Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Đề cương chi tiết môn luật kinh tế có lời giải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.46 KB, 65 trang )

CÂU HỎI LÝ THUYẾT
DẠNG ĐỀ MỞ
MÔN LUẬT KINH TẾ
1. Phân tích quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu cơng ty?
Khái niệm chủ sở hữu công ty được Luật Doanh nghiệp 2014 dùng cho chủ sở
hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Quyền của chủ sở hữu công ty được quy định tại Điều 75 Luật Doanh nghiệp
2014 như sau:
-

Quyền chung của chủ sở hữu là tổ chức và cá nhân:
 Quyết định nội dung Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty;
 Quyết định tăng vốn điều lệ của công ty; chuyển nhượng một phần hoặc tồn
bộ vốn điều lệ của cơng ty cho tổ chức, cá nhân khác;
 Quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các
nghĩa vụ tài chính khác của cơng ty;
 Quyết định tổ chức lại, giải thể và yêu cầu phá sản cơng ty;
 Thu hồi tồn bộ giá trị tài sản của cơng ty sau khi cơng ty hồn thành giải thể
hoặc phá sản;
 Quyền khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.

-

Quyền riêng của chủ sở hữu công ty là tổ chức:
 Quyết định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công
ty;
 Quyết định cơ cấu tổ chức quản lý công ty, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm
người quản lý công ty;
 Quyết định dự án đầu tư phát triển;
 Quyết định các giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ;
 Thông qua hợp đồng vay, cho vay và các hợp đồng khác do Điều lệ cơng ty


quy định có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được
ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của cơng ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị
khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ cơng ty;
 Quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản
được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá
trị khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty;
 Quyết định thành lập cơng ty con, góp vốn vào cơng ty khác;
 Tổ chức giám sát và đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty;


-

Quyền riêng của Chủ sở hữu công ty là cá nhân:
 Quyết định đầu tư, kinh doanh và quản trị nội bộ công ty, trừ trường hợp Điều
lệ công ty có quy định khác;

Nghĩa vụ của Chủ sở hữu cơng ty không phân biệt chủ sở hữu là tổ chức hay
cá nhân được quy định tại Điều 76 Luật Doanh nghiệp 2014 như sau:
 Góp đầy đủ và đúng hạn vốn điều lệ công ty.
 Tuân thủ Điều lệ công ty.
 Phải xác định và tách biệt tài sản của chủ sở hữu công ty và tài sản của công
ty. Chủ sở hữu công ty là cá nhân phải tách biệt các chi tiêu của cá nhân và gia
đình mình với các chi tiêu trên cương vị là Chủ tịch công ty và Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc.
 Tuân thủ quy định của pháp luật về hợp đồng và pháp luật có liên
quan trong việc mua, bán, vay, cho vay, thuê, cho thuê và các giao dịch khác
giữa công ty và chủ sở hữu công ty.
 Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác; trường hợp rút
một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ đã góp ra khỏi cơng ty dưới hình thức khác

thì chủ sở hữu và cá nhân, tổ chức có liên quan phải liên đới chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty.
 Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận khi cơng ty khơng thanh tốn đủ
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn.
 Thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ cơng ty.
2.
Phân tích đặc điểm của hoạt động môi giới thương mại theo
quy định của Luật Thương mại. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên
trong hoạt động môi giới thương mại?
2.1 Đặc điểm của hoạt động môi giới thương mại
Theo quy định của Luật thương mại 2005, môi giới thương mại là hoạt
động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên mơi giới)
cho các bên mua bán hàng hố, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới)
trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được
hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới. (Điều 150. Môi giới thương mại)
Căn cứ theo các quy định của Luật Thương mại 2005 thì có thể nhận thấy
mơi giới thương mại có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Đây là hoạt động thương mại, một loại dịch vụ thương mại, một
hình thức trung gian thương mại, theo đó một thương nhân làm một công việc
cho thương nhân khác để hưởng thù lao. Bên mơi giới thực hiện hoạt động mơi
giới nhằm mục đích lợi nhuận bằng việc nhận thù lao của bên thuê dịch vụ. Vì
thế, kết quả hoạt động kinh doanh của bên môi giới sẽ phụ thuộc vào khả năng và
hiệu quả của hoạt động môi giới. Trong hoạt động môi giới, bên mơi giới nhân
danh chính mình, với tư cách là người môi giới tham gia vào giao dịch, trong các
giao dịch với các bên.


Thứ hai: Chủ thể trong quan hệ môi giới thương mại gồm có bên mơi giới
và bên được mơi giới. Theo quy định của Luật Thương mại 2005 thì bên mơi giới
bắt buộc phải là thương nhân, phải có đăng ký kinh doanh ngành nghề môi giới

thương mại. Tuy nhiên, đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ môi giới trong
các lĩnh vực nhất định thì cịn phải đáp ứng được các điều kiện khác do pháp luật
quy định chẳng hạn như điều kiện để kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản,
mơi giới chứng khốn, mơi giới tàu biển… được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật chun ngành. Bên được mơi giới có thể là hoặc không là thương
nhân.
Thứ ba: Nội dung và phạm vi của công việc môi giới khá rộng bao gồm
tất cả các công việc làm trung gian cho các bên mua bán trong quan hệ mua bán
hàng hóa, hay cung ứng và sử dụng dịch vụ trong hoạt động cung ứng dịch vụ
với mục đích cho các bên này giao kết được hợp đồng với nhau. Luật Thương
mại 2005 chỉ quy định bên môi giới “làm trung gian” cho các bên mà không quy
định cụ thể các việc mà bên môi giới phải làm. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định
của Luật Thương mại 2005 thì bên mơi giới có thể tiếp nhận các thông tin, hàng
mẫu, tài liệu của bên thuê dịch vụ để tiến hành việc tìm kiếm, thúc đẩy các bên
có cung và bên có cầu đạt được thỏa thuận mua bán hay cung ứng dịch vụ với
nhau. Bên mơi giới có thể phải làm nhiều việc cụ thể như tìm kiếm, tiếp xúc, trao
đổi, giới thiệu, thuyết phục các bên liên quan.
Thứ tư, quan hệ môi giới thương mại được xác lập trên cơ sở hợp đồng
môi giới. Theo quy định tại Điều 150 Luật Thương mại 2005 thì quan hệ mơi
giới, các quyền và nghĩa vụ giữa bên môi giới và bên được môi giới, phải thể
hiện trên hợp đồng môi giới.
2.2 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong hoạt động môi giới thương
mại
+ Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới
 Quyền của bên môi giới
Thứ nhất, quyền được hưởng thù lao môi giới là một quyền quan trọng của
bên môi giới, đây cũng chính là mục đích trực tiếp mà bên môi giới mong
muốn đạt được khi giao kết hợp đồng môi giới.
Về nguyên tắc, bên môi giới được hưởng thù lao môi giới từ thời điểm các
bên được môi giới đã giao kết được hợp đồng với nhau, chứ không phải ở thời

điểm bên môi giới giới thiệu các bên gặp nhau hay khi các bên thực hiện xong
hợp đồng mua bán hay cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo quyền tự
do thỏa thuận của các bên, LTM 2005 cho phép các bên trong hợp đồng mơi
giới có quyền thỏa thuận thời điểm phát sinh quyền hưởng thù lao khác với
nguyên tắc ở trên.
Thứ hai, bên cạnh thù lao môi giới, bên môi giới được quyền yêu cầu bên
được mơi giới thanh tốn các chi phí phát sinh hợp lý liên quan đến việc môi
giới, kể cả khi việc môi giới không mang lại kết quả cho bên được mơi giới, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Thứ ba, bên mơi giới cịn có các quyền khác theo quy định của pháp luật
và theo thỏa thuận.


 Nghĩa vụ của bên môi giới
Điều 151 LTM 2005 quy định một loạt các nghĩa vụ của bên môi giới,
theo đó trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên mơi giới có các nghĩa
vụ sau đây:
-

Trong trường hợp bên được môi giới giao cho bên môi giới các mẫu hàng
hóa, tài liệu đề thực hiện việc mơi giới thì bên mơi giới có nghĩa vụ bảo
quản và phải hồn trả cho bên được mơi giới sau khi hồn thành việc mơi
giới;

-

Bên mơi giới khơng được tiết lộ, khơng được cung cấp thơng tin có được từ
việc thực hiện công việc môi giới cho các tổ chức, cá nhân làm phương hại
đến lợi ích của bên được mơi giới.


-

Với bản chất của quan hệ môi giới, bên môi giới không được tham gia thực
hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp bên môi giới có
sự ủy quyền của bên được mơi giới đề tham gia thực hiện hợp đồng.

-

Khi thực hiện công việc môi giới, bên môi giới phải đảm bảo và chịu trách
nhiệm về tư cách chủ thể hợp pháp của các bên mà mình mơi giới, giới
thiệu họ đàm phán, giao dịch, ký kết hợp đồng với nhau. Các bên được môi
giới đã không biết nhau trước khi được môi giới qua hoạt động của người
mơi giới, vì thế việc quy định bên môi giới phải chịu trách nhiệm về tư cách
pháp lý của các bên được mơi giới là hồn tồn hợp lý. Tuy nhiên, bên môi
giới không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán, khả năng thực hiện
hợp đồng và các yếu tổ khác liên quan đến các bên được mơi giới; các bên
phải tự tìm hiểu và quyết định khi đàm phán, giao kết hợp đồng.
+ Quyền và nghĩa vụ của bên được môi giới
 Quyền của bên được mơi giới

Mặc dù LTM 2005 khơng có một điều luật riêng quy định về quyền của
bên được môi giới nhưng có thể hiểu rằng, bên được mơi giới có quyền yêu cầu
bên môi giới phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình, chẳng hạn như phải
bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu được giao đề thực biện việc môi giới; yêu
cầu bên môi giới không được tiết lộ thơng tin làm ảnh hưởng đến lợi ích của
bên được môi giới... Các quyền này bao gồm những quyền theo thỏa thuận
trong hợp đồng và quyền yêu cầu bên môi giới thực hiện những nghĩa vụ mà
pháp luật quy định.
 Nghĩa vụ của bên được môi giới
Nghĩa vụ của bên được môi giới được quy định tại Điều 152 LTM 2005.

Nếu giữa bên môi giới và bên được môi giới khơng có thỏa thuận khác thì bên
được mơi giới có các nghĩa vụ sau đây: Phải cung cấp thơng tin, tài liệu,
phương tiện cần thiết liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà cần nhờ bên mơi giới
giao dịch; Phải thanh tốn thù lao cho bên mơi giới theo thỏa thuận, nếu khơng
có thỏa thuận cụ thể về thù lao mơi giới thì mức thù lao này sẽ căn cứ vào quy
định tại Điều 86 LTM 2005. Bên cạnh đó bên được mơi giới cịn phải trả cho
bên mơi giới những chi phí phát sinh hợp lý liên quan đến công việc môi giới.


3. Nêu khái niệm và phân tích đặc điểm của Hợp đồng mua bán? Phân tích các
điều kiện để Hợp đồng mua bán hàng hố có hiệu lực.
3.1

Khái niệm

Xét về bản chất, hợp đồng mua bán hàng hóa – hình thức pháp lý của quan hệ
mua bán hàng hóa – mang tính chất cơ bản của một hợp đồng, là sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hợp
đồng mua bán hàng hóa. Nền tảng của hợp đồng mua bán hàng hóa trên sự thỏa
thuận giữa các chủ thể của quan hệ mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật
thương mại nhằm thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa.
Theo cách hiểu này, dựa trên quy định của LTM 2005 về hoạt động mua bán
hàng hóa, có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên
theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên
mua và nhận thanh tốn; cịn bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận
hàng và quyền sở hữu hàng hóa.
3.2

Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa


Hoạt động mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại thuộc về bản chất,
được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi của thương nhân, vậy nên hợp đồng mua
bán hàng hóa với tính chất là sự thỏa thuận của các bên để thực hiện hoạt động mua
bán hàng hóa có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập giữa
(i)

các chủ thể là thương nhân hoặc giữa

(ii) thương nhân với các chủ thể khác có nhu cầu về hàng hóa khi các chủ
thể đó chọn áp dụng LTM 2005 các chủ thể này là một bên trong giao
dịch với thương nhân, thực hiện hoạt động mua bán không nhằm mục
đích sinh lợi trên lãnh thổ nước Việt Nam và chọn áp dụng LTM 2005
để điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa của các bên
Thứ hai, về hình thức, hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời
nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, đối với những
loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải được giao kết bằng văn bản thì phải tn
theo quy định đó.
Thứ ba, về đối tượng, hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa.
Theo LTM 2005, hàng hóa bao gồm
(i)

tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;

(ii) những vật gắn liền với đất đai.
Theo quy định của pháp luật, động sản là những tài sản khơng phải là bất
động sản; cịn bất động sản là các tài sản bao gồm đất đai; nhà, cơng trình xây dựng
gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các
tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định. Như vậy,
LTM 2005 chỉ điều chỉnh các hợp đồng mua bán có đối tượng hàng hóa là (i) động

sản đã tồn tại vào thời điểm xác lập hợp đồng hoặc sẽ hình thành trong tương lai và
(ii) những vật gắn liền với đất đai (mà không bao gồm đất đai).


Theo cách hiểu này, quyền sử dụng đất là đối tượng trong các giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì khơng phải là hàng hóa theo quy định của
LTM 2005 nhưng nhà, cơng trình xây dựng tồn tại trên đất lại là hàng hóa thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật này.
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải khơng thuộc
danh mục hàng hóa cấm kinh doanh; trường hợp hàng hóa thuộc danh mục hạn chế
kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì để có thể lưu thơng hợp pháp phải đáp
ứng các điều kiện này theo quy định của pháp luật.
3.3

Phân tích các điều kiện để Hợp đồng mua bán hàng hố có hiệu lực

LTM 2005 khơng quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt
động thương mại, vì vậy các vấn đề pháp lý liên quan đến xác định điều kiện để
hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực phải tuân theo quy định của BLDS 2015 về
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Theo đó, hợp đồng mua bán hàng hóa
có hiệu lực khi đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng phải có năng lực chủ thể
để ký kết hợp đồng.
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân, chủ thể này
có nghĩa vụ phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật thuơng mại.
Thương nhân giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nhằm mục đích sinh lợi với điều
kiện có đăng ký kinh doanh đối với hàng hóa mua bán. Đối với thương nhân là tổ
chức kinh tế, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được thực hiện thơng qua
người đại diện hợp pháp của mình, bao gồm người đại diện theo pháp luật và người
đại diện theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được xác

định căn cứ vào giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (hoặc giấy chứng nhận có
giá trị tương đương) và phạm vi quyền hạn của người đại diện theo pháp luật được
xác định căn cứ vào điều lệ của doanh nghiệp và pháp luật doanh nghiệp. Như vậy,
để hợp đồng mua bán hàng hóa của thương nhân có hiệu lực thì chủ thể tham gia
hợp đồng phải đáp ứng yêu cầu về đăng ký kinh doanh và yêu cầu về thầm quyển
của người ký kết hợp đồng.
Thứ hai, mục đích và nội dung của hợp đồng không được vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Những hợp đồng mua bán có mục đích và nội dung vi phạm điều kiện này bị
vơ hiệu và vì vậy, khơng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Thứ ba, hợp đồng phải được giao kết trên nguyên tắc tự nguyện.
Đây là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong giao kết hợp đồng, bởi lẽ
hợp đồng phải là sự thống nhất ý chí của các bên và các bên phải tự nguyện trong
việc xác lập và thể hiện ý chí của mình, mọi trường hợp giao kết hợp đồng trên cơ
sở lừa đối, đe dọa là căn cứ dẫn đến hậu quả hợp đồng bị vô hiệu.
Thứ tư, hợp đồng phải đáp ứng quy định của pháp luật về hình thức.
Hình thức của hợp đồng mua bán là phương thức thể hiện ý chí của các bên
tham gia quan hệ mua bán hàng hóa, sự thỏa thuận của các bên về nội dung của hợp
đồng phải được thể hiện bằng những hình thức đáp ứng quy định của pháp luật.
Hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp


pháp luật có quy định. Các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa có thể xác lập hợp
đồng bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, chỉ những hợp đồng nào
pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.
Trường hợp pháp luật quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng mà các bên khơng tn theo thì heo u cầu của một hoặc các bên,
Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện
quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn; q thời hạn đó mà khơng
thực hiện thì hợp đồng vô hiệu.

4.
Hãy so sánh quảng cáo thương mại và khuyến mại? Nêu một số
ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động này với người tiêu dùng hiện nay ở nước ta
4.1 So sánh quảng cáo thương mại và khuyến mại
-

Điểm giống nhau:
 Đều là hoạt động xúc tiến thương mại của các thương nhân nhằm xúc tiến
việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
 Có thể do thương nhân tự tiến hành hoặc thuê dịch vụ quảng cáo, khuyến mại
dựa trên hợp đồng.

-

Điểm khác nhau:

Tiêu chí

Quảng cáo thương mại

Khuyến mại

Khái niệm

Quảng cáo thương mại là hoạt động
xúc tiến thương mại của thương
nhân để giới thiệu với khách hàng
về hoạt động kinh doanh hàng hố,
dịch vụ của mình (Điều 102 Luật
Thương mại 2005).


Là hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân nhằm xúc tiến việc mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng
cách dành cho khách hàng những lợi
ích nhất định (Điều 88 Luật Thương
mại 2005)

Chủ thể

Thường có nhiều chủ thể tham gia:
người thuê quảng cáo, người phát
hành quảng cáo, người cho thuê
phương tiện quảng cáo (bởi quảng
cáo cần phải thông qua các phương
tiện truyền thông)

Chủ thể thường không đa dạng bằng
thường chỉ là thương nhân thực hiện
khuyến mại và thương nhân kinh
doanh dịch vụ khuyến mại.

Sử dụng sản phẩm và phương tiện
quảng cáo thương mại để thông tin
Cách thức về hàng hóa, dịch vụ đến khách
xúc
tiến hàng: hình ảnh, tiếng nói... được
thương mại truyền tải tới cơng chúng qua truyền
hình, truyền thanh, ấn phẩm…


Dành cho khách hàng những lợi ích
nhất định, các lợi ích mà khách hàng
nhận được có thể là các lợi ích vật
chất, nhưng cũng có thể là các lợi ích
tỉnh thần, nhưng đối với thương nhân
khuyến mại bao giờ cũng có thể quy
về giá trị vật chất.

Mục đích

Xúc tiến bán hàng, cung ứng dịch vụ
thơng qua các đợt khuyến mại lôi kéo
hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ,
giới thiệu sản phẩm mới nhằm giúp
tăng thị phần của doanh nghiệp trên

Giới thiệu hàng hoá, dịch vụ để xúc
tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu
cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận
cuả thương nhân thông qua nhấn
mạnh đặc điểm, lợi ích của hàng hóa


Tiêu chí

Thủ tục

Quảng cáo thương mại

Khuyến mại


hoặc so sánh tính ưu việt với sản
phầm cùng loại.

thị trường.

Không phải đăng ký với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền

Phải đăng ký hoặc thơng báo đến cơ
quan nhà nước có thẩm quyền

4.2 Ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động này tời người tiêu dùng:
-

Về kinh tế: Tăng sự lãng phí, tiêu thụ khơng cần thiết (giá rẻ - mua nhiều hơn mức
cần thiết). Ngồi ra khách hàng cần thời gian tìm kiếm, so sánh các chương trình
khuyến mại, quảng cáo của sản phẩm (nhằm tìm ra chương trình tốt nhất) hay thậm
chí khơng mua hàng khi có nhu cầu thực sự mà cố đợi đến đợt khuyến mại.
Xét ở góc độ kinh tế, quảng cáo thương mại được xem công cụ marketing hữu hiệu
để quảng bá hình ảnh của thương nhân, hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Mặc đù
mỗi quảng cáo đều có đối tượng tác động riêng (khách hàng mục tiêu), nhưng khi
quảng cáo được phát hành trên cáo phương tiện quảng cáo như phương tiện thông
tin đại chúng, xuất bản phẩm thì thơng thường quảng cáo đó khơng chỉ tác động
đến nhóm đối tượng mục tiêu, mà đến cơng chúng nói chung. Bởi vậy, một quảng
cáo cụ thể có thể có các hiệu ứng xã hội khơng mong muốn. Mặt khác, là công cụ
marketing quảng cáo cũng đồng thời là phương tiện cạnh tranh. Với mục đích
quảng bá hình ảnh, hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, quảng cáo thương mại có
thể có các hiệu ứng cạnh tranh khơng lành mạnh. Bởi vậy, một trong những nhiệm
vụ chính của pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo thương mại là một mặt tạo

điều kiện để thương nhân sử dụng quyền quảng cáo của mình một cách hiệu quả,
nhưng đồng thời ngăn chặn được các quảng cáo xâm phạm đến trật tự, lợi ích
chung của xã hội.

-

Về thơng tin lên nhận thức:

 Giá cả: Khách hàng dần có xu hướng cho rằng giá trị thực tế của hàng hóa, dịch vụ
chính là giá khuyến mại nên đối với họ mức giá thơng thường của hàng hóa, dịch
vụ khi chưa có khuyến mại là cao, không chấp nhận được.
 Chất lượng: Đối với khuyến mại, khách hàng cho rằng hàng hóa, dịch vụ được
khuyến mại có chất lượng thấp hơn hàng hóa, dịch vụ cùng loại của nhà sản xuất
khác, thậm chí là thấp hơn hàng hóa, dịch vụ đó khi chưa có khuyến mại.
-

Về tác động cảm xúc: Quảng cáo, khuyến mại có thể làm cho khách hàng đánh giá
sai về chất lượng hàng hóa, dịch vụ tạo cảm giác thất vọng cho khách hàng khi chất
lượng, giá cả trên thực tế khơng như những gì mà doanh nghiệp hứa hẹn.
5.
Hãy nêu và phân tích đặc điểm của tranh chấp thương mại và
nêu khái quát 4 hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.

5.1 Khái niệm tranh chấp thương mại:
Điều 3 LTM 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.”
Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại của các thương
nhân được gọi là tranh chấp thương mại. Là một hiện tượng kinh tế - xã hội tất



yếu xuất hiện trong điều kiện kinh tế thị trường, hiểu một cách khái quát, tranh
chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa
vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Dưới tác
động của quy luật cạnh tranh và sự tự do hóa thương mại, tranh chấp thương mại
có xu hướng ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loai, phức tạp về nội dung.
5.2 Đặc điểm.
Thứ nhất, về chủ thể, chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là
thương nhân. Quan hệ thương mại có thể được thiết lập giữa các thương nhân với
nhau hoặc giữa thương nhân với bên không phải là thương nhân. Một tranh chấp
được coi là tranh chấp thương mại khi có ít nhất một bên là thương nhân. Ngồi ra
cũng có một số trường hợp, các cá nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của
tranh chấp thương mại: tranh chấp giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp
giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp
nhất, giải thể, chia, tách…công ty;
Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp
đồng hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại
phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên
cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát
sinh tranh chấp.
Thứ ba, về nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột về
quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các quan hệ
thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp thương
liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên.
5.3 Khái quát 4 hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
5.3.1 Hình thức thương lượng (khoản 1 Điều 317 LTM 2005)
Thương lượng được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các
bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết những bất đồng
phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba; q trình thương lượng
không chịu sự ràng buộc của các nguyên tắc pháp lý; việc thực thi kết quả

thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà
khơng có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực thi đối với thỏa thuận của
các bên trong quá trình thương lượng.
Quá trình thương lượng để giải quyết tranh chấp thương mại có thể được
thực hiện bằng nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp, gián tiếp hoặc kết hợp
cả hai. Việc lựa chọn cách thức thương lượng nào phụ thuộc vào điều kiện, hoàn
cảnh của các bên.
5.3.2 Hình thức hịa giải (khoản 2 Điều 317 LTM 2005)
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên
thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm
kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Phương thức hòa giải khác thương lượng ở chỗ có sự tham gia của nhân
tố trung gian. Người trung gian này khơng có vai trị quyết định trong việc giải
quyết tranh chấp mà chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ cho các bên trong việc tìm ra


giải pháp tốt nhất để giải quyết tranh chấp, còn việc giải quyết tranh chấp vẫn là
do các bên quyết định. Hịa giải cũng khơng chịu sự chi phối của bất kỳ một thủ
tục tố tụng pháp lý nào mà do các bên tranh chấp tự quyết định. Kết quả của q
trình hịa giải thành cũng chỉ là sự thỏa thuận của các bên có tranh chấp và việc
thực hiện thỏa thuận này cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các
bên mà khơng có bất kỳ một quyết định pháp lý nào.
5.3.3 Hình thức giải quyết tại Tòa án (khoản 3 Điều 317 LTM 2005)
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ
và bản án hay quyết định của tòa án về vụ tranh chấp nếu khơng có sự tự nguyện
tn thủ sẽ được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.Việc
giải quyết tranh chấp thương mại tại tịa án khơng những phải tuân thủ các quy
định về thẩm quyền khá rắc rối mà còn phải tuân theo một thủ tục rất nghiêm
ngặt của luật tố tụng. Việc giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại

tòa án bao gồm nhiều quy định khác nhau. Khi có tranh chấp, người có quyền và
lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nếu muốn tịa án bảo vệ quyền và lợi ích cho
mình thì phải gửi đơn kiện đến đúng cấp tịa án có thẩm quyền. Tịa án sẽ xem
xét vụ việc và xét xử theo thủ tục sơ thẩm và ra bản án sơ thẩm. Nếu các bên
không đồng ý với bản án sơ thẩm thì có quyền kháng cáo u cầu tòa án cấp trên
xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Việc giải quyết tại tịa án cịn có thể được xem
xét lại theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm. Việc thi hành án có tính chất
cưỡng chế nếu các bên khơng tự nguyện thi hành.
5.3.4 Hình thức giải quyết tại Trọng tài (khoản 3 Điều 317 LTM 2005)
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi
chính phủ do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp thương
mại. Trọng tài chính là bên trung gian thứ ba được các bên tranh chấp chọn ra để
giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo
quyền tự định đoạt của các bên. Cũng giống như thương lượng và hòa giải,
phương thức trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự
nguyện. Để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết các bên phải có thoả thuận
trọng tài. Sau khi xem xét sự việc, trọng tài có thể đưa ra phán quyết có giá trị
cưỡng chế thi hành đối với các bên. Nhằm khuyến khích các bên sử dụng Trọng
tài trọng giải quyết các tranh chấp thương mại và các tranh chấp khác, nhà nước
đã ban hành một đạo luật mới về trọng tài thương mại - Luật Trọng tài thương
mại để thay thế Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 trên cơ sở kế thừa những
chế định tiến bộ, phù hợp kết hợp với những quy định mới, hoàn chỉnh hơn.
6.
Hãy nêu và phân tích các vấn đề pháp lý cơ bản của việc giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại (chủ thể, đại diện, đề nghị giao
kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thời điểm giao kết, nội
dung cơ bản cần thỏa thuận
Các vấn đề pháp lý cơ bản của việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong
thương mại:
6.1 Chủ thể

Hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập giữa


(i)

các chủ thể là thương nhân hoặc giữa

(ii)

thương nhân với các chủ thể khác có nhu cầu về hàng hóa khi các chủ thể
đó chọn áp dụng LTM 2005 các chủ thể này là một bên trong giao dịch
với thương nhân, thực hiện hoạt động mua bán không nhằm mục đích
sinh lợi trên lãnh thổ nước Việt Nam và chọn áp dụng LTM 2005 để điều
chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa của các bên.

6.2 Đại diện
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể do bên đại diện giao kết (đại diện
theo pháp luật hoặc theo ủy quyền) - đại diện đúng thẩm quyền. Giao kết hợp
đồng không đúng thẩm quyền không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
bên trừ trường hợp người đại diện hợp pháp của bên được đại diện chấp nhận.
6.3 Đề nghị giao kết hợp đồng
Trên cơ sở quy định của BLDS 2015, có thể hiểu đề nghị giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề
nghị này của bên để nghị đi với bên đã được xác định cụ thể. Đề nghị giao kết hợp
đồng có thể được thực hiện một cách trực tiếp (như bằng lời nói) hoặc được thực hiện
bằng hình thức gián tiếp (như thơng qua thư, điện tín). Đề nghị giao kết hợp đồng mua
bán phải được gửi đến bên đã được xác định cụ thể, vì vậy mà thơng báo về đề nghị
giao kết hợp đồng với tính chất là những chào hàng hoặc những đề nghị mua hàng
không được gửi đến bên đã được xác định cụ thể thì không phải là đề nghị giao kết hợp
đồng.

Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực với ý nghĩa là thời điểm bắt
đầu xác định sự ràng buộc của bên đề nghị với đề nghị của mình do bên đề nghị ấn định
hoặc trong trường hợp bên để nghị khơng ấn định thì thời điểm này bắt đầu từ khi bên
được đề nghị nhận được đề nghị đó. Bên được đề nghị được coi là đã nhận được đề
nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa khi i) đề nghị được chuyển đến nơi cư trú
hoặc trụ sở của bên được đề nghị tùy thuộc vào loại chủ thể được đề nghị; (ii) đề nghị
được nhập vào hệ thống thơng tin chính thức của bên được để nghị (trong trường hợp
thông điệp dữ liệu); (iii) bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông
qua các phương thức khác.
Trong đề nghị giao kết hợp đồng, bên đề nghị có thể ấn định thời hạn trả lời và
việc ấn định thời hạn này cũng đồng thời ràng buộc trách nhiệm của bên đề nghị giao
kết hợp đồng trong thời hạn đó. Theo đó, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với bên
thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên
được đề nghị mà khơng được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng, tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể theo quy định
của pháp luật, có quyền thay đổi, rút lại hoặc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng. Theo
đó, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đối, rút lại để nghị giao kết hợp đống
trơng các trường hợp sau: i) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi
hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; ii) Điều kiện
thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc
được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Trong trường hợp bên đề
nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị đó đã nêu rõ quyền này trong
đề nghị thì phải thơng báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi


bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng không còn bị rằng buộc trách nhiệm với bên
được đề nghị khi đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau: (i) bên
nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận; (ii) hết thời hạn trả lời chấp nhận; (iii) khi

thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; (iv) khi thơng bảo về việc
hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; (v) theo thỏa thuận của bên để nghị và bên nhận được đề
nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
6.3 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Theo quy định tại Điều 393 BLDS 2015, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là
sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Khi
bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi
đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới. (Điều 392 BLDS 2015).
Theo quy định tại Điều 394 BLDS 2005, thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng được xác định như sau: (i) khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả
lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị
giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được
coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp
đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách
quan này thì thơng báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp
bên đề nghị trả lời ngay khơng đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị; (ii) khi
các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua
phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc khơng chấp
nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời. Bên được đề nghị giao
kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo về
việc rút lại này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng (Điều 397 BLDS 2005).
6.3 Thời điểm giao kết hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết vào thời điểm xác nhận sự thống
nhất ý chí của các bên. Thời điểm này khác nhau tùy thuộc vào hình thức giao kết hợp
đồng. Theo quy định tại Điều 400 BLDS 2015, thời điểm giao kết hợp đồng được xác
định như sau: (i) hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp
nhận giao kết, (ii) trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao
kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng
của thời hạn đó; (iii) thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã

thỏa thuận về nội dung của hợp đồng; (iii) thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là
thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể
hiện trên văn bản. Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập
bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội
dung của hợp đồng.
7.
Hãy nêu khái niệm và đặc điểm của mua bán hàng hóa trong
thương mại. Phân biệt quan hệ mua bán hàng hóa trong thương mại với quan
hệ hàng đổi hàng, quan hệ tặng cho hàng hóa, quan hệ cho thuê hàng hóa.
7.1 Khái niệm mua bán hàng hóa trong thương mại


Theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại 2005, mua bán hàng hoá là hoạt
động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa
cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng
và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.
7.2 Đặc điểm của mua bán hàng hóa trong thương mại
a. Hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng hóa
Theo LTM 2005, hàng hóa bao gồm
(i)

tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;

(ii)

những vật gắn liền với đất đai.

Theo quy định của pháp luật, động sản là những tài sản không phải là bất động sản;
còn bất động sản là các tài sản bao gồm đất đai; nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất
đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, cơng trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền

với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định. Như vậy, LTM 2005 chỉ điều chỉnh các
hợp đồng mua bán có đối tượng hàng hóa là (i) động sản đã tồn tại vào thời điểm xác lập
hợp đồng hoặc sẽ hình thành trong tương lai và (ii) những vật gắn liền với đất đai (mà
không bao gồm đất đai).
Theo cách hiểu này, quyền sử dụng đất là đối tượng trong các giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thì khơng phải là hàng hóa theo quy định của LTM 2005 nhưng
nhà, cơng trình xây dựng tồn tại trên đất lại là hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
này.
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải khơng thuộc danh mục
hàng hóa cấm kinh doanh; trường hợp hàng hóa thuộc danh mục hạn chế kinh doanh hoặc
kinh doanh có điều kiện thì để có thể lưu thơng hợp pháp phải đáp ứng các điều kiện này
theo quy định của pháp luật.
b. Chủ thể mua bán hàng hóa
Hoạt động mua bán được thực hiện giữa:
(i)

các chủ thể là thương nhân hoặc giữa

(ii)

thương nhân với các chủ thể khác có nhu cầu về hàng hóa khi các chủ thể đó
chọn áp dụng LTM 2005 các chủ thể này là một bên trong giao dịch với
thương nhân, thực hiện hoạt động mua bán khơng nhằm mục đích sinh lợi
trên lãnh thổ nước Việt Nam và chọn áp dụng LTM 2005 để điều chỉnh quan
hệ hợp đồng mua bán hàng hóa của các bên

c. Hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa
Hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa là hợp đồng mua bán hàng
hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa chính là sự thể hiện thỏa thuận giữa các bên về
quan hệ mua bán hàng hóa và là cơ sở pháp lý cho các bên để xác định các quyền và

nghĩa vụ của mình trong hoạt động.
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
được xác lập bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, đối với những loại hợp đồng mà pháp
luật quy định phải được giao kết bằng văn bản thì phải tn theo quy định đó.


7.3 Phân biệt quan hệ mua bán hàng hóa trong thương mại với quan hệ hàng đổi
hàng, quan hệ tặng cho hàng hóa, quan hệ cho thuê hàng hóa.
Mua bán hàng
hóa
Quan hệ

Là hoạt động
thương mại.

Hàng đổi hàng
Là giao dịch dân
sự.

Tặng cho hàng
hóa

Cho thuê hàng
hóa

Là giao dịch dân
sự.

Có thể là hoạt
động thương

mại hoặc giao
dịch dân sự

Chủ thể

Chủ yếu là các
thương nhân với
nhau, gồm: bên
mua & bên bán.

Là chủ thể của
quan hệ pháp
luật nói chung,
gồm: 2 bên trao
đổi cho nhau.

Là chủ thể của
quan hệ pháp luật
nói chung, gồm:
bên tặng & bên
đuợc tặng.

Nếu là hoạt
động thương
mại thì bên thuê
phải là thương
nhân, gồm: bên
thuê & bên cho
thuê.


Đối
tượng

Là hàng hoá quy
định tại khoản 2
Điều 3 LTM
2005.

Tài sản theo quy
định của BLDS.

Tài sản theo quy
định của BLDS.

Là hàng hoá quy
định tại khoản 2
Điều 3 LTM
2005.

Hai bên chuyển
giao hàng hóa &
quyền sở hữu
cho nhau.

Khơng chuyển
quyền sở hữu
Bên tặng chuyển
mà người thuê
quyền sở hữu cho
chỉ có quyền sử

bên được tặng;
dụng trong một
bên được tặng
thời gian nhất
khơng có nghĩa
định theo thoả
vụ gì với bên
thuận và trả tiền
tặng.
thuê cho bên cho
thuê.

Bên bán chuyển
hàng hóa, quyền
sở hữu cho bên
mua và nhận
thanh tốn; bên
mua nhận quyền
Chuyển sở hữu hàng hóa
quyền sở và thanh tốn
hữu
cho bên bán. Kể
từ thời điểm giao
hàng thì quyền
sở hữu hàng hóa
được chuyển từ
người bán sang
nguời mua.
Mục
đích


Kinh doanh thu
lợi nhuận.

Xuất phát từ ý chí Kinh doanh thu
Đổi hàng này lấy
của 1 bên chủ thể lợi nhuận.
hàng kia, phục
tặng cho vì nhiều
vụ cho nhu cầu
mục đích khác
trong cuộc sống.
nhau.

8.
Hãy phân tích các điều kiện kinh doanh dịch vụ giám định thương
mại, quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương
mại.
8.1 Điều kiện kinh doanh dịch vụ giám định thương mại được quy định tại Điều 256,
Điều 257 Luật Thương mại 2005, theo đó


Thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại phải có đủ các điều
kiện sau đây:
-

Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật. Các thương nhân
khác không phải là doanh nghiệp (như: tổ hợp tác, hộ kinh doanh cá thể) sẽ
không được kinh doanh dịch vụ giám định hàng hóa.


-

Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
dịch vụ giám định thương mại.

-

Có giám định viên đủ tiêu chuẩn như: (i) có trình độ đại học hoặc cao đẳng phù
hợp với yêu cầu của lĩnh vực giám định; ii) Có chứng chỉ chun mơn về lĩnh
vực giám định trong trường hợp pháp luật quy định phải có chứng chỉ chun
mơn; iii) có ít nhất ba năm cơng tác trong lĩnh vực giám định hàng hoá, dịch vụ.
Căn cứ vào các tiêu chuẩn trên, giám đốc doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
giám định công nhận giám định viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
quyết định của mình.

-

Có khả năng thực hiện quy trình, phương pháp giám định hàng hoá, dịch vụ
theo quy định của pháp luật, tiêu chuẩn quốc tế hoặc đã được các nước áp dụng
một cách phổ biến trong giám định hàng hoá, dịch vụ đó.

Như vậy, kinh doanh dịch vụ giám định là loại hình kinh doanh có điều kiện,
một thương nhân muốn hoạt động kinh doanh dịch vụ giám định phải được Sở Kế
hoạch Đầu tư của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp giấy phép. Thương
nhân là người nước ngoài chỉ được thực hiện dịch vụ giám định hàng hoá tại Việt
Nam hoặc được thành lập chi nhánh tại Việt Nam khi được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép, phù hợp với Luật Thương mại và Luật Đầu tư nước ngồi. Các
thương nhân có quyền cung cấp dịch vụ giám định cho khách hàng theo đúng quy
định trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp.

8.2 Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 263 LTM 2005, thương nhân kinh doanh dịch
vụ giám định có các quyên như:
(i)

Yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các tài liệu cần
thiết để thực hiện việc giám định theo nội dung đã thỏa thuận;

(ii)

Nhận thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác.

Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 263 LTM 2005 thì thương nhân
kinh doanh dịch vụ giám định có các nghĩa vụ như:
(i)

Chấp hành các tiêu chuẩn và các quy định khác của pháp luật có liên
quan đến dịch vụ giám định;

(ii)

Bảo đảm việc giám định hàng hóa trung thực, độc lập, khách quan, kịp
thời, đúng quy trình, phương pháp giám định;

(iii)

Cấp chứng thư giám định và chịu trách nhiệm về nội dung của chứng thư
giám định;

(iv)


Chịu trách nhiệm vật chất trong trường hợp giám định sai.


Tuy nhiên để có quyền yêu cầu bên giám định chịu trách nhiệm về kết quả giám
định trong trường hợp này, khách hàng có nghĩa vụ chứng minh kết quả giám định sai
và lỗi của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định.
9. Phân biệt pháp nhân và thể nhân, trách nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vô hạn:
9.1 Phân biệt pháp nhân và thể nhân
Khái niệm pháp nhân được quy định tại Điều 74 Bộ luật dân sự 2015, pháp luật dân
sự Việt Nam không sử dụng khái niệm “thể nhân”. Trong khoa học pháp lý, có khái
niệm “thể nhân” thường được dùng đồng nghĩa với khái niệm cá nhân, nhưng cũng
có lúc được sử dụng khơng đồng nghĩa.
Thể nhân

Pháp nhân

- Tư cách thể nhân là đương nhân là đương - Tư cách pháp nhân:
nhiên và vô điều kiện:
+ Do pháp luật cấp như giấy chứng nhận
+ Mọi người đều là thể nhân từ khi sinh
đăng ký kinh doanh.
ra đến chết
+ Giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp thì
+ Một người đã chết (mất tích) nếu sau
đó xuất hiện thì Tịa án phải phục hồi tất
cả quyền cơ bản của người đó
- Thể nhân có 3 loại:
+ Thể nhân có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ

+ Thể nhân mất năng lực hành vi dân sự,
hạn chế năng lực hành vi dân sự
+ Thể nhân có năng lực hành vi dân sự
chưa đầy đủ
- Thể nhân khơng có tính chuyên nghiệp:
có sự thay đổi nghề một cách linh hoạt.
- Tư cách pháp lý bình đẳng với các thể
nhân khác, có quyền và nghĩa vụ như
nhau.
- Trách nhiệm hình sự: phải chịu trách
nhiệm hình sự khi có hành vi phạm tội
theo quy định của BLHS.

tư cách pháp nhân chấm dứt
- Điều kiện cơ bản để tổ chức có tư cách
pháp nhân:
+ Được thành lập hợp pháp;
+ Cơ cấu tổ chức phải có cơ quan điều
hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn
của cơ quan điều hành của pháp nhân
được quy định trong điều lệ của pháp
nhân hoặc trong quyết định thành lập
pháp nhân.
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp
nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản của mình;
+ Nhân danh mình tham gia quan hệ
pháp luật một cách độc lập.
- Pháp nhân mang tính chuyên nghiệp, có
ngành nghề cụ thể, phải đăng ký rõ ràng.

- Tư cách pháp lý bất bình đẳng giữa 2
loại:
+ Pháp nhân hoạt động vì cơng ích
+ Pháp nhân hoạt động vì lợi ích của
mình.
- Trách nhiệm hình sự: chỉ có pháp nhân
thương mại có thể chịu trách nhiệm hình
sự và chỉ có các tội về tội xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế.


9.1 Phân biệt trách nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vơ hạn
Tiêu chí

Khái qt
chung

Trách nhiệm vơ hạn

Trách nhiệm hữu hạn

Là chế độ mà trong đó: doanh
nghiệp chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của chủ sở hữu đối với kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Loại doanh nghiệp này nếu kinh
doanh bị thua lỗ dẫn đến phá sản
doanh nghiệp thì khơng những phải
chịu trách nhiệm tài sản về các
khoản nợ trong phạm vi vốn, tài sản

của doanh nghiệp mà còn là toàn bộ
tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp,
kể cả các tài sản không đưa vào kinh
doanh. Điều này bắt nguồn từ sự
không tách bạch giữa tài sản của chủ
sở hữu doanh nghiệp với tài sản của
doanh nghiệp.

Là chế độ mà trong đó tồn tại giới
hạn về tài sản giữa một bên là tài sản
đem ra kinh doanh và một bên là tài
sản dân sự. Tức là chủ sở hữu doanh
nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ trong phạm vi vốn, tài sản
của doanh nghiệp mình (chịu trách
nhiệm trong phạm vi vốn điều lệ
đăng kí với cơ quan nhà nước), mà
khơng có nghĩa vụ đưa tài sản của
mình (tài sản dân sự) để trả nợ cho
doanh nghiệp trong trường hợp
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ
dẫn đến tình trạng phá sản.

Các loại hình áp dụng chế độ chịu
trách nhiệm vơ hạn gồm: chủ doanh
nghiệp tư nhân, những thành viên
hợp danh của công ty hợp danh và
chủ hộ kinh doanh cá thể.

Vốn


Cách thức
tổ chức
quản lý

Phá sản,
giải thể

Xuất phát chủ yếu từ tài sản của một
cá nhân (gọi là vốn đầu tư của chủ
doanh nghiệp) hoặc vốn chung của
một hộ gia đình. Người bỏ vốn sẽ là
chủ sở hữu doanh nghiệp và khơng
có sự phân biệt giữa tài sản của chủ
sở hữu doanh nghiệp và tài sản của
doanh nghiệp.

Các loại hình hình áp dụng chế độ
này gồm: công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần.

Vốn do các thành viên, cổ đông
cùng đóng góp gọi là vốn điều lệ, có
sự phân định rõ ràng tài sản của
doanh nghiệp và tài sản của các
thành viên, cổ đông doanh nghiệp.

Chủ sở hữu doanh nghiệp có tồn
quyền quản lý đối với doanh nghiệp,
quản trị và điều hành doanh nghiệp

được dễ dàng hơn

Chủ sở hữu doanh nghiệp không thể
chỉ dựa trên ý kiến bản thân để quản
lý doanh nghiệp mà phải thông qua
ý kiến của những thành viên khác.

Khi phá sản, giải thể, chủ doanh
nghiệp bắt buộc phải thanh toán hết
tất cả các khoản nợ cũng như các
nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp,
nếu tài sản của doanh nghiệp khơng
đủ để thanh tốn nợ hết thì chủ
doanh nghiệp phải sử dụng “tiền túi
– tài sản dân sự” của mình ra để trả
nợ.

Chủ doanh nghiệp chỉ phải chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn điều lệ của
doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh
với nhà nước.(đó là giới hạn khả
năng trả nợ của doanh nghiệp).


10. So sánh công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty cổ
phần
10.1 Điểm giống nhau
-


Đều là doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp

-

Đều có tư cách pháp nhân;

-

Có nhiều chủ sở hữu;

-

Các thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ
tài chính của cơng ty;

-

Số vốn góp không đủ và không đúng hạn được coi là khoản nợ đối với cơng
ty.

10.2 Điểm khác nhau
Tiêu chí

Số lượng

Cơng ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên
(Điều 47 - Điều 72 Luật
Doanh nghiệp 2014)


Công ty cổ phần
(Điều 110 - Điều 171 Luật Doanh
nghiệp 2014)

Tối thiểu là 02 thành viên và
tối đa là 50 thành viên.

Tối thiểu là 03 thành viên và không
giới hạn tối đa.

Cấu trúc vốn

Vốn điều lệ không chia
thành các phần bằng nhau.

Vốn điều lệ chia thành các phần
bằng nhau, được ghi nhận bằng cổ
phiếu.

Góp vốn

Góp đủ và đúng loại tài sản
như đã cam kết trong thời
hạn 90 ngày, kể từ ngày được
cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp. Chỉ được
góp bằng tài sản khác nếu
được sự tán thành của đa số
thành viên cịn lại.


Góp đủ số vốn đã đăng ký góp trong
thời hạn 90 ngày kể từ ngày công ty
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Các cổ đông sáng lập
phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất
20% tổng số cổ phần phổ thơng
được quyền chào bán tại thời điểm
đăng ký doanh nghiệp.

Huy động
vốn

Không được phát hành cổ
phiếu.

Được phát hành cổ phiếu.

Chuyển nhượng phải có điều
kiện (ưu tiên chuyển nhượng
cho thành viên công ty).

Dễ dàng, tự do chuyển nhượng (trừ
trong 03 năm đầu, cổ đông sáng lập
chỉ được chuyển nhượng cổ phần
cho cổ đông sáng lập khác và cho
người khác không phải là cổ đông
sáng lập khi được sự chấp thuận của
Đại hội đồng cổ đơng)


Có một mơ hình:

Có hai mơ hình:

Hội đồng thành viên, Chủ
tịch Hội đồng thành viên,
Giám đốc hoặc Tổng giám

a) Đại hội đồng cổ đơng, Hội đồng
quản trị, Ban kiểm sốt, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc (cơng ty có

thành viên

Chuyển
nhượng vốn

Cơ cấu tổ
chức


Công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên

Tiêu chí

Cơng ty cổ phần
(Điều 110 - Điều 171 Luật Doanh
nghiệp 2014)


(Điều 47 - Điều 72 Luật
Doanh nghiệp 2014)

đốc, Ban kiểm sốt (cơng ty
có ít hơn 11 thành viên
khơng bắt buộc thành lập
Ban kiểm sốt)

dưới 11 cổ đơng và các cổ đơng là
tổ chức giữ dưới 50% tổng số cổ
phần thì khơng bắt buộc phải có
Ban kiểm sốt);
b) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc (ít nhất 20% số thành viên Hội
đồng quản trị là thành viên độc lập
và có Ban kiểm tốn nội bộ trực
thuộc Hội đồng quản trị).

11. So sánh công ty TNHH 1 thành viên và doanh nghiệp tư nhân
11.1 Điểm giống nhau
-

Đều là doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp

-

Có một chủ sở hữu.

-


Khơng có quyền phát hành chứng khốn

11.2 Điểm khác nhau
Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên

Tiêu chí
Chủ sở hữu

Tổ chức, cá nhân

Doanh nghiệp tư nhân
Cá nhân
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành
lập một DNTN.

Điều khoản
ràng buộc

Vốn góp

Trách nhiệm

Khơng có điều khoản ràng
buộc đối với chủ sở hữu công
ty TNHH một thành viên.

Chủ DNTN không được đồng
thời là chủ hộ kinh doanh,

thành viên công ty hợp danh.

-

DNTN khơng được quyền góp
vốn thành lập hoặc mua cổ
phần, phần vốn góp trong cơng
ty hợp danh, cơng ty TNHH
hoặc cơng ty cổ phần.

-

Công ty TNHH một thành
viên được quyền thay đổi
vốn điều lệ.

-

-

Tài sản của chủ sở hữu và
tài sản của cơng ty TNHH
một thành viên tách biệt.

Chủ DNTN có quyền tăng hoặc
giảm vốn đầu tư của mình tùy
vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.

-


Không tách biệt tài sản của chủ
DNTN với tài sản của DNTN.

Chịu trách nhiệm hữu hạn trong Chịu trách nhiệm vô hạn.


phạm vi vốn góp của chủ sở hữu
với cơng ty TNHH một thành
viên.
Tư cách pháp Có tư cách pháp nhân kể từ
nhân
ngày được cấp Giấy chứng nhận Khơng có tư cách pháp nhân
đăng ký doanh nghiệp.
Có thể lựa chọn 01 trong 02
mơ hình sau:
Cơ cấu tổ chức

-

-

Quyền

nghĩa vụ của
chủ sở hữu

Chủ tịch công ty, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc
và Kiểm soát viên;


Chủ sở hữu tự quản lý hoặc thuê
người quản lý.

Hội đồng thành viên,
Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc và Kiểm soát viên.

Được quy định cụ thể trong
Luật Doanh nghiệp 2014

Chủ DNTN có tồn quyền quyết
định đối với tất cả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, việc sử
dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế
và thực hiện các nghĩa vụ tài chính
khác theo quy định pháp luật.Phải
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.

12. So sánh giữa phá sản với giải thể doanh nghiệp
 Điểm giống nhau: Phá sản và giải thể đều dẫn đến sự chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp
 Điểm khác nhau:
Tiêu chí

Phá sản doanh nghiệp

Giải thể doanh nghiệp


Lý do dẫn đến
phá sản, giải
thể

Do doanh nghiệp bị mất khả
năng thanh toán

Lý do dẫn đến giải thể rộng hơn
so với phá sản. Một doanh
nghiệp có thể bị giải thể là do
kết thúc thời hạn hoạt động mà
khơng được gia hạn, cơng ty
khơng có đủ số lượng thành viên
tối thiểu trong thời hạn sáu
tháng liên tục, do bị thu hồi giấy
phép kinh doanh hay do quyết
định của chủ sở hữu doanh
nghiệp

Thủ tục
quyết

giải

Thủ tục giải quyết một vụ phá
sản là thủ tục tư pháp, do Tồ
án có thẩm quyền giải quyết

Thủ tục giải thể doanh nghiệp là
thủ tục hành chính do chủ sở

hữu doanh nghiệp tiến hành

Thời gian giải

Thời gian giải quyết một vụ

Thời gian tiến hành thủ tục giải


quyết

phá sản thường kéo dài và tốn
kém hơn so với việc giải thể
doanh nghiệp

thể thường ngắn hơn và ít tốn
kém hơn so với phá sản doanh
nghiệp

thái độ của nhà
nước đối với
người quản lý,
điều
hành
doanh nghiệp

Người quản lý, điều hành doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản
thường bị cấm làm công việc
tương tự trong một thời gian

nhất định.

Người quản lý, điều hành doanh
nghiệp bị giải thể không bị cấm
làm công việc tương tự trong
một thời gian nhất định.

13. Nêu và phân tích vai trò, ý nghĩa của Luật phá sản

 Đảm bảo việc địi nợ của các chủ nợ được cơng bằng, trật tự
Mục đích chính của pháp luật về phá sản là thay thế cơ chế xiết nợ theo kiểu “mạnh
ai nấy được” bằng một cơ chế địi nợ tập thể cơng bằng và trật tự. Tài sản của
doanh nghiệp mắc nợ sẽ được tối đa hóa và được đem thanh tốn một cách công
bằng cho các chủ nợ. Như vậy, thông qua pháp luật về phá sản, các chủ nợ sẽ được
tham gia vào quá trình thu hồi và phát mại tài sản của doanh nghiệp để tối đa hóa
tài sản phá sản của doanh nghiệp (đảm bảo tất cả các tài sản của doanh nghiệp đều
được thu hồi và được phát mại với giá cao nhất). Tài sản phá sản này sẽ được đem
phân chia một cách công bằng cho các chủ nợ tránh tình trạng chủ nợ đến địi nợ
trước được hưởng nhiều, chủ nợ đến sau hoặc không có mối quan hệ riêng với con
nợ thì khơng nhận được phần thanh tốn của mình.

 Giải phóng con nợ và tạo cho con nợ có được sự khởi đầu mới
Việc giải quyết phá sản phải giải phóng con nợ khỏi những gánh nặng nợ nần mà
họ không thể trả nợ được và trên cơ sở đó, tạo điều kiện cho họ có được sự khởi
đầu mới. Con nợ chỉ được giải phóng khỏi các khoản nợ khi khơng có hành vi gian
trá trong những nguyên nhân dẫn tới việc phá sản.
Cùng với chế độ TNHH, pháp luật về phá sản tạo niềm tin và sự an toàn cho các
nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Tuy nhiên, Luật Phá sản 2014 không miễn trừ
nghĩa vụ trả nợ cho chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của cơng ty
hợp danh sau khi có tun bố phá sản doanh nghiệp (nghĩa là buộc các con nợ bị

tuyên bố phá sản là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của cơng ty
hợp danh trả các món nợ cịn thiếu sau khi đã bán tồn bộ tài sản hiện có của mình)
được xem là một chế tài q khắt khe và thiếu hợp lý. Quy định tại điều 90 Luật
Phá sản 2004 này không tạo động lực cho các nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp
chịu trách nhiệm vô hạn.
 Bảo vệ quyền lợi của người lao động
Người lao động là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất từ việc phá sản doanh
nghiệp. Họ bị mất việc làm và thậm chí khơng nhận được các khoản lương mà
doanh nghiệp mắc nợ nợ họ. Vì vậy, pháp luật về phá sản phải đảm bảo quyền yêu
cầu tuyên bố phá sản của người lao động, quyền tham gia các hoạt động phục hồi
và thanh lý tài sản cũng như quyền được ưu tiên thanh toán trước các chủ nợ khác.
14. So sánh giữa chế tài phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại:
14.1 Điểm giống nhau:


Đều là chế tài áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng.
* Điểm khác nhau:
Tiêu chí

Phạt vi phạm

Bồi thường thiệt hại

Khái niệm

Bồi thường thiệt hại là việc
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu
bên vi phạm bồi thường
bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi
những tổn thất do hành vi vi

phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa
phạm hợp đồng gây ra cho
thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm.
bên bị vi phạm.

Chức năng

Chế tài phạt vi phạm là một chế tài thỏa
thuận, có chức năng bổ sung thêm quyền
yêu cầu trả tiền phạt của bên bị vi phạm và
tương ứng là nghĩa vụ trả tiền phạt của bên
vi phạm và qua đó giúp tăng cường ý thức
tuân thủ hợp đồng của các bên.

Bồi thường thiệt hại với tư
cách là chế tài trong thương
mại có chức năng bù đắp tổn
thất vật chất cho bên bị vi
phạm, làm cho hành vi vi
phạm hợp đồng trở nên vô
hại về mặt vật chất đối với
bên bị vi phạm.

Thỏa mãn 2 điều kiện sau:
Điều kiện 1: tồn tại thỏa thuận giữa các bên
hợp đồng về việc một bên được yêu cầu bên
kia trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp
đồng. Thỏa thuận này phải tồn tại vào thời
điểm một bên đưa ra yêu cầu phạt vi phạm;
nhưng nó khơng nhất thiết phải tổn tại trước

khi vi phạm xảy ra, mà có thể được các bên
thỏa thuận sau khi vi phạm đã xảy ra.

Điều kiện áp
Điều kiện 2: đã xảy ra hành vi vi phạm mà
dụng
các bên thỏa thuận là điều kiện để áp dụng
chế tài phạt vi phạm. Tuy nhiên, trong thỏa
thuận các bên không nhất thiết phải nêu rõ
loại hành vi hoặc hành vi vi phạm nhất định
nào đó là điều kiện để áp dụng chế tài này.
Mà các bên có thể thỏa thuận rằng, trường
hợp một bên vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào
theo hợp đồng thì bên kia có quyền u cầu
phạt vi phạm.
Mức phạt vi
phạm/ bồi
thường thiệt
hại

 Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

Bồi thường thiệt hại phát
sinh khi có đủ ba yếu tố, đó

(i)


hành vi vi phạm hợp
đồng,

(ii) có thiệt hại thực tế và
(iii) hành vi vi phạm hợp
đồng là nguyên nhân
trực tiếp gây ra thiệt
hại.
Do quy định này không nêu
yếu tố lỗi của chủ thể có
hành vi vi phạm, nên lỗi
không phải là một yếu tố bắt
buộc làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.

Không khống chế mức tối
đa, giá trị bồi thường thiệt
hại bao gồm giá trị tốn thất
thực tế, trực tiếp mà bên bị
vi phạm phải chịu do bên vi
phạm gây ra và khoản lợi
 Trường hợp phạt vi phạm do vô ý giám
trực tiếp mà bên bị vi phạm
định sai. Chế tài phạt vi phạm trong đáng lẽ được hưởng nếu
trường hợp này là chế tài luật định, nghĩa khơng có hành vi vi phạm.
là khách hàng có quyền yêu cầu thương


nhân giám định trả một khoản tiền phạt do

vô ý giám định sai căn cứ quy định tại
Khoản 1 Điều 266 LTM 2005. Mức phạt
vi phạm trong phạm vi tối đa bằng 10 lần
phí thù lao giám định.
 Trong trường hợp pháp luật chuyên
ngành có quy định khác đi về chế tài phạt
vi phạm thì áp đụng quy định của luật
chuyên ngành. Ví đụ: đối với vi phạm hợp
đồng trong hoạt động xây dụng về cơng
trình xây dựng có nguồn vốn nhà nước thì
các bên có thể thỏa thuận phạt vi phạm
hợp đồng và mức phạt vi phạm hợp đồng
trong phạm vi không vượt quá 12% giá trị
hợp đồng bị vi phạm.
15. Nêu các trường hợp được miễn, giảm trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp
đồng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 294 LTM 2005 thì bên vi phạm được miễn
trách nhiệm khi hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra trong một trong bốn trường hợp,
bao gồm: (i) xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; (ii) xảy
ra sự kiện bất khả kháng; (iii) hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên
kia; (iv) hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên khơng thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng.
15.1 Miễn trách nhiệm theo thỏa thuận
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 294 LTM 2005 thì bên vi phạm hợp
đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm
mà các bên đã thỏa thuận. Điều kiện để miễn trách nhiệm theo quy định này là có
thỏa thuận giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm.
Trong trường hợp hợp đồng được giao kết bằng văn bản thì thỏa thuận như
vậy có thể được ghi nhận trong văn bản hợp đồng, hay trong phụ lục hợp đồng với tư

cách là bộ phận không tách rời của hợp đồng. Thỏa thuận như vậy cũng có thể được
ghi nhận trong các văn bản được thiết lập giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp
đồng về việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng.
15.2 Miễn trách nhiệm, kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện hợp đông trong trường
hợp bất khả kháng
Sự kiện bất khả kháng là một căn cứ miễn trách nhiệm đối với vi phạm hợp
đồng. Bên vi phạm được miễn trách nhiệm đối với vi phạm hợp đồng (như không
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng) trong thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng. Việc miễn
trách nhiệm được áp dụng đối với mọi chế tài trong thương mại.
Mặt khác, do xuất phát rằng sự kiện bất khả kháng bao giờ cũng có điểm kết
thúc, nhưng có thể kéo dài làm các bên khơng thể đạt được mục đích hợp đồng, nên
LTM 2005 có các quy định để giải quyết vấn đề này như sau: Theo quy định tại


khoản 1 Điều 296 thì trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo
đài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng: nếu các bên không có thỏa thuận hoặc
khơng thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một
thời gian bằng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để
khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây: a) 05 tháng
đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thỏa thuận
không quá 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng; b) 08 tháng đối với hàng hóa, dịch
vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thỏa thuận trên 12 tháng, kể từ khi
giao kết hợp đồng. Quy định này trước hết để cao tự do hợp đồng, đề cao tính tự chịu
trách nhiệm của các bên bằng cách thừa nhận sự thỏa thuận (sửa đổi hợp đồng) của
các bên để đối phó với sự kiện bất khả kháng, nhưng mặt khác cũng đưa ra quy định
áp dụng cho trường hợp các bên không thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được.
Tuy nhiên, nếu sự kiện bắt khả kháng kéo dài quá thời hạn do các bên thỏa
thuận hoặc luật định thì theo quy định tại khoản 2 Điều 296 các bên có quyển từ chối
thực hiện hợp đồng và khơng bên nào có quyển u cầu bên kia bồi thường thiệt hại.
Từ chối thực hiện hợp đồng ở đây có ý nghĩa như yêu cầu chấm dứt hợp đồng và việc

từ chối hợp đồng làm hợp đồng chấm dứt mà không cần sự đồng ý của bên kia. Quy
định này tính đến trường hợp một bên hoặc cả hai bên đều khơng thể đạt được mục
đích của hợp đồng do sự kiện bất khả kháng kéo dài.
15.3 Miễn trách nhiệm đối với vi phạm do lỗi của bên bị vi phạm
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 294 LTM 2005 thì bên vi phạm hợp
đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp vi phạm do lỗi của bên bị vi phạm.
Căn cứ miễn trách nhiệm này đòi hỏi nguyên nhân của hành vi vi phạm của bên vi
phạm hợp đồng là hành vi có lỗi của bên bị vi phạm. Hành vi đó có thể là hành động
hoặc sự không hành động của bên bị vi phạm. Hành vi đó cũng là hành vi vi phạm
hợp đồng của bên bị vi phạm.
Chẳng hạn, trong hợp đồng mua bán hàng hóa là động sản hình thành trong
tương lai, bên mua (bên bị vi phạm) không thanh toán đúng hạn khoản tiền bằng 30%
giá trị hợp đồng để bên bán (bên vi phạm) mua nguyên vật liệu và dẫn tới việc đình
trệ sản xuất là nguyên nhân của việc giao hàng chậm (hành vi vi phạm của bên bán).
Trong mối quan hệ này, hành vi của bên bị vi phạm phải là hành vi có lỗi.
Như vậy, nếu hành vi của bên bị vi phạm thuộc một trong ba trường hợp miễn
trách nhiệm cịn lại thì hành vi đó khơng bị coi là có lỗi, nên bên vi phạm sẽ không
được miễn trách nhiệm cho hành vi của chính mình.
15.4 Miễn trách nhiệm đối với vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan nhà
nước
Trường hợp miễn trách nhiệm này được bồ sung vào LTM 2005 với tư cách là
một căn cứ miễn trách nhiệm độc lập. Tuy nhiên, xét về bản chất thì đây cũng là
trường hợp miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng. Nhưng với tư cách là một
căn cứ miễn trách nhiệm độc lập bên cạnh trường hợp miễn trách nhiệm do sự kiện
bất khả kháng thì ở đây khơng cần phải xem xét tới tính khách quan, khơng thể lường
trước được và không thể khắc phục được của quyết định của cơ quan nhà nước. Điều
kiện miễn trách này khơng địi hỏi quyết định của cơ quan nhà nước phải là một
quyết định hợp pháp. Nhưng sự tồn tại một quyết định bất hợp pháp của cơ quan nhà
nước mà bất cứ một người có hiểu biết bình thường nào cũng có thể nhận thấy tính



bất hợp pháp của nó thì khơng thể được xem là điều kiện miễn trách. Quyết định của
cơ quan nhà nước là điều kiện miễn trách phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi
phạm phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định và việc tuân thủ
nghĩa vụ đó là nguyên nhân dẫn tới hành vi vi phạm hợp đồng.


×