Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Ảnh hưởng của một số chế phẩm dinh dưỡng qua lá đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng của đậu tương giống DT84, DT12 trồng vụ thu đông và vụ xuân hè trên đất Chương Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.94 KB, 103 trang )

1. Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề
Cây đậu tơng [Glicinemax (L) Merill] là cây công nghiệp quen thuộc ở n-
ớc ta và các nớc trên thế giới. Vì mọi bộ phận cây đậu tơng đều có giá trị nhất
định đối với con ngời nh mang lại lợi ích kinh tế, dinh dỡng và cải tạo đất. Các
loại thức ăn đợc chế biến từ đậu tơng rất giàu đạm (40 - 45%), có thể thay thế
cho thịt do protein của đậu tơng chứa đủ các axit, amin quí không thay thế rõ
nhiều vitamin thích hợp với ăn kiêng, ăn chay không kém gì các thực phẩm cao
cấp khác, không bị ảnh hởng bởi các chất hoá học, các loại phụ gia nhân tạo
cũng nh quá trình biến đổi gen (hay còn gọi là thực phẩm chuyển gen (GM) gây
ra (Norman AG, 1967) [49].
Hạt đậu tơng còn chứa một lợng dầu rất lớn 12 -24 % đứng đầu trong các
loại chất béo có hoạt tính sinh học cao, gluxit 31,1% và nhiều chất khoáng,
vitamin...vv (Rahaminna ands Nikkuni, 2002) [51]. Các acid béo omega -3
(anpha linoneic) trong đậu tơng có tác dụng bảo vệ tim mạch, giúp máu lu
thông tốt, tim đập đều hơn. Đây cũng là tiền thân của chất DHA (Deco
sahexaenic acid) chiếm 1/4 lợng chất béo chứa trong não; Vì vậy, những thực
phẩm chế biến từ hạt đậu tơng rất tốt cho việc phát triển trí não của trẻ em.
Ngoài ra acid omega - 3 và DHA còn đợc ghi nhận giảm triệu chứng của bệnh
viêm ruột, giảm chứng tiền sản giật ở phụ nữ. Các acid béo không no trong hạt
đậu tơng cùng với protein có khả năng kết hợp với cholesterol tạo thành lipo
protein có tỉ trọng cao HDL - C (High Desnity) vận chuyển cholesterol từ các tổ
chức mô về gan để chuyển hoá làm giảm lợng cholesterol chung, làm tăng lợng
cholesterol có lợi và làm giảm lợng cholesterol có hại. Ngoài 2 thành phần
chính là lipit và protein, hạt đậu tơng còn chứa các chất khoáng, vi lợng, các
loại hoomon tự nhiên (phytoestroen), phitattanin và sơ hoà tan có tác dụng
1
phòng chống ung th, ức chế hay làm giảm quá trình nhả đờng của máu, làm
tăng quá trình cung cấp năng lợng cho cơ thể, (http:// viwipedia.org viki/) [43].
Cây đậu tơng không chỉ cung cấp dinh dỡng cho con ngời và còn có tác
dụng về mặt y học. Hạt đậu tơng cũng nh các phụ phẩm của nó, đặc biệt là khô


dầu, đậu tơng ngày nay đợc đánh giá rất cao trong công nghiệp làm thức ăn gia
súc chiếm 60% toàn bộ giá trị đạm (Phạm Văn Thiều, 1998) [31]. Ngoài ra cây
đậu tơng còn góp phần luân canh cải tạo đất rất tốt. Vì vậy, đậu tơng còn là một
trong các cây họ đậu có khả năng cố định niơ khí quyển thông qua nốt sần ở rễ.
Rễ đậu tơng ăn sâu, phân nhánh nhiều làm cho đất tơi xốp. Thân, lá đậu tơng có
thể làm phân xanh, một ha trồng đậu tơng để lại trong đất 40 - 70% kg đạm /
năm tơng đơng 300 - 400 kg đạm sun phát. Do vậy, cây đậu tơng còn là cây
trồng tốt cho nhiều cây trồng vụ sau (Nguyễn Thế Côn, 1992) [3].
Cây đậu tơng không kén đất, có thời gian sinh trởng ngắn đến trung bình,
nên dễ dàng đa vào hệ thống luân canh tăng vụ nh trồng xen, trồng gối vụ và có
thể trồng đợc nhiều chân đất khác nhau, tận dụng đợc đất đai, sức lao động,
làm tăng thu nhập cho ngời lao động, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về sản
phẩm đậu tơng ở trong nớc tiến tới xuất khẩu. Để tăng sản lợng cây trồng trong
nông nghiệp nói chung và cây đậu tơng nói riêng, mỗi quốc gia đều có thể áp
dụng các biện pháp nh: Tăng diện tích thông qua khai hoang, tăng vụ, thâm
canh (K.Hinson and E. Harwig, 1990) [52].
ở nớc ta, diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp do nhu cầu công
nghiệp hoá, cho nên việc tăng diện tích đất canh tác về lâu dài sẽ bị hạn chế; Vì
vậy, việc tăng vụ chỉ đến mức giới hạn nhất định. Do đó, để tăng năng suất và
sản lợng đậu tơng cũng nh chất lợng sản phẩm, chúng ta cần dùng biện pháp kĩ
thuật thâm canh đợc áp dụng một cách triệt để.
ở tỉnh Hà Tây, có điều kiện sinh thái, đất đai, tinh thần lao động và sự
cần cù, chăm chỉ của ngời dân, đã không ngừng làm tăng diện tích và sản lợng
2
đậu tơng, đặc biệt là cây đậu tơng đông trong công thức luân canh 3 vụ (2 lúa -
1 đậu tơng) nhờ gieo vãi trên diện tích lớn, đã làm cho nhiều cánh đồng đạt giá
trị 50 triệu đông / ha.
Tuy nhiên thực tiễn sản xuất nông nghiệp, sản lợng đậu tơng còn thấp ở
nhiều nơi. Nguyên nhân, là do cha sử dụng bộ giống thích hợp với điều kiện ở địa
phơng và việc bón phân hoá học nhiều năm cho mọi loại cây trồng đã dẫn đến

việc thiếu hụt các nguyên tố vi lợng trong đất, làm cho cây đậu tơng có năng suất
thấp và dễ dàng bị nhiễm bệnh hại. Để khắc phục hiện tợng trên, trong thâm
canh, ngời ta khuyến cáo nên bón phân hữu cơ hoặc phân đa yếu tố có vi lợng
(giá thành cao) hoặc phân vi lợng thông qua lá. Đối với phân bón lá hiện nay trên
thị trờng có rất nhiều loại phân bón lá cần đợc nghiên cứu về hiệu lực của chúng
trên cây đậu tơng nên chúng tôi thực hiện đề tài:
"ảnh hởng của một số chế phẩm dinh dỡng qua lá đến sinh trởng,
phát triển, năng suất và chất lợng của đậu tơng giống DT84, DT12 trồng vụ
thu đông và vụ xuân hè trên đất Chơng Mỹ - Hà Tây "
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài.
1.2.1. Mục đích
Trên cơ sở tìm hiệu lực của một số chế phẩm dinh dỡng qua lá đến sinh
trởng, phát triển, năng suất và chất lợng của hạt đậu tơng mà đề xuất kĩ thuật sử
dụng dinh dỡng qua lá góp phần xây dựng quy trình thâm canh cây đậu tơng
trên đất Chơng Mỹ - Hà Tây.
1.2.2 Yêu cầu của đề tài
- Điều tra thực trạng sản xuất đậu tơng, hàng hoá ở huyện Chơng Mỹ.
- Nghiên cứu ảnh hởng của một số chế phẩm dinh dỡng đến sinh trởng,
phát triển, năng suất, chất lợng của đậu tơng giống DT84 trồng ở vụ thu đông và
vụ xuân hè.
3
- Nghiên cứu ảnh hởng của một số chế phẩm dinh dỡng đến sinh trởng,
phát triển, năng suất, chất lợng của đậu tơng giống DT12 trồng ở vụ thu đông và
vụ xuân hè.
1.3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
1.3.1. ý nghĩa khoa học của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học về ảnh
hởng của một số chế phẩm dinh dỡng qua lá đến sinh trởng, phát triển, năng
suất và chất lợng cây đậu tơng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo khoa học về cây

đậu tơng, phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu về cây đậu tơng.
1.3.2. ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung vào việc xây dựng
quy trình kĩ thuật thâm cây đậu tơng năng suất cao tại huyện Chơng Mỹ - Hà
Tây cũng nh những vùng sinh thái tơng tự ở Việt Nam.
2. Tổng quan tài liệu
4
2.1. Yêu cầu sinh thái của cây đậu tơng
2.1.1. Nhiệt độ
Cây đậu tơng có nguồn gốc ôn đới, nhng không phải là cây chịu rét. Tổng
tích ôn của cây đậu tơng biến động từ 1700
o
C đến 2700
o
C. Nhiệt độ thích hợp
cho đậu tơng mọc nhanh vào khoảng 30
o
C. Phạm vi nhiệt độ tối thiểu và tối đa
ở thời kỳ mọc là 10
o
- 40
o
C. Trên 40
o
C hạt không mọc đợc và dới 10
o
C sự vơn
dài của trục dới lá mầm bị ảnh hởng đáng kể.
Nhiệt độ cho hạt nảy mầm tốt nhất trong phạm vi 18 - 26
o

C, trên 30
o
C hạt
nảy mầm nhanh nhng mầm yếu.
Thời kì cây con từ lá đơn đến 3 lá kép, đậu tơng chịu rét khá hơn ngô, ở
thời kì lá đơn có thể chịu đợc nhiệt độ dới 0
o
C, lá kép phát triển ở nhiệt độ
trên12
o
C. Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trởng là từ 22
o
C - 27
o
C. Nhiệt độ thấp
sẽ ảnh hởng xấu đến ra hoa kết quả. Nhiệt độ ở 10
o
C ngăn cản sự phân hoá
mầm, hoa, nhiệt độ ở dới 18
o
C, tỷ lệ đậu quả thấp. Nhiệt độ cao hơn 39
o
C ảnh h-
ởng xấu đến tốc độ hình thành đốt, cây đậu tơng sẽ phát triển lóng và phân hoá
hoa. Nhiệt độ thích hợp nhất của lá đậu tơng trong vụ hè từ 25
o
C - 40
o
C. Trong
các thời kì sinh trởng, phát triển cuối cùng, nếu nhiệt độ quá thấp, hạt khó chín,

chín không đều, tỷ lệ nớc cao và chất lợng của (Nguyễn Thế Côn, 1992) [3]
2.1.2. ánh sáng
ánh sáng là yếu tố ảnh hởng sâu sắc đến hình thái cây đậu tơng; ánh
sáng là yếu tố quyết định sự quang hợp của lá, sự cố định Nitơ (N
2
) ở nốt sần,
từ đó ảnh hởng đến sản lợng chất khô của cây và năng suất hạt. Đậu tơng là cây
ngắn ngày điển hình. Tác động của ánh sáng ngày ngắn mạnh nhất vào các thời
kì sinh trởng trớc khi ra hoa. ánh sáng ngày ngắn vào thời kì trên làm cho cây
rút ngắn đợc thời kì sinh trởng, chiều cao cây giảm, số đốt ít và độ dài đốt giảm.
2.1.3. Độ ẩm
5
Nhu cầu nớc của cây đậu tơng thay đổi theo điều kiện khí hậu, nên kĩ
thuật trồng trọt và thời gian sinh trởng của cây đậu tơng cũng đòi hỏi về độ ẩm
nhất định. ở thời kì đậu tơng mọc, đất phải đủ ẩm để hạt mọc đều, nếu khô hạn
kéo dài thì hạt thối. Trong thời kì nảy mầm, lợng nớc cần hút bằng 100 - 150 %
trọng lợng khô của hạt giống.
Nhu cầu nớc của đậu tơng tăng dần khi cây lớn lên. Sự mất nớc do thoát
nớc trong ngày thờng nhiều hơn lợng nớc cây hút vào do rễ. Những ngày có
nhiệt độ cao, gió khô làm cây héo tạm thời có thể làm giảm hoạt động đồng hoá
và ảnh hởng tới năng suất hạt, chiều cao cây, số đốt, đờng kính thân, số hoa, tỷ
lệ đậu quả, số hạt, trọng lợng hạt đều tơng quan thuận với độ ẩm đất.
Thời kì quả mẩy, đậu tơng cần nhiều nớc nhất, hạn lúc này làm giảm
năng suất rõ rệt. Hạn vào thời kì ra hoa và bắt đầu có quả, gây rụng hoa, trọng l-
ợng hạt giảm (Norman A.G, 1967) [49].
2.1.4. Đất và các chất dinh dỡng.
Cây đậu tơng không yêu cầu nghiêm ngặt về đất trồng trọt. Nói chung
loại đất nào trồng cũng đợc, đối với đất trồng hoa màu đều trồng đợc đậu tơng.
Trên đất thịt nặng, đậu tơng khó mọc nhng sau khi mọc, đậu tơng thích ứng với
đất nặng khá hơn với các cây màu khác. Độ pH thích hợp cho sự sinh trởng và

phát triển của đậu tơng là 5,2- 6,5 (Ngô Thế Dân, 1982) [6].
2.2. Vai trò của các yếu tố dinh dỡng đối với sự sinh
trởng và phát triển của cây đậu tơng
2.2.1. Đạm
Đạm là nguyên tố dinh dỡng quan trọng nhất và hút đợc nhiều nhất của
cây đậu tơng do hạt đậu tơng có hàm lợng protein cao. Để đạt năng suất 3 tấn/ ha
thì cây đậu tơng cần 285 kg N/ha. Mặc dù cây đậu tơng có khả năng tự túc phần
lớn N nhng việc cung cấp N hợp lí cho đậu tơng có tác dụng làm cây mọc nhanh,
6
phát triển hệ rễ, tạo cơ sở cho việc hình thành nốt sần. Đồng thời phát triển thân,
lá và cành; tăng tỉ lệ đậu quả và tỉ lệ quả chắc, tăng trọng lợng hạt và hàm lợng
protein trong hạt (Nguyễn Nh Hà, 2006) [12].
Trong cây đậu tơng, đạm đợc tích luỹ khá nhiều ở thời kì đầu và nhiều
nhất ở thời kì ra hoa kết quả, đặc biệt là từ khi hoa nở rộ cho đến khi hạt mẩy.
Cây đậu tơng thiếu đạm, lá chuyển thành màu xanh vàng và bị rụng khi có gió,
phiến lá hẹp và diện tích lá nhỏ, cằn cỗi, lá kép sau nhỏ hơn hay bằng lá kép tr-
ớc, hoa và quả rụng nhiều hoặc lép, trọng lợng hạt giảm (Đỗ Thị Báu, 2000) [1].
Nhng thừa đạm, lại cản trở sự xâm nhập của vi khuẩn vào nốt sần và việc cố
định N của cây đậu tơng. Thừa đạm còn có khả năng làm cây phát triển quá
mạnh, ức chế ra hoa và quả làm ảnh hởng đến năng suất và chất lợng hạt
(Nguyễn Nh Hà, 2006) [11].
Thời kì ra hoa, đậu quả nếu không cung cấp đủ đạm thì số hoa, quả rụng
nhiều hoặc lép, trọng lợng hạt thấp. Do rễ của cây đậu tơng có khả năng sống
cộng sinh với vi khuẩn cố định đạm và nguồn đạm này có thể đáp ứng 60% lợng
đạm mà cây cần, cho nên việc cung cấp đạm cho cây ngay từ ban đầu của con
ngời là không nhiều nhng lại rất quan trọng để nó thúc đẩy cho quá trình cố định
nitơ của vi khuẩn (Đoàn Thị Thanh Nhàn và cs, 1996) [14]
2.2.2. Lân
Lân có tác dụng xúc tiến cho sự phát triển của bộ rễ và sự hình thành nốt
sần, các cơ quan sinh sản. Đủ lân số lợng và trọng lợng nốt sần tăng lên rõ rệt,

số quả và hạt chắc tăng lên, tăng trọng lợng hạt... Đồng thời lân cũng tham gia
vào thành phần nucleotit, acid nucleic, nucleotit, photpholipit. Lân có mặt trong
thành phần hệ thống men, có ý giữa trao đổi gluxít, sự cố định đạm, tổng hợp
protit, lipit và sự chuyển hoá năng lợng trong quá trình quang hợp và hô hấp.
(Đoàn Thị Thanh Nhàn và cs, 1996) [14]. Khi cây đậu tơng thiếu lân ảnh hởng
xấu đến việc hình thành rễ, nốt sần và khả năng cố định đạm.
7
2.2.3. Kali
Kali chiếm 50% trong hạt, đóng vai trò quan trọng trong trao đổi đạm, trong
chuyển hoá gluxit cũng nh hàng loạt các phản ứng khác trong cây, kali đóng vai
trò điều hoà cân bằng nớc, tổng hợp protein, tăng tính chống chịu bệnh, chịu hạn
và chống đổ cho cây. Đậu tơng thiếu kali ở cây non và già, mép lá bị xám rỉ (cháy
mép lá), lá bị cong lên phía trớc. Cây hút kali trong suốt quá trình sinh trởng và
phát triển nhng nhiều nhất vẫn là thời kì ra hoa. Thời kì cuối kali chuyển từ thân lá
về hạt (Đoàn Thị Thanh Nhàn và cs, 1996) [14].
2.2.4. Nhu cầu các yếu tố dinh dỡng khác
Nhu cầu các yếu tố dinh dỡng khác: Ca, Mg có tác dụng điều chỉnh pH
trong đất, thích hợp cho vi khuẩn nốt sần phát triển và hoạt động cố định đạm,
làm cây sinh trởng phát triển tốt.
Lu huỳnh cần thiết cho việc tổng hợp protein vốn xẩy ra rất mạnh ở cây
đậu tơng. Lu huỳnh cũng cần thiết cho việc hình thành nốt sần trên rễ cây đậu t-
ơng. Vì vậy thiếu lu huỳnh cũng ảnh hởng xấu đến tới việc hình thành nốt sần
trên rễ cây và khả năng cố định đạm, đến khả năng sinh trởng, phát triển và cho
năng suất. Thiếu lu huỳnh còn có khả năng ảnh hởng xấu tới tỉ lệ và chất lợng
của protein trong hạt, ảnh hởng xấu tới phẩm chất hạt đậu tơng. Biểu hiện thiếu
lu huỳnh ở cây đậu tơng khá giống với biểu hiện thiếu đạm (Đỗ Thị Báu, 2000)
[ 1].
Cây đậu tơng cũng có nhu cầu khá cao về các chất dinh dỡng vi lợng mà
các chất này lại thờng hay bị thiếu trên các loại đất có pH trung tính, vốn phù
hợp cho cây đậu tơng. Khi cây đậu tơng bị thiếu sắt, măngan, kẽm cây bị còi

cọc, có một số quả không bình thờng. Thiếu molipden ảnh hởng xấu đến hoạt
động của vi khuẩn nốt sần và đồng hoá đạm của cây. Kết quả đều ảnh hởng xấu
đến năng suất và phẩm chất đậu tơng (Nguyễn Nh Hà, 2006) [11].
Bo rất cần thiết cho quá trình phân bào và lớn lên của đỉnh thân, chóp rễ,
8
cho sự nảy mầm của hạt phấn và cho sự thụ tinh. Bo tạo thuận lợi cho việc di
chuyển đờng và tổng hợp các acid nucleic và các kích thích tố thực vật.
2.2.5. Chất hữu cơ
Muốn đạt đợc năng suất cao đặc biệt trên các loại đất cát, đất đồi, đất bạc
màu cần phải bón các loại phân chuồng và các loại phân hữu cơ khác vì ngoài
việc cung cấp các chất dinh dỡng cần thiết cho cây còn có tác dụng cải tạo đất.
(Nguyễn Nh Hà, 2006) [11], (Đoàn Thị Thanh Nhàn và cs, 1996) [14], (Đỗ Thị
Báu, 2000) [1].
2.3. Tình hình sản xuất đậu tơng trên thế giới và Việt
Nam
2.3.1. Tình hình sản xuất đậu tơng trên thế giới
Cây đậu tơng chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong 8 cây lấy đều
quan trọng của thế giới; Đậu tơng, bông, lạc, hớng dơng, cải dầu, lanh, dừa và
cọ dầu. Do vậy đợc trồng phổ biến hầu hết các nớc trên thế giới, nhng tập trung
nhiều nhất ở các nớc châu Mỹ chiếm tới 73,0% tiếp đó là các nớc thuộc khu
vực châu á (Trung Quốc, ấn Độ) chiếm 23,15%. (Lê Hoàng Độ và ctv, 1997)
[8].
Thức ăn cho ngời và thức ăn chăn nuôi từ đậu tơng đã tăng nhanh ở nhiều
nớc trong 30 năm qua góp phần cung cấp thực phẩm giàu dinh dỡng nhiều hơn
cho nhân dân trên thế giới. Vì vậy diện tích trồng đậu tơng trên thế giới có xu h-
ớng tăng nhanh để khắc phục nạn suy dinh dỡng do đói protein trong khẩu phần
thức ăn hàng ngày. (Đỗ Thị Báu, 2000) [1].
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất sản lợng đậu tơng trên thế giới
(1996 - 2006)
Năm Diện tích Năng suất Sản lợng

9
(triệu ha) (tạ/ha) (triệu tấn)
1995 61,96 20,26 125,53
1996 63,18 20,84 131,67
1997 69,39 21,99 152,59
1998 71,66 22,30 159,8
1999 72,19 21,80 157,37
2000 75,05 22,30 167,36
2001 75,05 23,21 176,70
2002 77,35 23,34 180,53
2003 83,61 22,67 189,52
2004 91,61 22,64 206,46
2005 91,42 23,45 214,35
(Nguồn: FAO STAT 2005 và food Outlook, FAO, No -1, June 2006)
Theo FAO (2005) diện tích đậu tơng toàn thế giới năm 2004 là 91,62
triệu ha, tăng 28,43 triệu ha so với năm 1996. Cùng với việc mở rộng diện tích,
năng suất đậu tơng cũng có sự tăng trởng đáng kể, Năm 2002 năng suất đậu t-
ơng là 23,34 tạ / ha tăng 3,08 tạ / ha so với năm 2995.
Nh vậy trong vòng 10 năm diện tích đậu tơng tăng 3,08 tạ/ ha và sản lợng
tăng 88,82 triệu tấn đã khẳng định vai trò và hiệu quả của cây đậu tơng trong
nền nông nghiệp thế giới.
Tổng sản lợng đậu tơng thế giới năm 2006 dự báo sẽ đạt 220,18 triệu tấn
tăng nhẹ so với năm 2005. Điển hình là số nớc đang mở rộng diện tích trồng đậu
tơng, đầu t thâm canh và tập trung nghiên cứu đó là: Braxin, Achentina, Mỹ,
Trung Quốc và ấn Độ (chiếm khoảng 89,6% về diện tích và 91,6% về sản lợng
của cả thế giới). ở Mỹ là nớc luôn đứng đầu thế giới về diện tích và sản lợng đậu
tơng chính là nhờ các phơng pháp chọn lọc, nhập nội, gây đột biến và lai tạo. Họ
đã tạo đợc những giống đậu tơng mới (Nguyễn Trọng Trang, 2005) [37]. Sản l-
ợng đậu tơng ngày càng tăng, cụ thể:
- Năm 2000, Mỹ sản xuất đợc 75 triệu tấn đậu tơng, trong đó có hơn 1/3

10
đợc xuất khẩu.
- Năm 2001 sản xuất đợc 78,67 triệu tấn đậu tơng và đến năm 2005 tăng
lên 82,82 triệu tấn, tăng 4,15 triệu tấn so với năm 2001.
Phần lớn sản lợng đậu tơng của Mỹ để nuôi gia súc hoặc để xuất khẩu
mặc dù nhu cầu tiêu thụ của ngời dân Mỹ ngày càng tăng; Trong đó đậu tơng
chiếm tới 80% lợng đậu tơng đợc tiêu thụ ở Mỹ. Sau Mỹ phải kể đến Braxin, là
nớc sản xuất đậu tơng lớn thứ 2 trên thế giới cũng nh ở châu Mỹ. Năng suất của
nớc này ít thay đổi trong 20 năm qua. Tuy nhiên cho đến năm 2003 năng suất
đậu tơng đạt kỉ lục 28,08 tạ / ha vợt trội lên so với năng suất trung bình của thế
giới (23,79 tạ / ha) là 4,29 ha. Hiện nay Braxin cũng là nớc cung cấp và sản
xuất đậu tơng lớn trên thế giới, đậu tơng của Braxin cũng đợc các nớc nhập
khẩu rất a chuộng. (Phạm Văn Biên và cs, 1976) [2].
ở Achentina đậu tơng thờng đợc luân canh với lúa mì. Năng suất bình quân
của đậu tơng khoảng 1,1 tấn / ha vào những năm 60. Vào đầu những năm 70
năng suất đạt kỉ lục là 2,3 tấn / ha. (Ngô Thế Dân và cs, 1982) [6]. Từ năm 2001 -
2005, diện tích và năng suất đậu tơng ở nớc này đã tăng lên rất nhiều: Năng suất
đậu tơng năm 2003 đạt 28,01 tạ / ha cao hơn so với năng suất trung bình của thế
giới (23,79 tạ / ha) là 4,22 tạ / ha. Hiện nay Achentina phát triển mạnh cây đậu t-
ơng, nên Achentina đã trở thành nớc sản xuất đậu tơng đứng thứ 3 trên thế giới
(Hymowitz and Nelwell, 1981) [53].
Trung Quốc là nứơc sản xuất đậu tơng đứng đầu châu á và đứng thứ t trên
thế giới. Trớc chiến tranh thế giới thứ 2, Trung Quốc là nớc đứng đầu thế giới
về diện tích và sản lợng đậu tơng. Từ năm 2001 - 2005 năng suất và sản lợng
đậu tơng tăng liên tục. Tập trung chủ yếu ở vùng Đông Bắc chiếm gần 59% sản
lợng đậu tơng của cả nớc và vùng đồng bằng sông Hoàng Hà, sông Hoàng Hà
chiếm 45% sản lợng đậu tơng của cả nớc. (Đoàn Thị Thanh Nhàn và cs, 1996)
[14]. Mặc dù Trung Quốc đứng hàng thứ 4, song hiện nay Trung Quốc vẫn là n-
11
ớc đứng đầu châu á về diện tích, năng suất sản lợng đậu tơng. Do dân số đông

cùng với nhu cầu tiêu dùng trong nớc tăng, nên Trung Quốc từ một nớc xuất
khẩu trở thành một nớc nhập khẩu đậu tơng. (Nguyễn Thu Huyền, 2004) [12].
ở ấn Độ, đậu tơng cũng là cây trồng đợc phát triển, diện tích của đậu t-
ơng cũng đợc tăng nhanh từ năm 1979 đến nay, nh:
- Năm 1979 diện tích đậu tơng là 500 nghìn ha, sản lợng đạt 280 nghìn
tấn.
- Năm 2001 diện tích đậu tơng trồng đợc khoảng 6 triệu ha, sản lợng đạt
5300 nghìn tấn, chiếm khoảng 7,94% sản lợng đậu tơng trên thế giới
(Bhanagarps, 1995) [44]. Thành công đáng kể trong những năm gần đây của ấn
Độ là áp dụng giống đậu tơng mới và kĩ thuật thâm canh nên năng suất bình
quân đã tăng gấp 2,5 lần đạt 26,7 tạ/ha. Chủ yếu là do những điều kiện khí hậu
với những truyền thống về kinh tế xã hội ở nớc này đã đa ấn độ trở thành nớc
sản xuất đậu tơng lớn thứ 5 trên thế giới.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng trên 100 nớc trồng đậu tơng nhng
không phải nớc nào cũng tự túc đợc nhu cầu đậu tơng ở trong nớc. Phần lớn các
nớc đều phải nhập khẩu đậu tơng. Nhìn chung châu á mới chỉ đáp ứng đợc một
nửa nhu cầu đậu tơng, còn lại phải nhập khẩu. Hàng năm, châu á phải nhập
khẩu 8 triệu tấn hạt đậu tơng, 1,5 triệu tấn dầu, 1,8 triệu tấn sữa đậu lành.
(Nguyễn Thu Huyền, 2004) [12]. Các nớc nhập khẩu nhiều đậu tơng phải kể
đến Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Inđonexia, Philippin...
Một số nớc Đông âu cũng có nhu cầu nhập đậu tơng lớn chủ yếu từ Mỹ và
Braxin nh Hà Lan: 5,06 triệu tấn; Đức 3,9 triệu tấn; Tây Ban Nha: trên 3 triệu
tấn (Ngô Thế Dân, 1982) [6].
Về tổng sản lợng đậu tơng trên thế giới năm 2005 đạt 214,49 triệu tấn,
trong đó, lợng đem ép dầu đạt 182,65 triệu tấn. Tổng sản lợng dầu đậu tơng
12
năm 2005 đạt 33,8 triệu tấn và tổng sản lợng bột đậu tơng 143,14 triệu tấn.
Về xuất khẩu đậu tơng trên thế giới năm 2005 đạt 65,47 triệu tấn, xuất
khẩu dầu đậu tơng 9,2 triệu tấn, bột đậu tơng 143,14 triệu tấn.Trung Quốc sẽ là
nớc tiêu dùng đậu tơng lớn nhất thế giới, nh:

- Năm 1984 tiêu thụ dầu ăn không tới 30 vạn tấn, năm 2003 đã tiêu thụ dầu
ăn đã tới 7 triệu tấn, bã đậu 23,3 triệu tấn. Trớc đây, Trung Quốc là nớc xuất
khẩu đậu tơng, nay là nớc nhập khẩu đậu tơng lớn nhất thế giới.
- Năm 2003 Trung Quốc phải nhập 20,4 triệu tấn đậu tơng, 1,7 triệu tấn
dầu đậu tơng, cao hơn mức sản xuất trong nớc.
- Năm 2004 vẫn nhập 20,76 triệu tấn, tốn 6,98 tỉ USD. Trung Quốc có nhu
cầu đậu tơng 25 - 30 triệu tấn/năm, trong nớc mới chỉ sản xuất đợc 15 triệu tấn/
năm, còn thiếu hụt khoảng 10-15 triệu tấn/ năm.
Châu á sản xuất đậu tơng cũng đợc thúc đẩy mạnh là do nhu cầu thức ăn
và dinh dỡng của con ngời cũng nh gia súc cần rất lớn. Tuy nhiên năng suất đậu
tơng ở châu á vẫn còn thấp hơn nhiều so với năng suất bình quân của thế giới
mặc dù diện tích trồng đậu tơng ở châu á đứng thứ 2 trên thế giới. Sở dĩ nh vậy,
là đậu tơng ở châu á trồng nhiều nơi đất xấu, không đầu t về phân bón, chỉ với
mục đích cải tạo đất.
Hơn 10 năm nay, kể từ năm 1994, giống đậu tơng chuyển gen kháng
Glyphosat (thuốc trừ cỏ) đợc ứng dụng, diện tích trồng đậu tơng chuyển gen
tăng rất nhanh. Năm 2003, đạt 41,4 triệu ha, chiếm 55% diện tích đậu tơng toàn
cầu và chiếm 61% diện tích các cây chuyển gen vào năm đó, chủ yếu là đợc
trồng ở 8 nớc: Mỹ, Achentina, Braxin, Canada, Urugoay, Nam phi, Rumani.
Diện tích đậu tơng chuyển gen ở Mỹ lớn nhất, đạt 24 triệu ha, chiếm 81% diện
tích đậu tơng toàn nớc Mỹ, trong đó có 22 triệu ha trồng đậu tơng chuyển gen
Gliphosat. Hầu nh 100% diện tích đậu tơng ở Achentina là đậu tơng đã đợc
13
chuyển gen. Tháng 9/2003, Chính phủ Braxin đã bãi bỏ lệnh cấm sử dụng và
tiêu thụ đậu tơng chuyển gen đợc ban hành vào năm 2003 -2004, sau đó lại hợp
thức hoá việc trồng cây đậu tơng chuyển gen. Đến nay diện tích trồng đậu tơng
chuyển gen ở nớc này đã lên 10% tổng diện tích đậu tơng. Trồng giống đậu t-
ơng có chuyển gen kháng Glyphosat thì phun Glyphosat, diệt đợc sạch cỏ dại
mà đậu tơng không chịu ảnh hởng xấu đến sự sinh trởng, phát triển cây đậu t-
ơng. Từ đó, có thể sử dụng thuốc diệt cỏ mà không gây hại cho đậu tơng

chuyển gen, giảm phí tổn về nguyên liệu, nhân công, có thể ứng dụng đợc công
nghệ trồng dày, không làm đất mà hiệu quả sản xuất cây đậu tơng đã tăng lên
rõ rệt. Trong nhiều năm qua, việc mở rộng diện tích đậu tơng có chuyển gen
kháng thuốc trừ cỏ ch thấy gây hại cho sức khoẻ con ngời và động vật, cha phát
hiện bất kì sự ngộ độc nào đối với ngời và gia súc (Nguyễn Công Tạn, 2006)
[20].
2.3.2. Tình hình sản xuất đậu tơng ở Việt Nam
Nớc ta, có lịch sử trồng đậu tơng lâu đời, trong th tích ở thế kỉ VI cho
biết, ở Bắc bộ đã có trồng đậu tơng (sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn thế
kỉ 18) đã đề cập nhiều đến cây đậu tơng. Nhân dân ta đã biết trồng trọt và sử
dụng đậu tơng từ hàng nghìn năm nay, nhng trớc đây chỉ sử dụng bó hẹp trong
phạm vi nhỏ thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, nh: Cao Bằng, Lạng Sơn. Trớc
cách mạng tháng 8 diện tích đậu tơng cả nớc là 30.000 ha, năng suất 4,1 tạ / ha.
Sau cách mạng tháng 8 và trong kháng chiến chống Mỹ cứu nớc, nhà nớc chú ý
đẩy mạnh sản xuất cây đậu tơng nhng năng suất đạt thấp, nh: Năm 1967 diện
tích là năm cao nhất thời kì này, nhng chỉ xấp xỉ bằng diện tích năm 1939. Sau
năm 1973 sản xuất đậu tơng ở nớc ta mới có bớc phát triển đáng kể, sản xuất
nhằm 3 mục đích:
- Giải quyết vấn đề protein cho ngời và gia súc.
- Xuất khẩu.
14
- Cải tạo đất.
Diện tích bình quân thời kì 1985-1993 đạt 106.000 ha tăng gấp 2 lần so
với thời kì năm 1975 -1980, năng suất bình quân tăng từ 5,0 tạ/ha -7,8 tạ/ ha -
9.0 tạ/ha. Theo nhiều tài liệu nghiên cứu gần đây, trên thế giới đều chứng minh
rằng cây đậu tơng có thể phát triển tốt trong điều kiện sinh thái nông nghiệp
nhiệt đới và ở nớc ta cũng là nớc thích hợp cho sản xuất cây đậu tơng. Tuy
nhiên kết quả thực tiễn sản xuất của các năm qua cho thấy, chúng ta gặp nhiều
khó khăn về thời tiết, khí hậu đã ảnh hởng đến sản xuất đậu tơng trong điều
kiện nhiệt đới ẩm. Cụ thể sự biến động thất thờng về thời tiết cộng với nhiệt độ

và ẩm độ cao dẫn đến sâu bệnh nhiều nhất là đậu tơng vụ xuân làm cho năng
suất đậu tơng không ổn định, năng suất thấp có khi thất thu. Ngoài ra những
điều kiện khác nh điều kiện kinh tế xã hội còn hạn chế, sản xuất đậu tơng còn
gặp khó khăn, nh: kho bảo quản, cơ sở chế biến, chất lợng giống kém, kinh tế
cho nghiên cứu đậu tơng còn ít... Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cây đậu
tơng đã và đang đợc chú ý nghiên cứu, có những diện tích đậu tơng nhân giống
mới, đợc hỗ trợ về giống và các vật t phân bón khác cho nông dân nên đã có
giống tốt cung cấp cho sản xuất đặc biệt là vụ đậu tơng đông ở miền Bắc. Miền
Bắc tuy là vùng có truyền thống sản xuất đậu tơng, nhng việc mở rộng diện tích
vẫn còn nhiều hạn chế, nh: thời vụ, giá cả thị trờng.., mặc dù tiềm năng vẫn còn
khá nhiều. Theo ý kiến của các nhà hoạch định, nếu có chính sách đầu t phát
triển khoa học, phổ biến kỹ thuật, hỗ trợ giống, vật t và tiêu thụ sản phẩm cho
nông dân sản xuất thì có thể mở rộng thêm hàng chục vạn ha theo hớng tăng vụ
ở vùng đồng bằng, thay đổi cơ cấu cây trồng, mở rộng diện tích ở vùng đồi.
ở miền Nam trớc ngày giải phóng cây đậu tơng đợc trồng ở một số nơi
nh: Lâm Đồng, Đồng Nai, Hậu Giang, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Định, Quảng
Ngãi. Tính đến năm 1993, diện tích đạt 56.00 ha và đã có những điển hình năng
suất cao nh: Đồng Tháp, An Giang đạt (16 tạ -18 tạ/ ha). Nhìn chung năng suất
15
đậu tơng ở nớc ta còn thấp, nhiều nơi chỉ đạt 4 - 5 tạ/ ha. Nguyên nhân năng
suất đậu tơng ở nớc ta còn thấp do nhiều yếu tố có thể là do cha có giống tốt,
cha đầu t đầy đủ phân bón, gieo trồng cha kịp thời vụ... Do vậy để đa cây đậu t-
ơng trở thành một cây trồng chính, tơng xứng với giá trị chiến lợc của nó trong
sản xuất nông nghiệp ở nớc ta cần giải quyết toàn diện các vấn đề kinh tế xã hội
cũng nh khoa học kỹ thuật (Đỗ Thị Báu, 2000) [1].
-Về năng suất: Năng suất đậu tơng bình quân của nớc ta còn rất thấp, chỉ
ở mức từ 9,5 - 11 tạ/ha. Nếu lấy năng suất của năm 1992 để so sánh thì năng
suất của ta mới chỉ đạt (820 kg/ ha - 2088 kg/ha) năng suất bình quân của thế
giới. Nếu so với nớc có năng suất cao nhất thế giới thì năng suất thế giới so với
năng suất của ta chỉ mới bằng 22,87%. Tuy vậy, năng suất có tốc độ lại tăng tr-

ởng khá nhanh. Ví dụ:
- Năm 1976 năng suất bình quân của cả nớc chỉ đạt 5,25 tạ/ha.
- Năm 1995 đạt 9,6 tạ/ha. Song tốc độ tăng năng suất đậu tơng của những
thập kỉ gần đây ở miền Bắc nhanh hơn ở miền Nam.
+Về sản lợng: Trong vòng 20 năm từ 1976 -1995 tăng 6 lần. Tuy vậy nếu
so với yêu cầu thì còn thiếu rất nhiều, vì hiện tại sản lợng đậu tơng của chúng ta
tính theo đầu ngời chỉ mới 1,1 kg/ năm. Theo kế hoạch đến năm 2000 chúng ta
phải phấn đấu đạt 505,8 ngàn tấn, nh vậy cũng chỉ đạt mức bình quân đầu ngời
là 6,3 kg/ năm. Mức tiêu thụ dầu thực vật ở nớc ta rất thấp, mới bình quân đầu
ngời 2,2 kg/năm. Nếu nhân dân ta quen dùng dầu thực thì chính thị trờng nội
địa cũng khá lớn. Trong thời gian tới đây, cùng với nhịp độ tăng dân số và mức
tăng thu nhập cùng với việc thay đổi tập quán tiêu dùng dầu thực vật các loại và
dầu đậu tơng nói riêng sẽ tăng lên. Hiện nay chúng ta còn phải nhập đậu tơng từ
Thái Lan và Campuchia để đáp ứng nhu cầu cho ngời và làm thức ăn gia súc,
gia cầm.
Sản lợng đậu tơng thế giới 2004 là 2006 triệu tấn, bình quân trên 30 kg/ ng-
16
ời năm. Nhu cầu protein, dầu ăn cho ngời và chăn nuôi rất lớn. Nớc ta với trên
88 triệu ngời, hàng năm cần hàng triệu tấn đậu tơng để sản xuất các loại thực
phẩm cho ngời, dầu ăn nguyên liệu cho thức ăn chăn nuôi và nhiều ngành công
nghiệp khác. Hiện nay sản xuất đậu tơng của nớc ta có quy mô còn rất nhỏ bé,
nh:
Năm 1995 đạt 121.000 ha, năm 2000 có 124.000 ha, năm 2001
có140.000 ha, năm 2002 có 160.000 ha và năm 2003 có 170.000ha (trong đó
có trên 100.000 ha ở các tỉnh phía Bắc năng suất 13,5 tạ/ha, sản lợng 225.000
tấn, bình quân đầu ngời mới đạt gần 3 kg/năm, cha bằng 10% mức thế giới). Vì
vậy, thị trờng tiêu thụ nội địa đợc coi nh vô hạn, nếu có d đậu tơng thì xuất khẩu
tơng cũng thuận lợi, vì thế cần rất nhiều đậu tơng và chế phẩm đậu tơng mà
hiện nay cung không đủ cầu.
Trung Quốc sẽ là nớc tiêu dùng đậu tơng lớn nhất thế giới, năm 1984 tiêu

thụ dầu ăn không tới 30 vạn tấn, năm 2003 đã tiêu thụ dầu ăn đã tới 7 triệu tấn,
bã đậu 23,3 triệu tấn. Trớc đây, Trung Quốc là nớc xuất khẩu đậu tơng, nay là
nớc nhập khẩu đậu tơng lớn nhất thế giới, năm 2003 nhập 20,4 triệu tấn đậu t-
ơng, 1,7 triệu tấn dầu đậu tơng, cao hơn mức sản xuất trong nớc, năm 2004 vẫn
nhập 20,76 triệu tấn, tốn 6,98 tỉ USD. Trung Quốc có nhu cầu đậu tơng 25 - 30
triệu tấn/năm, trong nớc mới chỉ sản xuất đợc 15 triệu tấn/ năm, còn thiếu hụt
10-15 triệu tấn/ năm.
ở nớc ta, đậu tơng đợc trồng ở hơn 30 tỉnh, trong đó có khoảng 60 %
diện tích trồng đậu tơng ở các tỉnh phía Bắc, còn lại đợc trồng ở Cao Nguyên,
đất nghèo dinh dỡng và có độ màu mỡ thấp. (Phạm Văn Thiều, 1988) [31].
Hiện nay, cả nớc ta đã hình thành 4 vùng chính sản xuất cây đậu tơng là:
Vùng đông Nam bộ có diện tích lớn nhất là 26,2%, miền núi và trung du Bắc bộ
là 24,7%, vùng đồng bằng sông Hồng là 17,5%, vùng đồng bằng sông Cửu long
có diện tích nhỏ nhất là 12,4%. Tổng diện tích của 4 vùng này chiếm tới 60%
17
diện tích trồng đậu tơng của cả nớc. (Ngô Thế Dân và cs,1982) [6]. Trong 4
vùng trồng đậu tơng trên, vùng đồng bằng sông Cửu Long có diện tích nhỏ nhất
nhng lại là vùng có năng suất cao nhất trong cả nớc (năng suất bình quân là
18,8 tạ/ ha), cá biệt có những nơi đạt 30 tạ / ha). Miền đông Nam Bộ, đậu tơng
tập trung chủ yếu trên vùng đất đỏ thuộc tỉnh Đồng Nai. Tuy có diện tích gieo
trồng không đợc lớn, nhng đã chiếm 1/3 sản lợng đậu tơng của cả nớc. (Phạm
Văn Thiều và cs, 1988) [32]. Về sản lợng, riêng 3 vùng, Đồng bằng sông Hồng,
Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 63,8% sản lợng đậu tơng của
cả nớc. (Nguyễn Trọng Trang, 2005) [37].
Tuy nhiên, năng suất đậu tơng ở nớc ta còn rất thấp so với các nớc trong
khu vực châu á và chỉ bằng 43% so với năng suất bình quân của cả thế giới. Để
đáp ứng đợc nhu cầu ngày càng tăng ở trong nớc cũng nh xuất khẩu, theo kế
hoạch dự báo quốc gia thì đậu tơng cần đạt 770.442 tấn vào năm 2010 với diện
tích là 404.500 ha, Nhng đến năm 2005 sản lợng đậu tơng trong nớc mới chỉ đạt
245 nghìn tấn, năng suất mới chỉ đạt 13,24 tạ/ ha với diện tích mới chỉ có 185

nghìn ha. Vì thế để phát triển sản xuất đậu tơng ngoài công tác chọn giống phải
có các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ đặc biệt là phân bón cho cây, trong đó không
thể không kể đến các loại phân bón lá có tác dụng kích thích sinh trởng và phát
triển cây trồng.
ở nớc ta hiện nay theo Nguyễn Ngọc Thành, (1996) [21] đã hình thành
3 vụ đậu tơng trong một năm đó là:
+ Vụ xuân: Gieo tập trung từ 10/2 - 10/3, nh: Vùng Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh có thể gieo sớm hơn từ 20/1 - 20/2 để tránh gió Tây cuối tháng 4,
vùng tây bắc Bắc bộ (Sơn La, Lai Châu..) gieo muộn hơn từ 1/3 - 23/3.
+ Vụ hè: Gieo 25/5 - 20/6 có tập quán gieo đậu tơng hè giữa 2 vụ lúa thì
phải gieo kết thúc trớc 8/6 và dùng giống ngắn ngày nh ĐT12 (75 ngày).
+ Vụ đông: Gieo 15/9 - 5/10.
18
Hiện nay một số tỉnh đông bằng Bắc bộ, nh: Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú
Thọ.. để tranh thủ thời vụ trên lúa mùa sớm, nông dân đã trồng đậu tơng bằng
phơng thức làm đất tối thiểu hoặc gieo vãi không làm đất nhờ đó tiết kiệm đợc
nhân lực, tiết kiệm đợc chi phí cho thu nhập khá và mở rộng khả năng khai thác
diện tích vụ đông. Điển hình tại tỉnh Hà Tây vụ đông, nh:
- Năm 2004 trồng 24.00 ha đậu tơng thì có 10.000 ha gieo vãi.
- Năm 2005 trồng 28.830 ha thì chủ yếu gieo vãi và làm đất tối thiểu (Cục
nông nghiệp, 2005) [5].
Về giống đậu tơng. Tuỳ theo đất đai, mùa vụ, cơ cấu cây trồng của từng
địa phơng mà sử dụng giống cho thích hợp. Các nhà khoa học khuyến cáo, việc
bố trí giống thích hợp cho các mùa vụ nh sau: Các giống thích hợp cho vụ xuân:
VX93, AK06, ĐT200, DT96... đợc sử dụng ở Việt Nam.
19
2.4. Việc sử dụng phân bón lá đối với cây trồng.
Theo Bùi Quang Lanh, (2003) [15] từ những năm 60 của thế kỉ trớc, nông
dân miền Bắc đã sử dụng phân bón hoá học. Ban đầu mới có phân đạm sử dụng
phối hợp với phân chuồng đã đa năng suất lúa từ 1 tấn/ha/vụ lên 2 tấn/ ha/ vụ.

Khi nông dân biết sử dụng thêm phân lân thì năng suất thì năng suất lúa đợc
tăng lên 3 -3,5 tấn/ha/vụ và khi biết sử dụng thêm phân Kali thì năng suất lúa
tăng lên 5-7 tấn/ha/vụ. Nh vậy: Đạm, lân và kali là những yếu tố chính hạn chế
năng suất cây trồng, nếu cây trồng đợc bón đủ, bón cân đối với đạm, lân, kali và
bón đúng kĩ thuật thì năng suất tăng đột biến. Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy, cây trồng không chỉ cần đạm, lân, kali mà còn rất nhiều chất dinh dỡng
khác nh vôi, magiê, lu huỳnh, silíc, sắt, bo, kẽm, đồng, chất hữu cơ, vv...sẵn có
trong đất và đợc bổ xung hàng năm bằng nguồn phân chuồng. Quá trình canh
tác hàng ngàn đời nay làm chất dinh dỡng cần thiết ngày càng cạn kiệt. mặt
khác cuộc cách mạng về giống hiện nay cho ra đời nhiều loại giống cây trồng
năng suất cao, đòi hỏi sử dụng nhiều chất dinh dỡng, nếu chỉ bón đạm, lân, kali
hay NPK thông thờng thì cây trồng không phát huy năng suất và ảnh hởng đến
chất lợng nông sản.Tuy nhiên trong thực tế không phải ngời nông dân nào cũng
sử dụng phân bón đúng kĩ thuật, nên có nhiều ngời đàu t thâm canh cao nhng
năng suất, chất lợng nông sản lại giảm do bón không cân đối, không đúng thời
điểm. Việc sử dụng phân bón qua lá sẽ khắc phục đợc các nhợc điểm trên. Theo
Chu Thị Thơm và cs, (2006) [25] thì phân bón qua lá là một tiến bộ kĩ thuật đợc
dùng nhiều trong thời gian gần đây. Tuy vậy, bón phân qua lá không thể hoàn
toàn thay thế đợc 100% bón phân qua đất. Các loại phân bón qua lá là những
hợp chất dinh dỡng, có thể là các nguyên tố đa lợng, trung lợng hoặc vi lợng, đ-
ợc hoà tan trong nớc và phun lên cây để cây hấp thu. Đây là cách bón phân mới
đợc phổ biến trong những năm gần đây, bởi vì thông thờng phân đợc bón vào
đất và đợc cây trồng hấp thu qua rễ.
20
Bón phân qua lá phát huy đợc hiệu lực nhanh. Tỷ lệ cây sử dụng chất
dinh dỡng thờng đạt ở mức cao, cây sử dụng đến 90% chất dinh dỡng bón qua
lá, trong khi đó bón qua đất cây chỉ sử dụng 45-50%.
Bón qua lá tốt nhất là các đợt bón bổ xung, bón thúc để đáp ứng nhanh
các nhu cầu dinh dỡng của cây. Đặc biệt là giúp cây chóng phục hồi sau khi bị
sâu bệnh, bão lụt gây hại, hoặc là khi trong đất vì những lí do khác nhau bị

thiếu chất dinh dỡng một cách đột ngột.
Các công trình nghiên cứu khoa học cũng nh thực tế sản xuất cho thấy là
bón phân qua lá có tác dụng rõ rệt trong việc làm tăng năng suất và phẩm chất
nông sản, tăng giá trị thơng phẩm của nông sản hàng hoá. Nh ngời ta phun urê
lên lá với nồng độ 0,5-1,5 %. Tuy nhiên phần lớn các loại phân bón qua lá là
những hỗn hợp các chất dinh dỡng đa lợng và vi lợng ở dạng hoà tan trong nớc.
Để nâng cao hiệu quả của phân bón qua lá, ngời ta thờng bổ xung các chất kích
thích sinh trởng cây, các phi tohocmon, các ezim vào.
Hiện nay trên thị trờng nớc ta có rất nhiều loại phân bón qua lá. Trong đó
có những loại do các xí nghiệp trong nớc sản xuất nh HVP301 N, Comix;
HB101, Biofact, BK104, CSF002, HUMID. Các loại phân bón qua lá nhập từ n-
ớc ngoài có Atomix, Đặc đa thu, Lục thuỷ thần, Open all...
Phân bón lá thờng đợc bán dới dạng lỏng, tuy vậy vẫn có một dạng bột
nh Thần nông, Thiên nông, nhập từ Thái Lan.. Khi sử dụng phân bón qua lá cần
chú ý: Hoà loãng phân theo đúng tỉ lệ đợc ghi trên bao bì. Khi độ ẩm không khí
thấp, đất bị hạn nặng thì không nên dùng phân bón lá vì dễ làm rụng lá.
Không nên nhầm lẫn giữa phân bón lá với chất kích thích sinh trởng. Bởi
vì chất chất kích thích sinh trởng chỉ phát huy đợc tốt khi cây có đầy đủ chất
dinh dỡng, nếu không cây có thể bị thiếu chất dinh dỡng dẫn đến những hậu
quả xấu đén sinh trởng và phát triển của cây. Vì vậy, khi trong phân bón lá có
chất kích thích sinh trởng thì các chất dinh dỡng đã có sẵn trong phân, cho nên
21
2 loại chất sẽ phát huy tác dụng của nhau. Nếu chỉ dùng riêng chất kích thích
sinh trởng thì phải bổ xung thêm phân bón cây mới đủ dinh dỡng để tăng trởng.
Phân bón qua lá có thể là các loại phân đơn nh N, P, K, Cu, Zn vv.
Không nên sử dụng phân bón lá khi cây đang ra hoa, lúc trời đang nắng.
Vì vậy sẽ làm rụng hoa, quả và làm giảm hiệu lực của phân bón (Nguyễn Hạc
Thuý, 2001) [31].
Lá là cơ quan duy nhất thực hiện đợc quang hợp, tạo ra năng suất, đồng
thời cũng là cơ quan có khả năng hấp thu chất dinh dỡng cho cây. Phân bón qua

lá có thể có nguồn gốc hoá học hoặc hữu cơ. Phân bón qua lá có nguồn gốc hoá
học thờng là các chất vi lợng.
Ngoài đạm, lân, kali và vi lợng, cây trồng còn cần những chất dinh dỡng
hữu cơ khác nh vitamin, đạm hữu cơ (protein), các chất kích thích sinh trởng
vv.. để sinh trởng và phát triển. Các chất này có cấu tạo phân tử lớn và phức tạp
hơn đạm, lân và kali, do vậy, rễ không hấp thu đợc mà chỉ có lá mới hấp thu đ-
ợc.
Để bổ xung kịp thời nguồn dinh dỡng cho cây trồng ngoài phơng pháp
bón phân hữu cơ, phân chuồng hoai mục...kết hợp với các loại phân khoáng, ng-
ời ta còn áp dụng phơng thức bón phân qua lá để tạo điều kiện cho cây trồng
hấp thu dinh dỡng, dễ dàng tạo điều kiện cho cây trồng sinh trởng và phát triển
tốt. Theo Vũ Cao Thái, (1996) [26], đã nhận định, bón phân qua lá là một giải
pháp chiến lợc an toàn dinh dỡng cho cây trồng. Khả năng hấp thu dinh dỡng
qua lá đợc phát hiện vào đầu thế kỉ XIX bằng phơng pháp đồng vị phóng xạ cho
thấy cây trồng ngoài bộ phận lá, các bộ phận khác nh thân, cành, hoa, trái đều
có thể hấp thu đợc chất dinh dỡng. Mặt khác, theo tác giả trên cho rằng diện
tích lá của cây bằng 15-20 lần diện tích đất do tán che phủ, do đó nhận đợc dinh
dỡng bằng phun qua lá đợc nhiều hơn.
Phân bón lá do các cơ sở ở trong nớc sản xuất đợc chia làm 2 dạng chính:
22
- Sử dụng các chất sinh trởng giúp cây tăng cờng sinh trởng, từ đó tăng
khả năng hấp thu các chất dinh dỡng đa lợng.
- Không chứa các chất sinh trởng mà chỉ dựa vào nguyên tố khoángvi l-
ợng, đa lợng đợc phối hợp trộn theo một tỉ lệ hợp lí giúp cây trồng sinh trởng ổn
định một cách tự nhiên.
Trong những năm 90 của thập kỉ 90, châu Âu đã chế tạo và sử dụng rộng
rãi các loại phân phức hữu cơ. Ưu điểm của loại phân bón lá phức hữu cơ là:
Nhờ khả năng tạo phức giữa các axit anim với các kim loại nh Cu
++
, Zn

++
, Mo
++
,
Ni
++
, Mn
++
, Mg
++
,

Ca
++
mà ta có thể đa cùng một lúc hầu hết các nguyên tố vi l-
ợng, đa lợng và trung lợng trong các cấu tạo của phức chất. Cấu trúc dạng phức
tạo khả năng bền vững cho các phân tử do đó khả năng bảo quản cất giữ đợc lâu
bền, cũng nhờ có cấu trúc dạng phức hữu cơ nên độ pH ổn định tuyệt đối. Các
axit amin trong cấu trúc của phân bón lá có tác dụng cung cấp trực tiếp dinh d-
ỡng trực tiếp cho cây và tham gia ngay vào việc tổng hợp và kích thích khả năng
sinh tổng hợp Protein trong cây, kích thích sự hấp thu các yếu tố dinh dỡng
khác. Cũng nhờ có các u điểm trên, hiệu suất đồng hoá của cây đối với các loại
phân bón lá này cao hơn so với các loại phân bón lá khác, phân bón đợc chế tạo
ở dạng dễ bảo quản (Hoàng Ngọc Thuận, 1996) [28].
ở Việt Nam, Phân bón lá phức hữu cơ Pomior đã đợc thử nghiệm trên
diện rộng từ năm 1995 ở Yên Hng (Quảng Ninh), Phúc Yên (Sơn La), Yên
Dũng, Hiệp Hoà (Bắc Giang), Tiên Sơn (Bắc Ninh), Ngọc Lạc (Thanh Hoá), Mỹ
Hào (Hng Yên), Sóc Sơn, Đông Anh, GIa Lâm (Hà Nội), Nghệ An, Nha Trang,
Thừa Thiên Huế. Trên tất cả các loại cây trồng lúa màu, cây ăn quả, hoa và cây
cảnh. ở tất cả các địa phơng trên đều cho những nhận xét tốt: năng suất tăng

nhanh, cây sinh trởng tốt, ít sâu bệnh, tiết kiệm phân bón và nhân lực, phẩm
chất rau và quả đạt chất lợng cao. (Hoàng Ngọc Thuận và CS, 1996) [27].
Qua thực tế phân bón lá phức hữu cơ Pomior có tác dụng cung cấp đầy
23
đủ và kịp thời các nguyên tố dinh dỡng cho các loại cây trồng ở mọi giai đoạn
sinh trởng. Đặc biệt là ở những giai đoạn khủng hoảng dinh dỡng của cây trồng
nh sau khi kết thúc nảy mầm (khi cây có một lá thật), thời kì cây tăng trởng
mạnh, thời kì phân hoá mầm hoa, thời kì nở hoa và thời gian thụ tinh, thụ phấn
hình thành quả. Phân bón lá phát huy đợc hiệu quả mạnh đối với cây trồng trên
đất mặn, đất hạn (thời kì hạn cây không thể hấp thu đầy đủ chất dinh dỡng
trong đất có khi đợc ngừng trệ hoàn toàn). (Hoàng Ngọc Thuận và CS, 2005)
[29].
Phân vi sinh qua lá BioGro là chế phẩm đợc chiết rút từ vi sinh vật nên
và vì vậy, nó mang nguồn gốc hữu cơ. Cũng chính do đây là chế phẩm đợc chiết
rút từ vi sinh vật nên tác dụng của nó có thể thấy nhanh hơn (5- 7 ngày) so với
vi sinh vật bón qua rễ. Phân vi sinh BioGro bón qua lá giúp cây trồng phát triển
nhanh hơn, năng suất cao hơn, rút ngắn thời gian thu hoạch (Chu Thị Thơm và
cs, 2006) [25]. Từ trớc đến nay, ngời ta vẫn phun cho lá các loại phân vi lợng,
đa lợng có nguồn gốc hoá học.
Phân vi sinh bón qua lá là chế phẩm đợc chiết rút ra từ vi sinh vật, cung
cấp các chất dinh dỡng hữu cơ, chất kích thích sinh trởng và các loại vitamin.
Cây trồng dễ hấp thu phân vi sinh bón qua lá... Phân vi sinh bón qua lá BioGro
có thể phun cho các loại cây trồng. Tuỳ từng loại cây, trong một vụ có thể phun
cho nhiều loại cây trồng, Tuỳ từng loại, trong một vụ có thể phun nhiều lần,
mỗi lần có thể phun cách nhau 2 tuần.
Với cây lúa, có thể phun 2-3 lần, phun cho luống mạ trớc khi cấy 5-7
ngày, trớc khi trỗ 5-7 ngày.
Với cây rau và ngô, từ khi có 3-4 lá, 2 tuần phun 1 lần trong 1.5 tháng đầu.
Với cây chè, phun sau mỗi lần hái 10-15 ngày, khi xuất hiện lá non.
Cây trong vừơn ơm và cỏ vận động rất thích hợp với phân vi sinh bón qua

lá. Lá non hấp thu chất dinh dỡng tốt hơn lá già, mặt dới hấp thu chất dinh dỡng
24
tốt hơn mặt trên của lá (Chu Thị Thơm và cs, 2006) [25].
Tại Lâm Đồng, Trung tâm khuyến nông Lâm Đồng đã thử nghiệm và cho
kết quả rất khả quan trên các giống cây trồng. Với cây cà chua khi phun 26 ml
ĐH1 cho năng suất 614 tạ/ha tăng 13,74% so với đối chứng, phun 36 ml ĐH1
cho năng suất 717,9 tạ/ha tăng 32,99% so với đối chứng. Đối với cây dâu tây,
khi phun 26ml ĐH1 sản lợng đạt1.210 kg/1000m
2
, tăng 7,07% so với đối
chứng, trong đó tỉ lệ quả loại 1 đạt 52,15%. Khi phun 36ml ĐH1 sản lợng 1.530
kg/1000m
2
, tăng 35,49% so với đối chứng, trong đó tỷ lệ quả loại 1 đạt 52,15%
(Nguyễn Xuân Linh, 1998) [ 19].
Đối với lúa Bắc u 64 sau cấy 7 ngày(15/8/1995) toàn bộ diện tích bị ngập
nặng chỉ còn 1-1,5 % số lá còn lại trên mặt nớc. Toàn bộ diện tích 5 ha đợc làm
cỏ sục bùn sau khi rút nớc, bón 1 sào 10 kg Superlân và phun bổ xung 3 lần
phân bón lá Pomior. Kết quả sau 5 ngày lá non bắt đầu mọc trở lại, sau 8-10
ngày đẻ nhánh rộ và sinh truởng bình thờng. Số đẻ nhánh bình quân 20-22 dảnh
/khóm, số dảnh hữu hiệu 8-10 rảnh. So với diện tích chung toàn huyện, diện tích
lúa Bắc u bị ngập nặng đợc phun Pomior đã tăng năng suất 18,1 ta/ha. Cũng
trong thời gian này Nguyễn Tiến Huy, (1997) [16], đã thực hiện thí nghiệm về
phân bón lá Sài Gòn VA và Sài Gòn (SAFER) HQ phân bón lá có tác dụng tốt
đối với lúa, biểu hiện ở: lá lúa mỡ, màu xanh sáng, dày hơn đối chứng, bụi lúa
cứng cáp, bộ lá giữ bền làm cho lúa trỗ tập trung, tỷ lệ lép thấp, số hạt chắc tăng.
Năng suất lúa đợc phân bón lá Sài Gòn tác động chỉ trên 10% vụ xuân 1996 ở Hà
Tây, nên số tăng tuyệt đối khá cao 800 - 900 kg thóc/ha. Đầu t thêm mỗi ha 30
công phun (mỗi công 10.000 đồng) và 30.000 đồng phân bón, vậy đầu t thêm
1.000 đồng thì thu đợc 2,4- 2,7 kg/thóc (cũng có thể nói mỗi công lao động sử

dụng phân này đã thu đợc 200 kg thóc).
Đối với lúa Mộc tuyền đợc phun ở giai đoạn mạ và 2 lần sau cấy: Lúa hồi
xanh nhanh hơn, đẻ sớm, đẻ khoẻ so với ruộng không phun. Bình quân số nhánh
25

×