Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Top 6 mẫu phân tích Làng Kim Lân đầy đủ và chọn lọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.2 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Phân tích Làng của Kim Lân mẫu 1</b>


Kim Lân là một nhà văn có sở trường viết truyện ngắn. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ
viết về sinh hoạt của nông dân và cảnh ngộ của người nơng dân. Truyện "Làng" được viết
trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn
nghệ 1948.


Truyện tập trung nói về lịng u nước của ơng Hai, lịng u nước này phát xuất từ tình
u nơii chơn nhau cắt rốn của mình và nó đã hịa hợp giữa làng và nước. Tình cảm và ý
nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người dân Việt Nam ta trong những ngày đầu
kháng chiến chống Pháp.


Qua hình tưởng ơng Hai, ta sẽ hiểu rõ lòng yêu nước của nhân dân ta lúc bây giờ. Làng
chợ Dầu có chiến sự, ơng Hai phải tản cư đốt làng Thắng, vùng tự do theo chính sách của
Cụ Hồ. "Tản cư là yêu nước". Nhưng không phải ra khỏi làng chợ Dầu là ông Hai bỏ lại
sau lưng tất cả mà ngược lại lúc nào ông cũng trông ngóng tin tức và theo dõi những biến
chuyển của làng chợ Dầu. Đó là nơi ơng sinh cơ lập nghiệp, nơi ông sinh ra và lớn lên.
Biết bao tình cảm đã gắn bó ơng với cảnh vật, với dân làng nơi mảnh đất quê hương ấy.
Bỡi lẽ đó mà mỗi khi nói đến làng chợ Dầu ơng nói với giọng "say mê và náo nức lạ
thường. ơng Hai đã yêu làng chợ Dầu bằng một tình yêu thật đặc biệt. Ơng u tất cả
nhũng gì ở làng ơng : Những nhà ngói san sát, đường lát tồn đá xanh... Cái sinh phần
của viên quan Tổng đốc...


Từ sau Cách mạng tháng Tám, lịng u làng q của ơng Hai có những chuyển biến rõ
rệt. Trước kia ơng hãnh diện vì làng ơng giàu có, to đẹp. Giờ đây ông lại tự hào về những
cái khác : phong trào cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những buổi đắp ụ, hơ,
giao thơng hào... ln cả cái phịng thơng tin, cái chịi phát thanh... Trong con mắt ơng
Hai, cái gì của làng chợ Dầu đều đáng tự hào tốt. Vì vậy cho nên từ lúc phải đi tản cư,
ông khổ tâm day dứt không nguôi. Quả thật cuộc đời và số phận của ơng thật sự gắn bó
với những buồn vui của làng. Tự hào và yêu nỗi chơn nhau cắt rốn của mình đã trở thành
truyền thống, là tâm lí chung của mọi người dân lúc bấy giờ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

sắc về con người nhất là tâm lí của ngừơi nơng dân nên nhà văn Kim Lân mới diễn tả rất
đúng tâm trạng nhân vật ông Hai như vậy.


Từ đó vì nỗi khổ tâm này ơng Hai chỉ còn biết trút vào đứa con nhỏ ngây thơ: "Nhà ta ở
làng chợ Dầu", "ủng hộ Cụ Hé con nhỉ !" Những lần tâm sự ấy thực chất là lần tự nhủ với
chính mình, tự giãi bày nỗi lịng mình nhằm khẳng định tình yêu sâu nặng của mình với
cái làng chợ Dầu đồng thời cũng khẳng định lòng thủy chung với cách mạng với kháng
chiến mà biểu tượng là Cụ Hồ Lịng u nước của ơng Hai cịn được biểu hiện rõ nét hơn
khi nghe tin đính chính : Làng bị giặc tàn phá, không theo Tây. Những nỗi lo âu, xấu hổ
tan biến đi thay vào đó là niềm vui mừng khơn xiết nên ơng nói "Tây nó đốt nhà tơi rồi
ơng chủ ạ. Đốt nhẵn !". Đây quả là một niềm vui kì lạ. Niềm vui mừng này thể hiện một
cách đau xót và đầy cảm động về tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai. Đây là
tình cảm đặc biệt của ông Hai cũng là tình cảm chung của những người nơng dân hay
đúng hơn là của nhân dân ta lúc bây giờ, thời kháng chiến chống Pháp. Đối với lũ trong
lúc này, trước hết và trên hết là Tổ quốc. Vì Tổ quốc họ sẵn sàng hi sinh tất cả dù đó là
tính mạng hay tài sản. Tình u nước của nhân dân ta là như thế.


Thành công của Kim Lân là xây dựng theo cốt truyện tâm lí, tạo tình huống có tính căng
thẳng thử thách nội tâm nhân vật để từ đó bộc lộ tâm trạng, tính cách nhân vật. Nơi đặt
tác phẩm vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ta mới thấy giá trị thành công
của nó. Bởi lẻ thơng qua nhân vật ơng Hai với những ngôn ngữ, cử chỉ, tâm trạng... tiêu
biểu là một người nơng dân có cá tính riêng : vui tính, thích trị chuyện nhưng cũng ham
nói chữ đó cũng là nét tâm lí chung của quần chúng. Cách trần thuật tự nhiên, linh hoạt
khiến cho truyện sinh động, hấp dẫn hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>2. Phân tích Làng của Kim Lân mẫu 2</b>


Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam. Ơng có một vốn sống vơ cùng sâu sắc về nông
thôn Việt Nam. Những thú chơi dân dã mang cốt cách "phong lưu đồng ruộng" như thả


diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa
xuân, v.v... được ông viết rất hay và cho ta nhiều thú vị. Ông là một trong những cây bút
truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua 2 tác phẩm: Con chó xấu xí và Nên
vợ nên chồng.


Viết về đề tài nơng dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân thành công hơn cả.
Nhân vật chính của truyện là ơng Hai đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc, đẹp
đẽ. Ơng Hai là một lão nơng, cần cù chất phác, giàu lịng u q hương đất nước. Ơng
gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành tuyệt đối vào sự lãnh
đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Ơng Hai đã sống qua hai chế độ, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ơng được
học "bình dân học vụ", biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình u làng của ơng
Hai. "Làng ta phong cảnh hữu tình"... không yêu làng sao được? Cái làng Chợ Dầu vốn là
nơi chơn nhau cắt rốn của ơng, "nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh", "đường trong làng
toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió ...bùn khơng dính đến gót chân"...


Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu
ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe "cái dinh cơ cụ thượng làng tơi có lăm lắm là của.
Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy...". Ông yêu làng Chợ Dầu với tất cả sự hồn nhiên,
ngây thơ của người ít học. Ơng đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái
lăng ấy! Đáng lẽ ông khơng nên khoe, khơng nên "hả hê cả lịng".


Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã? Nhắc lại
chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ
nhàng. Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tất cả tình cảm
trong sáng, chân thành. Ơng đã có nhiều thay đổi về mặt nhận thức. Ơng khơng bao giờ
cịn "đả động" đến "cái sinh phần" ấy nữa, ơng biết "thù nó" đến tận tim gan.


Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh cao cả! Cái làng Chợ


Dầu của ơng "mà cái phịng thơng tin tun truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chịi phát
thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy". Ơng khoe làng
mình "những ngày khởi nghĩa rầm rập", các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập
quân sự, "nhất là những hố, những ụ, những giao thơng hào của làng ơng thì lắm cơng
trình khơng để đâu hết!".


Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và
hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một
người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác... hiện lên một cách chân thực,
ta thấy gần gũi, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê hương là một trong
những tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Việt Nam.


Quyết tâm kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch cũng là một
nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ơng Hai. Kháng chiến thì khắp nơi "Ruộng rẫy là
chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nơng là chiến sĩ". Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai
vẫn ở lại cùng với đội du kích "đi đào đường, đắp ụ" để bảo vệ cái làng Chợ Dầu thân
u. Khi hồn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc hách, cực chẳng đã phải xa q hương,
ơng tự an ủi mình: "Thơi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được thì tản cư âu cũng là
kháng chiến!".


Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ơng Hai có phần thay đổi. Ơng ít nói ít cười, lầm lầm lì lì,
thậm chí cáu gắt, chửi bới vợ con. Ồng vô cùng đau khổ: "Chúng mày làm khổ ơng!
Chúng mày làm khổ ơng vừa vừa chứ! Ơng thì giết hết, ơng thì giết hết!". Chúng ta cảm
thơng với "tâm sự" u uẩn của ông, thương ông lắm!


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

"Việt gian theo Tây",.., "vác cờ thần ra hoan hô" lũ giặc cướp! ông tủi nhục cúi gằm mặt
mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ơng chửi thề một
cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên.


Vợ con vừa buồn vừa sợ. "Gian nhà lặng đi, hiu hắt". Ơng sợ mụ chủ nhà... có lúc ơng


nghĩ quẩn "hay ta quay về làng"... nhưng rồi ông lại kiên quyết: "Làng thì yêu thật, nhưng
làng theo Tây mất rồi thì phải thù!. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế miêu tả những biến thái
vui, buồn, lo, sợ... của người nơng dân về cái làng q của mình. Họ đã yêu làng trong
tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình u làng. Đó là một bài học vơ cùng quý
giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi chúng ta!


Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một tình tiết cảm động và thú vị:


... - "À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?"


- "Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh mn năm!"


Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ơng chảy rịng rịng trên hai má... Lịng trung thành
của cha con ơng, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc,
kiên định, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca ngợi. Vì thế, khi cái tin thất thiệt
"cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây" được cải chính thì ơng Hai là người sung sướng
nhất.


Ông "tươi vui, rạng rỡ hẳn lên", "mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ...".
Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để "khoe" cái tin làng Chợ Dầu đánh
giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng
cùng ông.


Gấp trang sách lại, chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ơng Hai, về nghệ thuật
kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân. Những phẩm chất tốt
đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê hương đất nước... tiêu biểu cho
bản chất cao quý, trong sáng của người dân cày Việt Nam. Chính họ đã đổ mồ hơi làm
nên những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu,
đánh giặc "giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"... (Thép Mới).



"Quê hương là chùm khế ngọt..." là niềm vui, nỗi buồn, là ước mơ đẹp của mỗi chúng ta.
Quê hương đang đổi mới "ngói hóa", no ấm, giàu có trong thanh bình. Bài học sâu sắc
nhất đối với em khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê hương đất nước, từ
lòng tự hào và biết ơn người dân cày Việt Nam.


<b>3. Phân tích Làng của Kim Lân mẫu 3</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Truyện ngắn Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong
thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết
về lòng u nước của ơng Hai Tu, lịng u nước này xuất phát từ tình yêu quê hương,
yêu làng sâu sắc của ơng. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người
nông dân VN ta trong những ngày đầu chống Pháp.


Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết , yêu đến nỗi đi đâu ông
cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà khơng
cần biết người nghe có chú ý hay khơng. Ơng khoe làng ơng có nhà ngói san sát, sầm uất,
đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn khơng
dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, khơng có lấy một
hạt thóc đất.


Ơng cịn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ơng. Ơng tự hào, vinh dự vì làng mình
có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành cơng, nó đã giúp ơng
hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những
ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi
tập. Ơng cịn khoe cả những hố , những ụ, những hào,... lắm cơng trình khơng để đâu hết.


Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng
ông mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ơng khổ tâm day dứt
khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ơng Hai thật sự gắn bó với buồn vui của
làng. Tự hào và yêu nơi "chôn rau cắt rốn" của mình trở thành một truyền thống và tâm lý


chung của mọi người nơng dân thời bấy giờ.


Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản, nhỏ: cây đa, giếng nước, sân
đình... và nâng cao lên đó chính là : tình u đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói
bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : "lịng u nhà, u làng xóm, u miền quê trở nên
lòng yêu tổ quốc".


Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng chợ
Dầu và ơng nghe tin cả làng ông Việt gian theo tây. Cổ ông lão "nghẹn ắng lại, da mặt tê
rân rân" ông lão lặng đi, tưởng như khơng thể thở được. Ơng cảm thấy đau đớn và nhục
nhã vì cái làng chợ Dầu yêu q của mình theo giặc.


Ơng nguyền rủa bọn theo Tây: "chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi
làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Cũng chính từ lúc ấy, ơng khơng
dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến
báo khơng cho gia đình ơng ở nữa, ơng thấy tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra ý định:
"hay là quay về làng?" nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ơng lão phản đối ngay vì: "làng thì
u thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù."


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Trong những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể hiện trong những lời trị
chuyện của ơng với đứa con út. Trò chuyện với con như là để thanh minh cho làng mình.
Ơng hỏi con: "con ủng hộ ai?" Thằng bá giơ tay mạnh bạo và rành rọt: "Ủng hộ cụ Hồ
Chí Minh mn năm". Cái lịng của bố con ơng là thế đấy "chết thì chết có bao giờ dám
đơn sai". Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ơng khơng theo giặc.


Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung sướng. Ông đi từ
đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình khơng theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông
bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê: "bác Thứ đâu rồi ! Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó
đốt nhà tơi rồi bác ạ. Đốt nhẵn ! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ơng
ấy cho biết... cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết !


toàn là sai sự mục đích cả"


Qua lời khoe của ơng Hai, điều làm ta cảm động đó là ơng khơng hề tiếc hay buồn khi
ngôi nhà của ông bị đốt . Niềm vui vì làng khơng theo giặc đã chống hết tâm trí ông.
Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch. Quả thật, Kim Lân rất thành cơng trong việc khắc
họa hình ảnh của ông Hai, một trong những người dân bấy giờ, đơn giản, chất phác, tiêu
biểu cho tầng lớp nông dân Việt Nam sau cách mạng tháng 8.


Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ
thuật xây xựng truyện ngắn Làng, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ơng
Hai là điển hình. Lời nói của ơng hai đúng là lời nói của những người nơng dân thời bấy
giờ, kể cả những từ dung sai: "bác Thứ đâu rồi... Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục đích
cả".


Bên cạnh đó Kim Lân cịn thành cơng trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Diễn biến tâm
lý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe
về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục, và khi biết làng
mình không theo giặc, ơng sung sướng, thậm chí cịn khoe cả tin nhà mình bị đố cháy
một cách vui sướng, hả hê.


Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý nhân vật như vậy, Kim Lân
đã chứng tỏ được tài nghệ của mình. Truyện ngắn Làng là một tác phẩm khá thành cơng
khi viết về lịng yêu nước, yêu làng của người nông dân VN thời kháng chiến chống
Pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>4. Phân tích Làng của Kim Lân mẫu 4</b>


Trong cuộc kháng chiến của dân tộc, lòng yêu nước của mỗi người dân sẽ là sức mạnh vô
biên tạo nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Có nhiều cách thể hiện lịng u nước
của mình, có thể là những việc làm nhỏ bé những lại có ý nghĩa lớn lao. Yêu làng, gắn bó


với làng cũng là cách thể hiện lòng yêu nước. Truyện ngắn Làng của Kim Lân nói về một
người nơng dân có tình cảm gắn bó với làng, với nước sâu sắc.


Truyện ngắn Làng kể về Ông Hai là một người u làng, gắn bó với làng, lúc nào ơng
cũng khoe về cái làng của mình. Mỗi khi nói về Làng, ông nói một cách say sưa mà
không cần biết người nghe có chú ý hay khơng. Trước tiên ơng khoe về cơ sở vật chất
của làng ơng, nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa
đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn khơng dính đến gót chân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi
tập. Ơng cịn khoe cả những hố, những ụ, những hào,... lắm cơng trình không để đâu hết.


Khi giặc kéo về làng, ông muốn ở lại cùng dân làng chiến đấu để bảo vệ làng mình,
nhưng do u cầu của cấp trên ơng phải xa làng. Phải xa làng đến một vùng đất khác ông
đã mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Nơi đất khách quê người, ông khổ tâm day dứt
khôn nguôi. Có thể nói cuộc đời và số phận của ơng Hai thật sự gắn bó với buồn vui của
làng. Tình yêu nước của mỗi người có thể bắt nguồn từ cái đơn giản thuộc về làng mình
như cây đa, giếng nước, sân đình.


Dù xa làng nhưng ơng lão ln hướng về làng, khi nghe tin làng theo Tây, cổ ông lão
"nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân" ông lão lặng đi, tưởng như khơng thể thở được. Ơng
cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu u q của mình theo giặc. Ơng
nguyền rủa bọn theo Tây: "chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm
cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này".


Cũng chính từ lúc ấy, ơng khơng dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe
ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo khơng cho gia đình ơng ở nữa, ơng thấy tuyệt
đường sinh sống và ông nảy ra ý định: "hay là quay về làng?" nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức
bị ơng lão phản đối ngay vì: " làng thì u thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù." Ơng
Hai đã phải trải qua cảm xúc đau đớn khi phải suy nghĩ xem nên về làng hay khơng, đó là


sự thất vọng và đau đớn đến cùng cực trong nội tậm của nhân vật.


Nhà văn đã rất đồng cảm với nhân vật khi miêu tả một cách chân thật tâm trạng của nhân
vật khi phải chứng kiến nỗi đau mất làng mất nước. Ơng Hai khơng biết tâm sự nỗi đau
giày vị của mình nên đành trị chuyện với đứa con út, đó cũng là cách để ơng thanh minh
cho làng mình. Ơng hỏi con: "con ủng hộ ai?" Thằng bá giơ tay mạnh bạo và rành rọt:
"Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh mn năm". Cái lịng của bố con ơng là thế đấy "chết thì chết
có bao giờ dám đơn sai".


Khi nhận được tin đính chính rằng làng ơng khơng theo giặc, thì nỗi vui mừng, sung
sướng hiện rõ trên khn mặt và cử chỉ của ơng. Ơng đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe
cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung
sướng, hả hê: "bác Thứ đâu rồi! Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt
nhẵn! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ơng ấy cho biết... cái tin, cái
tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! toàn là sai sự mục đích cả".


Nhà bị đốt nhưng ơng khơng hề tỏ ra lo lắng mà còn rất vui, bởi cái nhà kia không quan
trọng bằng danh dự, tinh thần chiến đấu của làng ơng. Tình cảm của ơng đối với làng thật
xúc động, thật đáng khâm phục biết bao.


<b>5. Phân tích Làng của Kim Lân mẫu 5</b>
Quê hương là chùm khế ngọt


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Quê hương là cầu tre nhỏ


Con về rợp bướm vàng bay.


(Quê hương – Đỗ Trung Quân)


Quê hương trong tâm khảm mỗi người là nơi thân thương nhất, bình dị nhất. Tình u


q hương vì thế ln là một chủ đề xuyên suốt trong văn học. Truyện ngắn Làng cũng
nằm trong mạch nguồn cảm xúc ấy. Đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của
Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Truyện đã
khắc họa nhân vật ông Hai – một lão nông cần cù, chăm chỉ, mang nặng lịng u làng,
u kháng chiến.


Ơng Hai u cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông
cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ơng nói một cách say sưa mà khơng
cần biết người nghe có chú ý hay khơng. Ơng khoe làng ơng có nhà ngói san sát, sầm uất,
đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn khơng
dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, khơng có lấy một
hạt thóc đất.


Ơng còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ơng. Ơng tự hào, vinh dự vì làng mình
có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành cơng, nó đã giúp ơng
hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những
ngày khởi nghĩa dồn dập những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi
tập. Ơng cịn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm cơng trình khơng để đâu hết.


Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng
ơng mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt
khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của
làng.


Tự hào và u nơi "chơn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lí
chung của mọi người nơng dân thời bây giờ. Có thể tình u nước của họ bắt nguồn từ
cái đơn giản, nhỏ: cây đa, giếng nước, sân đình… và nâng cao lên đó chính là: tình yêu
đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua: "lịng u
nhà, u làng xóm, u miền q trở nên lịng u Tổ quốc".



Tình u làng của ơng Hai càng được thể hiện rõ qua những ngày ông đi tản cư. Ông luôn
nhớ về làng những ngày ở vùng tản cư, ông yêu làng, yêu đường làng, ngõ xóm, yêu nhà
ngói, sân gạch. Ơng u tất cả những gì gần gũi, độc đáo của làng. Ông yêu những giờ
phút hạnh phúc được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Từ tình yêu làng
nồng cháy ấy, truyền thống ấy, ông đến với Cách mạng từ lúc nào, từ bao giờ mà chính
ơng cũng khơng hay biết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

bao nhiêu là tin hay: “Một em nhỏ xung phong bơi ra giữa hồ Hồn Kiếm cắm quốc kì
lên Tháp Rùa”, “Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng
quả lựu đạn cuối cùng”; “Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt
được một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ.


Chao ôi! Bao nhiêu là tin hay, ruột gan ông lão cứ náo nức cả lên. Đến đâu, ông cũng
thấy hãnh diện, ông hay khoe về làng, về tinh thần kháng chiến của làng. Sau Cách mạng,
ông khoe về làng cũng khác, ơng khơng cịn tự hào vì cái sinh phần cụ Thượng nữa mà
thấy thù nó. Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa đến cho người nông dân những
nhận thức mới, suy nghĩ mới về làng. Họ đã biết nhận thức được rằng cái gì đúng, cái gì
sai.


Thế nhưng, niềm vui chưa kịp bày tỏ thì một cú sốc lớn đã đến với ơng Hai: đó là cái tin
làng Chợ Dầu là Việt gian theo Tây. Hơm ấy, ơng vừa bước ra khỏi phịng thơng tin thì
nghe được cái tin ấy từ miệng người đàn bà tản cư khiến ông lão: “lặng người đi, tưởng
như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ơng
cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi.


Ơng Hai vơ cùng bàng hồng trước cái tin ấy. Thế rồi ơng rơi vào tột cùng của sự đau
đớn, ông cố lê những bước chân chậm rãi về nhà. Những ngày sau đó, ơng chỉ ru rú ở
trong nhà, không dám đi đâu cả, ở đâu ông cũng được bộc lộ rõ nét. Đầu tiên, ông về nhà
và không dám đi đâu cả, chỉ ở nhà một mình, giọng nói chua lanh lảnh của người đàn bà
tản cư kia lại cứ văng vẳng trong tâm trí ơng mãi: "Đói khổ ăn cắp ăn trộm, bắt được


người ta còn thương chứ cái giống Việt gian bán nước ấy thì cứ cho mỗi đứa một nhát".


Chao ôi! Sao lại có chuyện ấy được, chẳng lẽ lại là sự thật, nhìn lũ con thơ, tủi thân, nước
mắt ông lão cứ thế tràn ra: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư; Khốn nạn,
bằng ấy tuổi đầu…". Lịng ơng lão như bị giằng xé, có cái gì như đang bóp nghẹt quả tim
ơng khiến ơng khó thở, đau đớn tột cùng. Rồi ơng lại tự mình nói chuyện với mình, lúc
thì ơng bảo khơng phải và lấy cớ để thanh minh cho chuyện ấy. Rồi ơng lại thấy điều đó
là sự thật thì hợp lí hơn: "Khơng có lửa làm sao có khói. Ai hơi đâu người ta bịa tạo ra
những chuyện ấy làm gì?


Chao ôi! Cực nhục chưa? Khắp cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm cái giống Việt
gian bán nước…". Rồi lịng ơng lại quặn đau, nội tâm ơng ln ln thay đổi, ln có hai
quan điểm đối lập nhau. Rồi ông lại trò chuyện với đứa con út để vơi đi đôi phần, ông hỏi
đứa con ông ủng hộ làng hay Cụ Hồ, nghe nó ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh, lịng ơng như
được vun đắp phần nào, càng vững trí hơn. Cái lịng bố con ơng như thế đấy, đâu dám
đơn sai: “Các đồng chí biết cho bố con ông, Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con
ơng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

thấy được sự hịa quyện giữa tình u làng với tình u nước. Đó là bước chuyển biến
mới trong tư tưởng tình cảm của người nơng dân Việt Nam buổi giao thời mới – cũ.


Và rồi tin làng ông Việt gian theo Tây đã được cải chính, ơng lại rơi vào sư hả hê sung
sướng, hạnh phúc vơ bờ. Ơng lại được khoe về làng, được tự hào về làng thậm chí ơng
khoe cả cái nhà ông bị Tây đốt cháy, ông kể tỉ mỉ, chi tiết cho bác Thứ nghe về trận đánh
hơm Tây nó vào khủng bố, chúng nó cả bao nhiêu thằng chúng ta đánh được bao nhiêu,
làng ơng chống đỡ, phịng ngự ra sao, như chính ơng lão vừa dự trận đánh vậy.


Đến đây, ta thấy được nội tâm, tâm trạng ông Hai đã có sự thay đổi rõ rệt, từ tình huống
thay đổi mà con người cũng đổi thay, sự đau đớn tột cùng giờ đã chuyển sang hả hê sung
sướng. Qua đây ta thấy được tầm quan trọng của nghệ thuật xây dựng tình, huống truyện


và miêu tả nội tâm nhân vật đối với một tác phẩm văn học.


Quê hương là hình ảnh khơng thể phai mờ trong thơ ca. Nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng
viết: "Lòng yêu làng quê trở thành tình yêu đất nước”. Kim Lân đã đưa được thơng điệp
ấy đến với người đọc thơng qua tình huống truyện bất ngờ, gay cấn và nội tâm nhân vật
thay đổi bất ngờ, phù hợp. Đó là nét đẹp mới của người nơng dân, hịa quyện tình u với
làng quê thân yêu. Ông Hai là tiêu biểu của người nông dân Việt Nam buổi giao thời mới
– cũ.


<b>6. Phân tích Làng của Kim Lân mẫu 6</b>


Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân được viết vào những năm đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp và được in trong báo Văn nghệ năm 1948. Truyện ca ngợi tình yêu
làng thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông
Hai, một nông dân phải xa làng đi tản cư. Qua đó ta cũng cảm nhận được tinh thần yêu
nước của nhân dân ta trong thời kháng chiến chống Pháp.


Truyện Làng khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kháng
chiến. Đó là tình cảm q hương đất nước. Một tình cảm mang tính cộng đồng nhưng
thành cơng của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh
động của một con người, trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ơng Hai. Vì thế nó là
tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng cá nhân, in rõ cá tính của nhân vật.


Cũng như những người nơng dân khác thời kháng chiến, bằng một thứ tình cảm khá đặc
biệt ông Hai rất yêu làng, mảnh đất ông đã sinh ra và lớn lên, nơi cất tiếng khóc chào đời
đầu tiên của ơng, đó là làng Chợ Dầu. Ơng say mê kể về làng, ln khoe làng mình, tự
hào ở làng về nhiều mặt. Tình cảm ấy được bộc lộ tha thiết nhiệt thành khi ông phải xa
làng đi tản cư.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Thái độ của ông Hai với làng thể hiện gọn gàng trong một chữ khoe. Những lời khoe của


ơng thật đa dạng, khi thì hãnh diện, khi thì mê man giảng giải, khi thì rành rọt, khi nói
liên miên. Ơng Hai khoe làng ơng có cái phịng thơng tin tun truyền sáng sủa rộng rãi
nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy.
Ơng khoe làng ơng nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh. Đường trong làng tồn lát đá xanh.


Ơng Hai cịn khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ơng. Ơng có vẻ hãnh diện cho
làng được cái sinh phần đó lắm. Cái dinh cơ cụ Thượng làng tơi có lăm lắm là của. Vườn
hoa cây cảnh nom như động ấy còn hơn cả cái lăng cụ Thiếu Hà Đông. Sau cách mạng ở
ông Hai có những nhận thức mới hơn trong việc khoe về làng mình.


Ơng khơng khoe cái lăng ấy nữa mà cịn biết chính cái lăng ấy nó làm khổ ơng, làm khổ
những con người của làng ơng. Bây giờ nói đến làng ông khoe những ngày khởi nghĩa,
những buổi tập quân sự, những hố những ụ, những giao thông hào của làng ơng. Thậm
chí có đơi lúc ơng Hai ngậm ngùi kể lại cả những chuyện phiêu dạt và những chuyện đẩu
chuyện đâu.


Phải nói rằng những biểu hiện và tính khoe làng của ơng Hai đó là tình u làng tha thiết.
Yêu lắm về mảnh đất làng quê nên khoe nên nói cho đỡ nhớ làng, đỡ nhớ phong trào cách
mạng ở làng mà ông đã từng tham gia phụ lão cứu quốc và tham gia đào hào đắp ụ.


Một biểu hiện khác của ông Hai cũng xuất phát từ tình u làng chợ Dầu, ơng khơng
muốn bỏ làng ra đi vào lúc hữu sự. Ơng ln ln có suy nghĩ: Mình sinh sống ở cái làng
này từ tấm bé đến giờ, ơng cha cụ kị mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ
bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này là công việc chung
chứ của riêng ai. Ông Hai bị hoàn cảnh dồn ép khổ sở lắm.


Ông không trực tiếp kháng chiến ở làng mà phải đi tản cư. Đi tản cư xa làng ông Hai
không ngày nào, không lúc nào không nghĩ về làng. Nỗi nhớ làng ln ln túc trực trong
lịng ơng. Mọi nỗi nhớ ấy đều tập trung ở những hoạt động kháng chiến; hát hị, đào hào,
khn đá. Tình u làng q của ông Hai đã phát triển, đã được bồi dưỡng thêm bằng


tình cảm mới – tình kháng chiến. Ơng Hai khơng chỉ là người dân làng chợ Dầu, ơng cịn
là một chiến sĩ gắn bó với phong trào kháng chiến của làng.


Nhà văn Kim Lân đã diễn tả một tình cảm, một nét tâm lí quen thuộc về truyền thống của
người nơng dân. Tình cảm gắn bó với làng q, tự hào về q hương mình. Cái tâm lí tự
hào đó cũng được ca dao thể hiện:


Anh đi anh nhớ quê nhà


Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương


Nhớ ai dãi nắng dầm sương


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở người nơng dân tình cảm u nước rộng lớn. Ở
ơng Hai tình cảm u làng là thống nhất với lòng yêu nước. Đúng như nhà văn I-li- a Ê
ren bua có nói: "… lịng u nhà, u làng xóm, u làng q trở nên lịng u tổ quốc".
Để mỗi người đọc chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn tình cảm u làng u nước của ơng
Hai – người nông dân cách mạng.


Tác giả đã đặt ông Hai vào một tình huống gay gắt. Tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu
theo giặc mà chính ơng nghe được từ miệng những người tản cư qua làng ông. Một người
luôn luôn khoe làng, tự hào về làng như ông Hai khi nghe tin đột ngột ấy không đau đớn
sao được. Ơng Hai sững sờ, cổ ơng lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng
đi tưởng như không thở được.


Từ lúc ấy trong tâm trí ơng Hai cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day
dứt trong ơng. Ra đường ông cúi gằm mặt xuống mà đi, về nhà nằm vật ra đường nước
mắt trào ra. Bao nhiêu câu hỏi dày vị, rồi trằn trọc khơng ngủ được. Khơng chỉ có thế mà
suốt mấy ngày hơm sau, ơng Hai không dám đi đâu chỉ quẩn quanh ở nhà nghe ngóng, rồi
nơm nớp lo chuyện loan ra.



Ơng Hai lo người ta đuổi người làng Việt gian thật là tiệt đường sinh sống. Mà ơng cũng
khơng thể về làng vì về là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Với ông làng thì yêu thật nhưng
làng theo Tây thì phải thù. Tấm lịng của ơng, tình u làng u nước của ơng chỉ có một
mình ơng hiểu chẳng biết nói cùng ai.


Ơng đem nỗi lịng của mình trị chuyện cùng thằng con út cho vơi bớt lịng ơng: Nước
mắt ơng lão giàn ra chảy rịng rịng trên hai má, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Đó
có phải chăng là tấm lịng của ơng Hai. Tình cảnh của ơng Hai, diễn biến tâm trạng của
ông khiến ta cảm động biết bao, đồng thời cũng cảm nhận được tấm lòng thủy chung với
kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Bác Hồ.


Nhưng có thể nói điều khiến ta xúc động hơn là tâm trạng của ông Hai khi nghe làng chợ
Dầu được cải chính khơng theo giặc. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng vui tươi hẳn lên
ông gọi con ra chia quà. Ông múa tay múa chân lên mà khoe, xúc động nhất là ông Hai
chẳng hề nghĩ tiếc hay buồn về ngôi nhà riêng của ông bị giặc đốt.


Niềm vui vì làng khơng theo giặc, khơng làm Việt gian đã chiếm hết tâm trí ơng, đau khổ
bế tắc đã được khơi thơng. Lúc này ơng Hai nói chuyện về làng mình cho mọi người
nghe thật rành rọt, tỉ mỉ như chính ơng vừa được dự trận đánh mới về. Có thể nói rằng
ơng Hai là một hình ảnh đẹp của những người nơng dân bình thường nhưng giàu lịng u
nước. Một mẫu người đáng q của dân tộc ta trong những năm trường kì kháng chiến
chống thực dân Pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Ngôn ngữ nhân vật được miêu tả nhuần nhuyễn, lời ăn tiếng nói dân dã, mộc mạc. Tác
giả có tài miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng tình huống truyện độc đáo giúp cho người
đọc khi gấp sách lại vẫn còn thấy bồi hồi xúc động về tình u làng của ơng Hai, về nghệ
thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của Kim Lân.


</div>


<!--links-->

×