Sự tích hồ Ba Bể
Vào hồi đó ở xã Nam Mẫu có mở một hội "vô già" cúng
Phật. Mọi người nô nức đi xem. Ai nấy đều lo ăn chay
niệm Phật và làm những việc từ thiện như buông cá, thả
chim v.v... để cầu phúc cho mấy ngày hội. Hôm ấy, xuất
hiện ở đám hội một bà già ăn mày. Người ta không biết mụ
ta từ đâu lại. Bộ dạng thật là gớm ghiếc: những mảnh vải
vá víu của mụ không đủ che tấm thân gầy còm và lở loét.
Mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Đến đâu, mụ cũng thều
thào mấy câu: "Đói lắm các ông các bà ơi!". Rồi cầm cái
rá, mụ giơ ra khắp bốn phía, đầy vẻ cầu khẩn. Nhưng mãi
đến chiều, người đàn bà đó vẫn chả được tí gì. Đến đâu mụ
cũng bị xua đuổi. Đám trẻ tuổi nhất là các cô gái cho mụ là
hủi nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy mụ đâu là họ xô nhau
chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ
ngừng những tiếng "Nam mô Phật" lại và quay ra mắng xả
vào mụ sao dám đi sát vào người. Cuối cùng bọn hương lý
sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan được
trước những trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình
ra khỏi đám hội. Sau khi ra khỏi đám hội, người đàn bà ấy
thất thểu bước vào xóm. Cũng như ở đám hội, vào nhà nào,
mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi.
Mấy nhà giàu có đóng chặt cửa lại và thả chó ra. May sao
đến ngã ba, mụ gặp hai mẹ con bà góa vừa đi chợ về. Thấy
bà lão ăn mày tội nghiệp, người mẹ đưa về nhà lấy cơm
nguội cho ăn. Khuya hôm đó hai mẹ con đang ngủ thì
người đàn bà ấy lại gọi cửa. Mụ xin ngủ nhờ một đêm vì
mọi chỗ, người ta đều cấm cửa không cho vào. Hai mẹ con
vui lòng đón người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải
chiếu ở một cái chõng cho mụ ngả lưng. Còn mẹ con thì
nằm tạm ở một chỗ khác. Người đàn bà vừa nằm là ngủ
liền, tiếng mụ ngáy như sấm. Hai mẹ con nhìn ra thấy cái
chõng sáng rực lên trong bóng tối. Đây không phải là một
mụ ăn mày già yếu lở loét nữa mà là một con giao long
đang cuộn mình lù lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi
thò xuống đất. Người mẹ rụng rời kinh hãi, nhưng vì chỗ ở
của mình cách biệt với làng xóm, không biết kêu cứu ai,
đành trùm chăn kín mít, phó mặc cho may rủi. Nhưng đến
sáng hôm sau, khi người mẹ nhìn ra thì chả thấy giao long
đâu cả. Trên chõng, mụ ăn mày già đã dậy và sắp sửa ra đi.
Trước khi từ biệt, mụ bỗng lên tiếng:
-Chúng nó thờ Phật mà kỳ thực là buôn Phật. Chúng nó
xứng đáng phải chịu trầm luân. Chỉ có hai mẹ con nhà
ngươi là tốt bụng. Hãy cầm lấy gói tro này, nhớ rắc ngay
xung quanh chỗ ở và nội trong đêm hôm nay chớ đi đâu cả.
Hoặc nếu có đi thì đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh.
Người mẹ băn khoăn hỏi thêm:
-Nhưng làm thế nào để cứu mọi người được? Người đàn
bà ấy ngần ngừ hồi lâu rồi lấy từ trong áo một hạt thóc ra
cắn tách đôi vỏ trấu đưa cho hai mẹ con và nói:
-Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp hai mẹ con làm việc thiện.
Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một cái đã không thấy
người đàn bà hủi đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn
rồi đi kể chuyện cho mấy người gần đó biết. Họ nghe nói
chỉ mỉm cười cho là một chuyện bâng quơ. Quả nhiên tối
hôm đó giữa đám hội náo nhiệt, lúc thiện nam tín nữ đang
tấp nập lễ bái thì bất ngờ có một dòng nước từ dưới đất
phun lên ngay chính giữa đàn tràng. Nước càng phun càng
mạnh làm lở dần đất ở xung quanh. Người ta ngơ ngác
không hiểu thế nào, tưởng là phép Phật hiển hiện nên càng
vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc một mạnh nuốt
hết người và vật. Chỉ trong nháy mắt đã ngập bằng một cái
ao. Thấy thế mọi người hoảng hốt bỏ cả lễ bái đua nhau
chạy. Nhưng họ không thể chạy được nữa. ở dưới chân họ
đất nứt nẻ, rung động hất họ ngã xuống. Bỗng chốc một
tiếng ầm dữ dội phát ra, đất đá, nhà cửa, người vật đều
chìm nghỉm, nước tung tóe mù trời. Một con giao long to
lớn từ mặt nước nhô lên bay vòng quanh xã Nam Mẫu.
Trong khi đó thì nền nhà, chuồng lợn, chuồng gà của mẹ
con người đàn bà từ thiện kia mỗi lúc một nâng cao hơn
mực nước. Đau xót trước cảnh nước lụt, hai mẹ con đem
hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, họ bỗng thấy hai
mảnh vỏ biến ngay thành hai chiếc thuyền. Thế rồi, mặc
gió mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi cố sức vớt những người
bị nạn. Chỗ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba Bể ở Bắc Cạn,
còn cái nền nhà ấy tức là một hòn đảo nhỏ ở giữa hồ mà
người địa phương thường gọi là Pò-già-mải.