mọi chi phí cho quốc phịng
đều do nền kinh tế quốc dân đáp ứng. Thế nhưng những sản phẩm của kinh tế đã
chi cho các hoạt động quốc phòng là cái “bị trừ đi” của kinh tế, các khoản chi phí
đó khơng quay trở lại q trình tái sản xuất xã hội. Nói cách khác, các chi phí cho
quốc phòng xét về mặt kinh tế là các hoạt động khơng làm tăng GDP của đất nước,
ngược lại cịn trực tiếp tiêu dùng vào tổng GDP của xã hội, làm giảm khả năng sử
dụng GDP để chi phí cho các nhu cầu xã hội khác như văn hoá, y tế, giáo dục, việc
làm,… Hai là, lực lượng lao động của xã hội cung cấp cho quốc phòng, bao giờ
cũng là lực lượng trẻ, khoẻ, có tri thức. Khi trực tiếp tham gia các lực lượng vũ
trang và các hoạt động quốc phịng khơng những khơng làm ra của cải xã hội, chỉ
tiêu tốn những của cải đó, mà sau quá trình tham gia đó, xã hội cịn phải giành một
phần của cải để giải quyết các vấn đề xã hội của quân đội. Đặc biệt là những chính
sách sau chiến tranh, đây là một lượng của cải vật chất không nhỏ. Ba là, cơ sở vật
chất kỹ thuật mà đất nước dành cho quốc phòng hầu hết là những loại hiện đại, có
giá trị kinh tế lớn. Một chiếc xe tăng giá hàng triệu USD, một máy bay chiến đấu

hiện đại giá trị hàng tỷ USD,… Tất cả các loại vũ khí, khí tài qn sự đó khơng chỉ
đắt mà q trình sử dụng, bảo quản, bảo trì nó cũng rất tốn kém hơn rất nhiều.
Điều đáng nói là, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển
như hiện nay, thời gian cho sự xuất hiện một thế hệ vũ khí mới khơng cịn dài như
trước đây, có loại chỉ 10 năm đã lạc hậu, cần thay thế mới. Tình hình đó càng làm
cho việc đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng quân sự ngày càng lớn.


5
Để khắc phục những mâu thuẫn giữa kinh tế và quốc phịng, an ninh; khai
thác mặt tích cực của quốc phịng; giảm thiểu những chi phí kinh tế khi sự tồn tại
của quốc phòng là tất yếu khách quan. Lời giải cho bài tốn đó khơng gì khác hơn
là cần phải tạo ra sự kết hợp trong các hoạt động giữa hai lĩnh vực kinh tế và quốc
phòng với nhau theo một phương thức và bước đi phù hợp với điều kiện của đất
nước. Theo đó, Nhà nước chủ động kết hợp hai q trình kinh tế và quốc phịng lại
với nhau thành một thể thống nhất, thúc đẩy nhau cùng phát triển đảm bảo cả hai
lĩnh vực cùng đạt được chất lượng và hiệu quả cao.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với quốc phịng, an ninh, Hồ Chí
Minh coi việc xây dựng kinh tế có vai trị quyết định. Trong bài “Gửi các nhà
nông” năm 1945, Người khẳng định: “Hiện nay chúng ta có 2 việc quan trọng
nhất: cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam. “Thực túc binh cường” cấy nhiều thì
khỏi đói. Chúng ta thực hiện tấc đất tấc vàng thì chúng ta quyết thắng lợi...” và
Người đã kêu gọi “Tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa.
Đó là khẩu hiệu của chúng ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ
vững tự do độc lập”. “Thực túc binh cường” - tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói lên tầm quan trọng của xây dựng và phát triển kinh tế. Kinh tế có
mạnh mới có điều kiện làm cho quốc phịng, an ninh mạnh. Người nói: “Thực hành
kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là bồi dưỡng và tích trữ lực lượng dồi dào để kháng
chiến lâu dài, để chuyển sang tổng phản công, đưa kháng chiến đến thắng lợi”.

Và Người đã chỉ ra, công nghiệp không chỉ sản xuất ra sản phẩm để phục vụ
dân sinh mà còn phải phục vụ cho cả quốc phòng và trong hồn cảnh chiến tranh
thì nhiệm vụ sản xuất phục vụ quốc phòng được đặt lên hàng đầu. Trong
bài “Nhiệm vụ chính trong giai đoạn mới”, Người viết nhân dịp ngày Quốc tế lao
động 01/5/1954, trong đó u cầu cơng nghiệp phải “chế nhiều vũ khí, dụng cụ,
sản phẩm để đánh giặc và cung cấp cho nhân dân”, Người nhấn mạnh phải “hợp
tác với chuyên môn để cải thiện kỹ thuật và điều kiện sản xuất, bảo vệ nhà máy,
phá kinh tế địch bằng mọi cách”. Cùng với đó, Người cũng kêu gọi ngành nông


6
nghiệp phải: “Trồng nhiều lúa, nhiều màu, nhiều bông, để quân và dân đủ ăn, đủ
mặc, đủ dùng, bảo vệ mùa màng cất giấu thóc lúa, sẵn sàng tiếp tế lương thực cho
quân đội... tổ chức làng kháng chiến; chủ ruộng phải giảm tô cho đúng, tá điền
phải nộp tô cho đều, xây dựng tổ đổi công để tăng gia sản xuất”. Ngày 19/6/1953,
trong thư “Gửi Hội nghị cán bộ giao thơng cơng chính”, Người nhấn mạnh: “Năm
nay (tức năm 1953) công tác giao thông vận tải, nhất là công tác sửa chữa cầu
đường, rất là quan trọng. Đường sá thơng thì mọi việc đều dễ dàng. Vì vậy tơi
mong toàn thể cán bộ ra sức thi đua phát triển sáng kiến, vượt mọi khó khăn để làm
trịn nhiệm vụ. Tôi gửi 7 huy hiệu để hội nghị tặng cho cán bộ nào xuất sắc nhất”.
Trong lời huấn thị tại “Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất” năm 1951,
Người đã nhấn mạnh: “Các cơ quan trong quân đội phải cố sức trồng trọt chăn nuôi
để tự túc phần nào, để giảm bớt gánh nặng của nhân dân. Tuy cơng việc chun
mơn vẫn là chính, nhưng phải cố sức tăng gia. Bộ đội đánh thắng giặc thu nhiều
chiến lợi phẩm đấy cũng là tăng gia”.
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quân sự,
quốc phòng và quốc phòng với kinh tế là những chỉ dẫn hết sức quý báu cho Đảng
và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ khi nước ta
bước vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đến nay, Đảng ta đã từng bước hình
thành, bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện đường lối kết hợp phát triển

kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
Thực tiễn kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trên thế giới.
Chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, do trình độ cịn thấp kém của
lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ chưa phát triển, trang bị vũ khí kỹ thuật
cho qn đội cịn hạn chế, quy mô chiến tranh chưa lớn, nhu cầu kinh tế quân sự
chưa cao,... Vì vậy, xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa xã hội gắn với quốc
phịng, an ninh ở thời kỳ này cịn đơn giản, mang tính cục bộ, chủ yếu phục vụ trực
tiếp cho chiến tranh, chưa trở thành nhu cầu nội tại của kinh tế, văn hóa - xã hội.
Đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với
sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật, vũ khí trang bị kỹ thuật


7
cho quân đội phát triển cả về trình độ, quy mô, chủng loại, các cuộc chiến tranh
chiến tranh quy mô lớn, nhu cầu kinh tế cho chiến tranh ngày càng tăng. Do đó, nội
dung xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội gắn với quốc phịng, an ninh
được mở rộng với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Vì vậy, các nước đều chú ý
xây dựng khn khổ pháp lý, tạo điều kiện cho việc huy động nhân lực, vật lực bảo
vệ chủ quyền quốc gia. Xây dựng các đạo luật, bộ máy động viên kinh tế cho quốc
phòng, chiến tranh được xây dựng từ trên xuống dưới và hàng năm được diễn tập
thực hành rút kinh nghiệm; trong phát triển kinh tế, nhất là tại các thành phố, các
khu vực nhạy cảm, các cơng trình trọng điểm quốc gia đã được Nhà nước chú ý kết
hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch, đến tổ
chức triển khai thực hiện; trong xây dựng lực lượng quân sự, các nước đều chú ý
kết hợp duy trì lực lượng thường trực hợp lý với xây dựng lực lượng dự bị động
viên rộng khắp.
Thực tiễn ở Việt Nam
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh đã có lịch sử lâu
dài. Dựng nước đi đơi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta.

Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, ln lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm
trọng, đề ra kế sách giữ nước với tư tưởng: “nước lấy dân làm gốc”, “dân giàu,
nước mạnh”, “quốc phú binh cường”; thực hiện “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ
bền gốc”, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để “yên dân” mà “vẹn đất”...
Từ khi giành được chính quyền đến nay, Đảng ta đã thực hiện sự kết hợp
phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh một cách nhất quán
với những chủ trương sáng tạo, phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) Đảng ta đề ra chủ
trương “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “Vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm”; vừa thực hiện phát triển kinh tế ở địa phương, vừa tiến hành
chiến tranh nhân dân rộng khắp; “Xây dựng làng kháng chiến”, địch đến thì đánh,
địch lui ta lại tăng gia sản xuất. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954
- 1975), kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an


8
ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với nội dung và hình thức
thích hợp.
Kết quả đạt được trong kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh ở
nước ta:
Thành tựu: Nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ngày càng rõ
hơn về những vấn đề cơ bản trên phương diện lý luận và thực tiễn, về mối quan hệ
giữa kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh. Đã có sự phối hợp giữa các cấp,
các ngành, giữa Bộ quốc phịng, Bộ Cơng an cùng các bộ, ngành thuộc các lĩnh
vực kinh tế; tích cực hỗ trợ lẫn, hiệp đồng, tạo sự gắn kết, đồng thuận giữa các cấp,
các ngành, các địa phương và đông đảo các tầng lớp Nhân dân. Việc phát triển kinh
tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh được thực hiện trên từng vùng
lãnh thổ, các ngành kinh tế - xã hội. Đã chú trọng gắn Chiến lược phát triển kinh tế
biển Việt Nam với xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân trên vùng biển, đảo; gắn
xây dựng các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia, các khu kinh tế mở, khu chế xuất

tập trung với thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân và xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) trên phạm vi cả nước...
Hạn chế: Nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với
củng cố quốc phòng, an ninh ở một số cơ quan, Bộ ngành Trung ương còn chưa đầy
đủ, nhất là nhận thức về vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy Đảng và
chính quyền các cấp; về mối quan hệ giữa tự bảo vệ và được bảo vệ trong các
ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội với quốc phịng, an ninh; về vị trí, vai trò của quốc
phòng, an ninh trong quan hệ với kinh tế - xã hội. Ở một số ngành, lĩnh vực và địa
phương cịn chưa chủ động tích cực, hoạt động thiếu đồng bộ; cơ chế hoạt động lãnh
đạo, quản lý, điều hành còn lúng túng; nội dung, phương thức gắn kết hợp chậm đổi
mới. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường sức mạnh
quốc phòng, an ninh tại các vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ...
Sự phát triển trong nhận thức của Đảng về kết hợp giữa kinh tế - xã hội với
quốc phòng, an ninh.


9
Nghị quyết Trung ương 14 Khoá II (11/1958) khẳng định: “Phải kết hợp củng
cố quốc phòng xây dựng hậu phương vững chắc”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ III năm 1960 cũng chỉ rõ: “Phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
xây dựng kinh tế và củng cố quốc phịng... đi đơi với phát triển kinh tế, văn hố phải
chú trọng củng cố quốc phịng, xây dựng các lực lượng vũ trang hùng mạnh...”. Đến
Đại hội thứ IV, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng được xác định là một bộ phận
của đường lối xây dựng kinh tế của Đảng cũng được đưa vào Nghị quyết, trong đó
Đảng ta khẳng định: “Phải kết hợp đúng đắn kinh tế với quốc phòng”.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ V, thứ VI, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc
phịng lại được cụ thể hố hơn cho phù hợp với chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó nêu rõ: “Kết hợp kinh tế với quốc phòng,
quốc phòng với kinh tế theo phương hướng cơ bản lâu dài đồng thời có những dự
kiến để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp khi xảy ra biến động, bảo đảm chiến

thắng”. Văn kiện Đại hội VII, Đảng ta cũng đã nhấn mạnh phải “kết hợp thành
chiến lược thống nhất giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội bảo vệ an ninh, trật
tự, kết hợp củng cố quốc phịng tồn dân với xây dựng thế trận an ninh nhân dân”.
Đến Đại hội VIII, nhận thức của Đảng về vấn đề kết hợp đã có sự đổi mới
quan trọng. Khơng chỉ là kết hợp kinh tế với quốc phòng như trước đây mà đã là
kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, bởi vì trong thời kỳ mới quốc phịng - an
ninh là hai mặt của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có quan hệ hữu cơ, đan xen, hồ nhập
vào nhau và chuyển hoá cho nhau. Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định sự kết
hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh là một nội dung của đường lối kinh
tế, là một trong 5 quan điểm phát triển kinh tế - xã hội và là một nguồn lực của sức
mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ X, Đảng ta xác định 3 nhiệm vụ kết hợp rất quan trọng đó là:
“Kết hợp xây dựng phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng
- an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước”; “Tiếp tục phát triển các
khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục tiêu tăng
cường quốc phòng - an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến


10
lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo”; “Xây dựng
cơng nghiệp quốc phịng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo,
quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại,
vừa phục vụ quốc phòng vừa phục vụ dân sinh”. Đại hội lần thứ XI, Đảng ta nhận
định: “Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh quốc
phòng - an ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ”.
Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta nhận định: “Kết hợp có hiệu quả giữa
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh, đối ngoại”. Tuy nhiên, Đại hội cũng
chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm như: “Kết hợp giữa phát triển kinh tế - quốc
phòng với đảm bảo quốc phòng - an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có

nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng - an ninh của một
số cấp ủy, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những
giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể”. Để khắc phục các nhược điểm trên
Đảng ta đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã
hội với quốc phòng - an ninh và quốc phòng - an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội
trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng
vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo”; “kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng - an
ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng - an ninh”…
2. Nguyên tắc, nội dung và những giải pháp chủ yếu
kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu
rộng ở nước ta hiện nay.
2.1. Nguyên tắc kết hợp kinh tế - xã hội với quốc
phòng, an ninh
Đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, sự quản lý
tập trung, thống nhất của Nhà nước, góp phần củng cố, tăng cường tiềm lực quốc
phịng, nâng cao sức mạnh chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của Quân đội; huy


11
động sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và hệ thống chính trị trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hoạt động quốc phòng với chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội; xác định rõ mục tiêu trước
mắt và lâu dài; hoạt động kết hợp phải được thực hiện trong cả quá trình từ giai
đoạn lập, thẩm định đến triển khai thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn trong từng cơng trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội
theo vùng, lãnh thổ; trong tất cả các ngành, lĩnh vực nền kinh tế quốc dân của bộ,
ngành, địa phương, các tổ chức, cá nhân liên quan. Ngoài ra cũng cần xác định rõ

trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương trong hoạt động kết hợp kinh tế - xã hội
với quốc phòng, an ninh.
2.2. Nội dung kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng,
an ninh trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước
ta hiện nay.
2.2.1. Kết hợp trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh phải được thể hiện ngay
trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Điều này
được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy
động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược.
Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển kinh tế - xã hội nước ta từ
năm 2016 - 2020 là: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước;
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; tăng cường quốc phòng
và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế; giữ vững ổn định chính trị xã hội, tạo nền tảng sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Như vậy, trong mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đã bao quát toàn diện các vấn đề của đời sống xã hội,
trong đó nổi lên ba vấn đề lớn là: Một là, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ xã
hội; Hai là, tăng cường quốc phòng, an ninh; Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại


12
nhằm giải quyết hài hoà 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh sẽ phát huy sức mạnh
của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, quy tụ mọi
nguồn lực, lực lượng trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.
Cơ quan chủ trì lập quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch

tỉnh, quy hoạch hạ tầng giao thông đô thị, quy hoạch nông thôn, quy hoạch đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt phải gửi văn bản lấy ý kiến của Bộ Quốc phòng.
Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm nghiên cứu tiếp thu các ý kiến tham
gia của Bộ Quốc phòng về kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã
hội với quốc phịng; trường hợp có ý kiến khác phải có văn bản kiến nghị với Bộ
Quốc phịng hoặc trình cấp có thẩm quyền xém xét, quyết định.
2.2.2. Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong phát triển các
vùng lãnh thổ
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong phát triển
các vùng lãnh thổ là sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến lược với xây
dựng vùng chiến lược quốc phòng, an ninh nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược mới
cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên địa bàn tỉnh,
thành phố, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam bền vững trên
toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm.
Hiện nay, nước ta đã phân chia thành các vùng kinh tế lớn và các vùng
chiến lược. Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược về phát triển kinh tế và chiến lược
phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về đặc
điểm và yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh, nên nội dung
kết hợp cụ thể trong mỗi vùng có thể có sự khác nhau. Tuy nhiên việc kết hợp đó
được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Một là, kết hợp trong xây dựng chiến lược, qui hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội với quốc phòng an ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng tỉnh,
thành phố.


13
Hai là, kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh
tế địa phương với xây dựng các khu phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu liên
hoàn, các xã (phường) chiến đấu trên địa bàn của các quận (huyện), tỉnh (thành phố).
Ba là, kết hợp trong q trình phân cơng lại lao động của vùng, phân bố lại

dân cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lượng quốc
phòng, an ninh trên từng địa bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có
biển, đảo là ở đó có dân và có lực lượng quốc phịng, an ninh để bảo vệ cơ sở, bảo
vệ Tổ quốc.
Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các
cơng trình quốc phịng, qn sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường… Bảo
đảm tính “lưỡng dụng” trong mỗi cơng trình được xây dựng.
Năm là, kết hợp xây dựng các cơ sở kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp
với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu phương vững
chắc cho mỗi vùng, mỗi địa phương để sẵn sang đối phó khi có chiến tranh xâm
lược. Hiện nay, Đảng ta xác định phải chú trọng nhiều hơn cho các vùng kinh tế
trọng điểm, vùng biển đảo và vùng biên giới.
2.2.3. Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong các ngành, các
lĩnh vực kinh tế chủ yếu.
* Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phịng, an ninh trong cơng nghiệp
Cơng nghiệp có vai trị đặc biệt quan trọng tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho
toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cung cấp máy móc nguyên nhiên liệu cho các ngành
kinh tế khác và cho cơng nghiệp quốc phịng. Vì vậy, cấn kết hợp ngay từ khâu quy
hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của ngành cơng nghiệp. Bố trí một cách hợp lý trên
các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển,
thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Tập trung đầu tư một số ngành công nghiệp liên quan đến quốc phịng như:
Cơ khí chế tạo, điện tử, cơng nghiệp, điện tử kỹ thuật cao, luyện kim, hố chất,
đóng tàu vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản xuất
ra một số sản phẩm kỹ thuật công nghiệp cao phục vụ quốc phòng, an ninh. Phát


14
triển công nghiệp quốc gia theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có thể sản xuất

hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. Kết hợp trong đầu tư nghiên
cứu, sáng chế, chế tạo, sản xuất các mặt hàng có tính lưỡng dụng cao trong các nhà
máy và ở một số cơ sở công nghiệp nặng. Các nhà máy cơng nghiệp quốc phịng
trong thời bình, ngồi việc sản xuất ra hàng quân sự phải tham gia sản xuất hàng
dân sự chất lượng cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
* Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phịng, an ninh trong nơng, lâm, ngư nghiệp:
Nước ta cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, đang tiến hành đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Nông, lâm, ngư nghiệp là những ngành giữ vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế. Vì vậy, trong quy hoạch chiến lược phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp của cả nước và từng địa phương cần gắn với thế trận quốc phòng, an ninh,
tạo ra lực lượng phòng thủ tại chỗ, hậu cần tại chỗ.
Kết hợp phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển đảo và
lực lượng lao động để phát triển đa dạng các ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp
theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Kết hợp trong nông, lâm, ngư
nghiệp phải gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội như xố đói, giảm nghèo, nâng
cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền ơn đáp nghĩa, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại. Bảo đảm an ninh
lương thực và an ninh nơng thơn, góp phần tạo thế trận phịng thủ “thế trận lòng
dân” vững chắc. Phải kết hợp gắn việc động viên đưa dân ra lập nghiệp ở các đảo
để xây dựng các làng xã, huyện đảo vững mạnh với chú trọng đầu tư xây dựng
phát triển các hợp tác xã, các đội tàu thuyền đánh cá xa bờ,… Phải đẩy mạnh phát
triển trồng rừng gắn với công tác định canh định cư, xây dựng các cơ sở chính trị
vững chắc ở các vùng rừng núi biên giới, đặc biệt là ở Tây Bắc, Tây Nguyên và
Tây Nam Bộ.
* Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong giao thơng vận tải:
Giao thơng vận tải được ví là huyết mạch của nền kinh tế, vì vậy cần: Phát
triển hệ thống giao thông vận tải đồng bộ cả đường bộ, đường sắt, đường không,
đường thủy đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá trong nước và mở rộng



15
giao lưu với nước ngoài. Trong xây dựng các mạng đường bộ, cần chú trọng mở
rộng, nâng cấp các tuyến đường trục Bắc Nam với tuyến đường trục dọc Trường
Sơn, đường Hồ Chí Minh. Từ các tuyến đường này, phải phát triển các tuyến
đường ngang nối liền giữa các tuyến trục dọc với nhau và phát triển đến các xã,
huyện trong cả nước, nhất là đến các vùng cao, vùng sâu, miền núi biên giới, xây
dựng các tuyến đường vành đai biên giới.
Trong thiết kế, thi cơng các cơng trình giao thông vận tải, đặc biệt là các
tuyến vận tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời
chiến, nhất là cho các phương tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trọng tải và
lưu lượng vận chuyển lớn, liên tục. Phải thiết kế, xây dựng lại hệ thống đường ống
dẫn dầu Bắc - Nam, chơn sâu, bí mật, có đường vịng tránh trên từng cung đoạn,
bảo đảm hoạt động an toàn cả thời bình và thời chiến. Ở vùng đồng bằng ven biển,
đi đôi với phát triển hệ thống đường bộ, cần chú trọng cải tạo, phát triển đường
sông, đường biển, xây dựng các cảng sông, cảng biển, bảo đảm đi lại, bốc dỡ thuận
tiện. Việc mở rộng nâng cấp sân bay phải chú ý cả sân bay ở tuyến sau, ở sâu trong
nội địa, sân bay dã chiến và có kế hoạch sử dụng cả đường cao tốc làm đường băng
cho máy bay khi cần thiết trong chiến tranh. Xây dựng kế hoạch động viên giao
thông vận tải cho thời chiến.
* Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong bưu chính viễn thơng:
Bảo đảm thơng tin liên lạc luôn là yêu cầu hàng đầu cả trong thời bình và
thời chiến, đặc biệt là trong cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 và chiến tranh cơng
nghệ cao. Vì vậy, phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành bưu điện quốc gia với ngành
thông tin quân đội, công an để phát triển hệ thống thông tin quốc gia hiện đại, đảm
bảo nhanh chóng, chính xác, an tồn thơng tin liên lạc phục vụ lãnh đạo chỉ huy,
điều hành đất nước trong mọi tình huống. Có phương án thiết kế xây dựng và bảo
vệ hệ thống thông tin liên lạc một cách vững chắc trong mọi tình huống. Các
phương tiện thơng tin liên lạc và điện tử cần phải được bảo đảm bí mật và có khả
năng chống nhiễu cao, phịng chống chiến tranh thông tin điện tử của địch. Đẩy
mạnh nghiên cứu, ứng dụng, phát triển các ngành công nghệ thông tin, thực hiện

việc chuyển đổi số quốc gia và trong từng lĩnh vực. Đặc biệt chú trọng công tác


16
bảo mật, bảo đảm an ninh thông tin cả thời bình và thời chiến. Chủ động xây dựng
kế hoạch động viên thông tin liên lạc cho thời chiến.
* Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong khoa học và công
nghệ, giáo dục - đào tạo:
Phải phối hợp chặt chẽ và toàn diện hoạt động giữa các ngành khoa học và
công nghệ then chốt của cả nước với các ngành khoa học của quốc phòng, an ninh
trong việc hoạch định chiến lược nghiên cứu phát triển và quản lý sử dụng phục vụ
cho cả xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến
khích các tổ chức, cá nhân có đề tài khoa học, dự án công nghệ và sản xuất các sản
phẩm có ý nghĩa vừa phục vụ cho nhu cầu CNH, HĐH đất nước vừa phục vụ nhu
cầu quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Coi trọng, giáo dục và bồi dưỡng nhân
lực, đào tạo nhân tài của đất nước, đáp ứng cả sự nghiệp xây dựng phát triển kinh
tế - xã hội, cả quốc phòng, an ninh cho các đối tượng, đặc biệt là trong các nhà
trường thuộc hệ thống giáo dục quốc gia.
* Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong lĩnh vực y tế:
Phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế dân sự với quân y trong nghiên
cứu, ứng dụng, trong đào tạo nguồn nhân lực, trong khám chữa bệnh cho nhân dân,
bộ đội và cho người nước ngoài. Xây dựng mơ hình qn dân y kết hợp trên các
địa bàn, đặc biệt là ở miền núi, biên giới, hải đảo. Xây dựng kế hoạch động viên y
tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh xảy ra. Phát huy vai trò của y tế quân sự
trong phòng chống, khám chữa bệnh cho nhân dân thời bình và thời chiến.
* Đối với các ngành, lĩnh vực khác:
Khi xây dựng, triển khai quy hoạch, kế hoạch, chiến lược, dự án phát triển
kinh tế - xã hội phải đảm bảo sẵn sàng phục vụ quốc phịng khi có u cầu; đồng
thời có phương án sơ tán, phân tán đến nơi an tồn để bảo đảm sản xuất khi có tình
huống quốc phòng, an ninh; sản phẩm của các ngành, lĩnh vực vừa đáp ứng nhu

cầu phục vụ dân sinh thời bình và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu quốc phịng khi có
tình huống.


17
2.3. Những giải pháp chủ yếu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng
ở nước ta hiện nay.
2.3.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý nhà nước
trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh.
Đây là giải pháp cơ bản, quan trọng hàng đầu; là vấn đề có tính ngun tắc
trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nó bảo đảm sự kết hợp chặt chẽ giữa
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh trong điều
kiện hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay.
Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, chính sách; bằng tổ chức cán bộ,
bằng kiểm tra, giám sát... Để nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng về kết
hợp kinh tế - xã hội với quốc phịng, an ninh trong phạm vị mình lãnh đạo, các cấp
ủy Đảng phải trên cơ sở đường lối, quan điển của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc
phòng cụ thể hóa, đề ra các quyết định lãnh đạo bộ, ngành, địa phương thực hiện
phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh một cách đúng
đắn, thường xuyên. Gắn chủ trương lãnh đạo với tăng cường kiểm tra việc thực hiện
của chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã hội trong thực hiện chủ trương,
đường lối về phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh.
Các bộ, ngành Trung ương và địa phương trên cơ sở chiến lược và quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh;
xây dựng kế hoạch kết hợp đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng,
an ninh theo từng kế hoạch 5 năm và từng năm của bộ, ngành, địa phương mình.
Nâng cao chất lượng, tầm nhìn dài hạn, tính đồng bộ, tính pháp lý trong công tác
quy hoạch, kế hoạch kết hợp đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng,

an ninh. Nâng cao hiệu quả phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và các
địa phương trong việc làm tham mưu cho Chính phủ và trực tiếp hoạch định, xây
dựng, thông qua các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội gắn với quốc phịng, an ninh, trong đó bảo đảm thực sự cho Bộ
Quốc phòng phát huy vai trò quản lý Nhà nước về quốc phòng. Xác định rõ và bảo


18
đảm vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành, địa
phương trước Chính phủ về kết quả tổ chức thực hiện việc kết hợp đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phịng, an ninh ở bộ, ngành, địa phương mình.
Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu chiến lược,
công tác quy hoạch, kế hoạch, đặc biệt coi trọng các chỉ tiêu và biện pháp về chất
lượng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và mơi trường. Đổi mới nội dung, phương
pháp quy trình xây dựng, thơng qua và phê duyệt, triển khai thực hiện quy hoạch,
kế hoạch phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa lợi thế so sánh và nguồn lực của
quốc gia, của mỗi vùng và của mỗi địa phương. Tăng cường chất lượng dự báo tình
hình, thu thập, xử lý thơng tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẫn thực
hiện; thanh tra, kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình thực hiện kết hợp kinh
tế - xã hội với quốc phòng, an ninh ở ngành, địa phương của mình. Kiên quyết
khắc phục nạn tham nhũng và làm thất thoát ngân sách trong lĩnh vực đầu tư.
2.3.2. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên và toàn dân về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới
Đây là giải pháp quan trọng nằm trong nhiệm vụ quốc phòng của nước ta,
nhằm xây dựng tiềm lực quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân vững
mạnh. Bảo đảm cho toàn dân nắm được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về quốc phịng nói chung và kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phịng, an ninh
nói riêng, qua đó tạo sự đồng thuận trong quá trình thực hiện.

Đối tượng được giáo dục là tồn dân, trong đó trọng điểm là cán bộ chủ trì
các cấp, các bộ, ngành, đồn thể từ trung ương đến địa phương và thanh niên (học
sinh, sinh viên).
Nội dung giáo dục: cần căn cứ vào đối tượng, yêu cầu để lựa chọn nội dung,
chương trình bồi dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhằm nâng cao cả về nhận thức,
kiến thức quốc phòng, an ninh và kinh tế cũng như năng lực tổ chức thực hiện việc
kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh sát với cương vị đảm nhiệm và
môi trường công tác của từng loại đối tượng. Công tác giáo dục được thực hiện
bằng nhiều hình thức, phương pháp đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, cấp học,


19
bậc học; thơng qua hoạt động chính trị, qua các cuộc diễn tập, thực tế ở các bộ,
ngành địa phương cơ sở để nâng cao sự hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện của
đội ngũ cán bộ, toàn dân và toàn quân về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
quốc phịng, an ninh trong tình hình mới.
2.3.3. Quán triệt và thực hiện nghiêm pháp luật, cơ chế chính sách của
Đảng và Nhà nước về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố quốc phịng, an ninh trong tình hình mới.
Đây là nội dung rất quan trọng nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương của
Đảng về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh thành các văn bản, tiến
hành quán triệt, tổ chức thực hiện bảo đảm hiệu quả cao. Trước yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần tập trung quán triệt nắm chắc,
chấp hành nghiêm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế chính sách có liên
quan đến mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an
ninh làm cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa tự
bảo vệ và được bảo vệ, phù hợp với thực tiễn đất nước và thông lệ quốc tế.
Các bộ, ngành, địa phương cần quán triệt, thực hiện nghiêm Nghị định số
164/2018/NĐ-CP ngày 21 tháng 12 năm 2018 của Chính phủ về kết hợp quốc
phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng; cần cụ thể hóa các

nội dung, hình thức kết hợp thành kế hoạch, đề án, chương trình hành động cụ thể.
Ngồi ra cần định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm phát huy ưu điểm, chỉ ra
những tồn tại, khuyết điểm trong kết hợp giữa kinh tế - xã hội với quốc phòng, an
ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế
sau rộng hiện nay. Kịp thời đề xuất việc sửa đổi các quy định bất cập, đồng thời bổ
sung những chính sách mới phù hợp với điều kiện mới.
2.3.4. Xây dựng chiến lược cụ thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường củng cố quốc phịng, an ninh trong tình hình mới.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giữ vai trò định hướng nền kinh tế
trong từng giai đoạn nhất định. Nó là sự cụ thể hóa đường lối của Đảng trong từng
giai đoạn, nhằm thực hiện từng bước đi trong chặng đường xây dựng Chủ nghĩa xã
hội. Để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung và đường


20
lối, quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh cần xây dựng chiến lược cụ
thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phịng, an ninh trong
tình hình mới.
Hiện nay, nước ta đang thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn
với quốc phòng, an ninh đến năm 2020. Thực tiễn, sự vận dụng quy luật kinh tế,
quốc phòng, an ninh và quán triệt quan điểm đường lối của Đảng đề ra còn nhiều
mâu thuẫn do thiếu định hướng chiến lược cơ bản cả ở tầm vĩ mô và vi mơ. Mặt
khác do tác động rất lớn của tình hình thế giới, khu vực và trong nước đặt trong bối
cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Vì vậy, muốn kết hợp ngay từ đầu và
trong suốt quá trình CNH, HĐH đất nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm
vi của cả nước và từng địa phương, phải tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các quy
hoạch và kế hoạch chiến lược tổng thể quốc gia về kết hợp kinh tế với quốc phòng,
an ninh. Coi đó là một trong những mặt, khâu quan trọng hàng đầu chỉ đạo, quản lý
nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phịng,
an ninh một cách có hiệu lực, hiệu quả.

Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lược tổng thể về phát triển kinh
tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thời kỳ
mới, phải có sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu khảo sát, đánh
giá các nguồn lực. Trên cơ sở đó xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề
ra các chính sách đúng đắn, như: chính sách khai thác các nguồn lực, chính sách
đầu tư và phân bổ đầu tư; chính sách điều động nhân lực, bố trí dân cư, chính sách
ưu đãi khoa học và cơng nghệ,…
2.3.5. Thường xun kiện tồn và phát huy vai trò của cơ quan chuyên trách
về quốc phòng, an ninh trong kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng, an ninh.
Cơ quan chuyên trách, lực lượng chuyên trách về quốc phòng, an ninh là lực
lượng nòng cốt trong tham mưu, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Hoạt động của cơ quan chuyên trách, cán bộ chuyên trách giữ vai trị quan trọng
trong hoạch định đường lối, chính sách, quán triệt, triển khai thực hiện thắng lợi


21
đường lối, chính sách. Do vậy, phải thường xuyên kiện tồn, phát huy vai trị của
cơ quan chun trách, cán bộ chuyên trách về quốc phòng, an ninh.
Căn cứ vào các nghị định của chính phủ về cơng tác quốc phòng ở các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ và các địa phương, cần nghiên cứu,
bổ sung mở rộng thêm chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách quản lý
nhà nước về quốc phòng, an ninh nói chung và kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
gắn liền với tăng cường củng cố quốc phịng, an ninh nói riêng trong tình hình mới.
Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng
nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chyên trách làm tham
mưu cho Đảng, Nhà nước về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ngang tầm với nhiệm vụ trong tình hình
mới. Việc kết hợp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội và có sự phối hợp của các cấp, các ngành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý

của nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho việc phát triển kinh tế - xã hội, củng
cố quốc phịng, an ninh. Q trình kết hợp phải được triển khai có kế hoạch, có cơ
chế chính sách cụ thể, chặt chẽ, đồng bộ. Kịp thời kiện toàn cơ quan chuyên trách,
cán bộ chuyên trách về quốc phòng, an ninh. Phát huy vai trò của cơ quan chuyên
trách, cán bộ chuyên trách trong kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh.
Ở các vùng, các địa phương phải đề cao và phát huy vai trò của Quân khu, cơ quan
quân sự địa phương tham gia thẩm định các dự án đầu tư, phát triển kinh tế - xã
hội, nhất là các dự án có yếu tố nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật.


22

KẾT LUẬN
Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phịng, an ninh là vấn đề mang tính quy
luật trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện
nay hơn lúc nào hết, càng địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta phải thực hiện
tốt hơn nữa, có chất lượng và hiệu quả hơn nữa đường lối kết hợp phát triển kinh tế
- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh làm cho hoạt động ấy được
hiện thực hoá trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phát triển kinh tế - xã
hội phải gắn liền với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường tiềm lực
và khả năng sức mạnh quân sự để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới. Nhận thức đúng, tổ chức thực hiện có hiệu quả đường
lối kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh
của Đảng trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay là điều kiện tiên
quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời,
đây cũng là nhiệm vụ vừa mang tính cấp thiết trước mắt vừa mang tính cơ bản lâu
dài, thường xun trong q trình phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện nó cần
phát huy được sức mạnh tổng hợp của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn và của cả hệ
thống chính trị, trong đó cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và hiệu quả, hiệu lực
quản lý, điều hành của Nhà nước.



23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H 1996;
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H 2001;
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006;
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011;
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H 2016;
6. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, H 2010;
7. Luật Quốc phòng 2018;
8. Nghị định số 164/NĐ-CP ngày 21/12/2018 của Chính phủ về kết hợp quốc
phịng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phịng;
9. Học viện Chính trị, Tài liệu Giáo dục quốc phòng và an ninh (dùng cho
đào tạo sau đại học hệ quân sự), HN 2019.



×