Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Top 4 bài cảm nhận về bài thơ Đất Nước hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.55 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý cảm nhận Đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm</b>


Để cảm nhận Đất nước về tư tưởng nội dung cũng như giá trị thẩm mỹ và làm đẹp,
các em cần nắm được dàn ý rõ ràng cảm nhận bài thơ Đất nước như sau.


<b>Mở bài cảm nhận Đất nước</b>


Giới thiệu ngắn gọn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích Đất nước.
Dẫn dắt đến những cảm nhận đầy mới mẻ về tư tưởng của bài thơ.
<b>Thân bài cảm nhận Đất nước</b>


Khái quát hoàn cảnh sáng tác và nội dung của đoạn trích.


Đất Nước gắn liền với không gian tồn tại rộng lớn và giàu đẹp của dân tộc bản địa.
Đất nước là những gì bình dị, gần gũi và thân thường với cuộc sống hàng ngày.
Hình tượng Đất nước gắn với ý thức trách nhiệm của mỗi người.


Tư tưởng Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao và thần thoại cổ xưa.
<b>Kết bài cảm nhận Đất nước</b>


Đánh giá và nhận định và cảm nhận Đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Trình bày suy nghĩ và trách nhiệm của chính bản thân mình khi cảm nhận Đất nước.
Với giọng điệu thơ sâu lắng, đậm màu suy tư cùng với những giãi bày bộc bạch, lại
vừa như tự nói với chính mình, Nguyễn Khoa Điềm đã tạc lên một hình tượng Đất
nước kì vĩ thiêng liêng mà quá đỗi thân thương và bình dị. Đó là Đất nước của nhân
dân, Đất nước của ca dao và thần thoại cổ xưa. Với những lý lẽ và dẫn chứng đầy
thuyết phục, nhà thơ đã khẳng định được vị trí và vai trị to lớn của đất nước trong
cuộc sống của mỗi con người. Trang thơ khép lại nhưng trong sâu thẳm mỗi tất cả
chúng ta là những xúc cảm bổi hổi và xao xuyến nơi sâu thẳm đáy lòng.


<b>2. Cảm nhận về bài thơ Đất Nước </b>



Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn
Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng
nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời
kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân
thơng qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân
dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và
hình thức chương V của bản trường ca này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn
đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khơ khan, trừu tượng mà
bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sơi nổi tha thiết của mình. Thơng qua những vần
thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn
thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ
trong những năm chống Mĩ.


Mượn hình thức trị chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu
chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của
cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư
tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện:
trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn
hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện,
thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là
linh hồn của cả bài thơ.


Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi khơng
khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các
chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong
tục tập qn đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những
chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì


diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó khơng đơn
thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn
học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài
thơ - đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật
của bài thơ.


Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định
nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thơng qua những hình tượng cụ thể,
sinh động, đầy gợi cảm.


Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình
lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái
cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.


Đất nước khơng phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hơm nay


Đều có một phần Đất Nước


Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận
mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà
vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước
khơng phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước mn đời.


Đất nước cịn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng


ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối
quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử,
truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc
Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca
dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương
diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc
sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền
với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:


Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,


Yêu nhau và sinh con đẻ cái,


Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,


Cũng biết cúi đầu nhớ - ngày giỗ Tổ.


Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất
Nước.


Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh
lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hịn Trống
Mái, những núi Bút non Nghiên khơng cịn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý
nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn
nhận như là những đóng góp của nhân dân, hố thân của những con người khơng tên,
khơng tuổi: “Những người vợ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu,


Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trị nghèo góp cho Đất
Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ
Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của
Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính
nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi
ngọn núi, dịng sơng, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ
thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:


Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Ơi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hố núi sơng ta.


Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch
sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ khơng ngợi ca các triều đại, cũng khơng nói
tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con
người vơ đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những
con người bình dị, vơ danh đó:


Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.


Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau
những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ.
Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm
bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:


Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,


Đất Nước của ca dao, thần thoại.


Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và
sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là
chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo
nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm
xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế
hệ mình về đất nước.


<b>3. Cảm nhận 9 câu đầu bài thơ Đất Nước - mẫu 1</b>
<b>I. MỞ BÀI</b>


Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Ông từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thơng tin nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu
biểu: Đất ngoại ô, Trường ca Mặt đường khát vọng. Đất nước là bài thơ được trích từ
chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị
Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu
hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn
thơ để lại dấu ấn về Đất Nước thân thương, bình dị trong trái tim mỗi con người:
<b>II. THÂN BÀI</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nước tự nhiên, bình dị mà khơng kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước
trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong
tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang
đậm dấu ấn con người Việt.


Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta,
từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập qn quen thuộc
(tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng
ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành


cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hàng ngày của con người.


2. Nội dung cần phân tích, cảm nhận:


2.1.Câu thơ mở đầu được nhà thơ viết theo thể câu khẳng định: “Khi ta lớn lên Đất
Nước đã có rồi”.


Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất nước là một giá trị lâu bền,
vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ
đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn Khoa
Điềm – Tác giả và Tác phẩm). Cách nói “Đất Nước đã có rồi” đã thể hiện niềm tự hào
mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng
như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy,
không biết Đất Nước có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của mình
rồi, nó hiện diện quanh ta với những gì yêu thương nhất.


2.2.Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn
hóa, phong tục. Những từ ngữ như Đất Nước “có trong”, Đất Nước “bắt đầu” là
những từ ngữ diễn tả rất nhẹ nhàng về sự ra đời của Đất Nước:


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn


Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất
Nước thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ… Có nghĩa là Đất
Nước đã có từ lâu đời; Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi
những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện
diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với
những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và
những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái


chân thiện mĩ để lớn lên ta biết yêu thương đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện
cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết
nên:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)


Khơng chỉ “có trong những cái ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn xác
định cái buổi ban đầu ấy qua một nếp sống giản dị nhưng đậm đà của những người
mẹ, người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu
bây giờ bà ăn”. Đất Nước lớn lao, kỳ vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng trầu bé
nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hồn tồn hợp lí bởi tất cả
những điều lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví khơng có những dịng
suối nhỏ sao trở thành dịng sơng, ví như khơng có những dịng sơng sao có thể trở
thành biển cả. Cho nên nhắc đến “miếng trầu” chắc hẳn là nhắc đến một điều sâu
thẳm. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất
trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là
thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta
gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa
đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng
đen cũng ra đời. Hồng Cầm trong bài thơ “Bên kia sơng Đuống” cũng đã từng nhắc
đến nét đặc trưng ấy:


Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng


2.3. Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống mà một trong những truyền thống
quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn lên khi dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc”.



Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ “Đất Nước
lớn lên…”. Chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Câu thơ gợi nhắc
cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết xông pha trận mạc. Đứa
bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh
giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên
cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tố Hữu cũng đã có thơ:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến
hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo
vệ giống nịi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử
Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn
Trỗi…


Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng
quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam:
thật thà chất phác, đơn hậu thuỷ chung, u chuộng hồ bình nhưng cũng kiên cường
bất khuất trong tranh đấu.


Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc “Một cây chơng cũng
tiến cơng giặc Mỹ”, bởi:


“Nịi tre đâu chịu mọc cong


Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.


2.5.Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm
nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:


Tóc mẹ thì bới sau đầu



Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên


Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng


Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ
với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một
vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:


Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh


Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao
động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tơn tạo mảnh đất thân u. Ở đó đạo lí
ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:


“Tay bưng đĩa muối chén gừng


Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Gừng chín tháng gừng hãy cịn cay
Đơi ta tình nặng nghĩa đầy


Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”


Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ
nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời.


Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy
luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng
đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn
trống mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng. Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến
“Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ
của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà
vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngơi nhà tổ ấm cho mọi
gia đình đồn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục
đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.


Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta cịn có truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Câu thơ gợi
nhắc bài ca dao:


Cày đồng đang buổi ban trưa


Mồ hơi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy


Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.


Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những
ngày long đong, lận đận trong đời sống nơng nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao
động cần cù, chịu thương chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông
dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong
hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân bao đời nay.
2.6.Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: Đất Nước có từ
ngày đó. “Ngày đó” là ngày nào ta khơng rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có
truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những


câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất
Nước trước hết phải yêu và q trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất
Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của
Nguyễn Khoa Điềm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

mang đậm hồn thơ triết lí. Từ “Đất Nước” trong đoạn thơ được viết hoa thể hiện tấm
lòng trân trọng của tác giả đối với đất nước.


<b>III. KẾT BÀI</b>


Tóm lại, bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã mang
đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng khơng kém phần tươi đẹp.
Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội
nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dịng máu ta. Điều đó càng làm
ta thêm u thêm quý quê hương Tổ quốc mình.


<b>4. Cảm nhận 9 câu đầu bài thơ Đất Nước - mẫu 2</b>


Đất Nước- hai từ thơi mà sao nó thân thương đến thế! Và đó cũng là nguồn cảm hứng
bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ sẽ chọn cho mình một góc nhìn riêng để
nói về Đất Nước, nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước
bằng những hình ảnh kỳ vĩ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn
Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, bình dị để miêu tả về Đất Nước. Bài thơ Đất
Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã gợi cho người đọc những nét đẹp về văn hóa, truyền
thống, phong tục đẹp vơ ngần, sinh động lạ thường, mang đậm dấu ấn con người Việt.
Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả
lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:


Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi



Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn


Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trịng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu


Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên


Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...


Phần thân bài Cảm nhận 9 câu thơ đầu bài thơ Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

tác của Nguyễn Khoa Điềm. Từ những đêm không ngủ, những ngày xuống đường,
Nguyễn Khoa Điềm đã tích lũy cho mình vốn sống và sự trải nghiệm để cảm hứng ấy
trào lên thành trường ca Mặt đường khát vọng, được viết năm 1917 gồm 9 chương.
Thành cơng nhất là chương Đất Nước, nó đã trở thành một bài thơ có sức sống độc
lập, thể hiện trọn vẹn tài năng phong cách Nguyễn Khoa Điềm.


Ngay từ những câu thơ đầu đoạn trích, Nguyễn Khoa Điềm đã trầm ngâm, suy tư về
cội nguồn, quá hình thành của Đất Nước bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể
chuyện cổ tích:


Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể


Mở đầu đoạn thơ như một lời khẳng định "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", Đất
Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì khi lớn lên nó đã có rồi. Đó cũng là


một lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch
sử dựng nước và giữ nước. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" chỉ thời gian huyền hồ, hư
ảo là nhịp thời gian cổ xưa xa thẳm để mở đầu những câu chuyện cổ. Với Nguyễn
Khoa Điềm, Đất Nước có từ rất xa xưa, trong sâu thẳm thời gian, trong kí ức tuổi thơ
hồn nhiên trong sáng của mỗi cuộc đời. Câu chuyện của Nguyễn Khoa Điềm đã đánh
thức trong người đọc những hồi niệm đẹp đẽ của một thời đại. Đó cũng chính là đất
nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hóa và lịch sử:


Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn


Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc


Đó là miếng trầu gợi lên sự tích vào loại cổ nhất người Việt "Sự tích trầu cau" từ đời
vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son
đồng thời đánh thức dậy hình ảnh miếng trầu đã trở thành biểu tượng của tình u,
lịng thủy chung, miếng trầu là đầu câu chuyện. Đó cịn là truyền thuyết Thánh Gióng
nhổ tre đuổi giặc Ân, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường,
bất khuất. Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên
mỗi làng quê. Hình ảnh tre như những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam:
thật thà chất phác, thuỷ chung, u hồ bình, kiên cường bất khuất trong những cuộc
chiến tranh. Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước đã nằm sâu
trong tiềm thức mỗi chúng ta, trong đời sống tâm hồn của người dân từ thế hệ này
sang thế hệ khác.


Tác giả còn nhắc đến thuần phong mỹ tục của người Việt, câu ca dao "Tay bưng chén
muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" như đã nhập hồn vào câu
thơ Nguyễn Khoa Điềm:


Tóc mẹ thì bới sau đầu



Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

khơng thể lẫn lộn với những nền văn hóa khác. Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng
suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để
giữ gìn tơn tạo mảnh đất thân u. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành
truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn".
Người ta vẫn thường hay nói gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn
nghĩa là con người sống với nhau càng lâu thì tình nghĩa càng đong đầy.


Đất nước gắn bó, thân thiết như người ruột thịt và bao công việc lao động khác:
Cái kèo, cái cột thành tên


Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng


Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nơng nghiệp thóc
gạo với mái lá nhà tranh nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái tên
nơm na, dân dã, có khi lấy những bộ phận của ngơi nhà tre gỗ chính mình đang ở "cái
kèo", "cái cột". Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước,
hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là
đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình
lam lũ, kết tinh từ mồ hôi nước mắt của người lao động, "một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàn" phải suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, dầm mưa dãi nắng
nhân dân ta mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy
là vị mặn mồ hơi nhọc nhằn của người nơng dân. Chính vì thế khi ăn hạt cơm dẻo,
thơm phải nhớ đến người làm ra nó.


Câu cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: "Đất Nước có từ ngày
đó..." “Ngày đó” là ngày nào ta khơng rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có
truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ "Đất Nước đã có",


"Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên", "Đất Nước có từ" đã giúp cho ta hình dung
được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm
sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm lặng
lẽ quan sát Đất Nước ở muôn mặt đời thường và trong quan hệ ruột rà, thân thuộc.
Đất Nước là những gì bình dị nhất, gần gũi và thân quen nhất trong đời sống hằng
ngày của mỗi con người việt nam ta: câu chuyện cổ tích bà kể, miếng trầu bà ăn, gừng
cay, muối mặn, hạt gạo...


<b>5. Cảm nhận 9 câu đầu bài thơ Đất Nước - mẫu 3</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
………..


Đất Nước có từ ngày đó


Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thơ
năm chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điêm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm
lắng đọng, giàu chất suy tư. Phân tích Đất Nước mới thấy được đây là một đoạn trích
tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Đất Nước là phần đầu chương V của
trường ca “Mặt đường khát vọng” – tác phẩm được ra đời vào năm 1971, giữa lúc của
kháng chiến chống Mĩ diễn ra khốc liệt.


Đất Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi


Đất Nước có trong những “cái ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn bây giờ


Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc



Đất Nước vốn là giá trị bền vững, vĩnh hằng; Đất Nước được tạo dựng, bồi đăp qua
nhiều thế hệ, được truyền từ đời này, sang đời khác: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có
rồi. Đứng trước một Đất Nước thiêng liêng như thế, lòng thơ dâng trào niềm xúc động
và thành kính. Hai từ “Đất Nước” được viết hoa một cách trang trọng. Dó là cách mà
nhà thơ thể hiện niềm tự hào và lịng thành kính trước Đất Nước của mình. Khi ta cất
tiếng khóc chào đời, khi ta lớn lên, Đất Nước đã hiện hữu. Đât Nước có từ bao giờ/
Suy ngẫm về cội nguồn của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm bỗng phát hiện: Đât Nước
có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ kể/ Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn.
Mẹ Đất Nước vừa cổ kính lâu đời vừa bình dị, mộc mạc hiện ra trong câu thơ của
Nguyễn Khoa Điềm. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện cao
dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính
thẩm mĩ, là hiện thân của tình u thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.
Cùng với tục ăn trầu, Đât Nước còn, gắn liền với những phong tục khác:


– Tóc mẹ thì bới sau đầu
– Cái kèo cái cộ thành tên


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc. Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm
làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình.
Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh binh dị, thân thuộc
đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi
người.


Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước còn ẩn mình trong những vật nhỏ bé nhất. Đất
Nước ẩn mình trong hạt muối, nhánh gừn; đằm sâu trong tình thương mẹ cha: Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Được chắt lọc từ văn hóa dân gian, câu thơ
trầm tích những ý từ xâu xa. Dù sống cuộc sống thiếu thốn, gian khổ, cha mẹ ta vẫn
thương yêu nhau như gừng cay muối mặn, vẫn gắn bó trước sau, mặn mà, đinh ninh.
Đất Nước mình giản dị thân thương là thế. Hình ảnh Đất Nước cịn có trong từng
bơng lúa, củ khoai: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng. Hình ảnh


thơ giản dị nhưng gợi ra tập quán sản xuất gắn liền với văn minh lúa nước của dân tộc
Việt Nam. Để làm ra hạt gạo trắng ngần, bát cơm thơm, người nông dân phải dầm
sương, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tỉ mỉ xay, giã, dần, sàng. Hình
ảnh thơ gợi lên bao sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn cùng phẩm chất cần cù, chịu khó của
những người chân lấm, tay bùn.


9 câu đầu khép lại bằng tứ thơ khái qt về thời điểm hình thành Đất Nước: Đất Nước
có từ ngày đó. Ngày đó vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khú vừa là một phép
thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi
dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết
sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh
thiêng biết mấy.


</div>

<!--links-->

×