Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐÔNG GIANG, TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.95 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THIÊN PHONG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐÔNG GIANG,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THIÊN PHONG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐÔNG GIANG,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 838.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN LINH GIANG



HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Thiên Phong


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ TỊCH ........................ 7
1.1. Một số khái niệm ........................................................................................ 7
1.2. Thực hiện pháp luật về hộ tịch ................................................................. 24
1.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về hộ tịch ................... 36
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ
TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG GIANG, TỈNH QUẢNG
NAM ............................................................................................................... 40
2.1. Các yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến công tác hộ tịch tại huyện
Đông Giang, tỉnh Quảng Nam ........................................................................ 40
2.2. Công tác hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam ....... 41
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG

GIANG, TỈNH QUẢNG NAM .................................................................... 57
3.1. Ủy ban nhân dân huyện, ủy ban nhân dân xã phải quan tâm hơn đến
công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch ........................................................... 57
3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ
tịch để nâng cao ý thức và thay đổi nhận thức của người dân ........................ 57
3.3. Xây dựng chức danh Hộ tịch viên............................................................ 60
3.4. Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử .................................................... 61
3.5. Bảo đảm các điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất cho công tác hộ
tịch ................................................................................................................... 64
3.6. Xây dựng và nâng cao chất lượng công chức hộ tịch .............................. 65
3.7. Tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động
đăng ký hộ tịch ................................................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.

2.2.

Bảng theo dõi tình hình biến động dân số huyện Đông
Giang
Thực trạng đăng ký hộ tịch tại huyện Đông Giang, tỉnh
Quảng Nam từ năm 2017 đến năm 2019


Trang

40

42

Thực trạng công chức và cơ sở vật chất phục vụ công
2.3.

tác hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng
Nam

48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác nhận tình trạng nhân thân của một
con người từ khi sinh ra đến khi chết. Quản lý nhà nước về hộ tịch có vị trí
quan trọng trong hoạt động quản lý dân cư và của nền hành chính mà mọi
quốc gia, khơng phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển, đều phải chú
trọng, quan tâm.
Ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định
các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và quyền nhân thân của con người
được xác qua các sự kiện về hộ tịch như: quyền thay đổi họ tên; xác định lại
dân tộc; khai sinh, khai tử; kết hôn; ly hôn; nhận, không nhận cha, mẹ, con;
quốc tịch…
Thực hiện pháp luật về hộ tịch không chỉ liên quan đến nhân thân của
con người mà cịn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an

ninh quốc phịng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa
Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý. Thực hiện pháp luật về
hộ tịch tạo cơ sở pháp lý để nhà nước công nhận và bảo hộ quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơng dân. Bên cạnh đó, quản lý hộ tịch cịn góp phần quản
lý dân cư một cách khoa học, phục vụ việc xây dựng, hoạch định chính sách
phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước.
Trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, tiến trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng,
việc dịch chuyển dân cư trong nước và quốc tế ngày càng gia tăng, quyền con
người, quyền cơng dân địi hỏi được ghi nhận và bảo đảm thực hiện ở mức
cao hơn. Để tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định, thống nhất cho công tác thực
1


hiện pháp luật về hộ tịch, đặc biệt là việc triển khai thi hành Hiến pháp năm
2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản
của công dân; đồng thời, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thực
hiện pháp luật về hộ tịch theo hướng từng bước chuyên nghiệp, phù hợp với
từng bước phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, do đó, việc thực hiện
pháp luật về hộ tịch cần phải được coi trọng và quản lý chặt chẽ, thống nhất.
Ở nước ta hiện nay, pháp luật về hộ tịch được thực hiện theo Luật Hộ
tịch năm 2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thơng qua Luật Hộ
tịch với 7 Chương, 77 Điều và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.
Luật Hộ tịch ra đời đánh dấu bước đầu tiên nhà nước ta ban hành văn bản
Luật điều chỉnh riêng lĩnh vực này sau hơn 60 năm thực hiện bằng các nghị
định của Chính phủ và thơng tư của các Bộ. Đây là bước hoàn thiện khá cơ
bản về thể chế đăng ký và quản lý hộ tịch của Việt Nam với nhiều quy định
mới, mang tính đột phá, tồn diện. Bên cạnh những điểm mới của Luật Hộ
tịch, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập về thể chế gây khó khăn, trở ngại

cho cơ quan hộ tịch khi triển khai thực hiện, người dân khó phân biệt việc hộ
tịch của mình sẽ được áp dụng theo văn bản nào.
Huyện Đông Giang là một huyện miền núi cao thuộc tỉnh Quảng Nam,
với dân số 25.576 người, trong đó, dân tộc Cơ Tu chiếm đa số với 19.548
người, chiếm 76,43%; dân tộc Kinh 5.842, chiếm 22,84%; các dân tộc khác
(Thái, Tày, Nùng...) có 186 người, chiếm tỷ lệ 0,73%. Huyện Đơng Giang vẫn
là một huyện gặp nhiều khó khăn so với mặt bằng chung của tỉnh. Đây là địa
bàn tập trung chủ yếu đồng bào dân tộc Cơ tu, kết cấu hạ tầng còn thiếu, chưa
đồng bộ, kinh tế xã hội còn kém phát triển. Đặc biệt, nhận thức của người dân
nơi đây còn chưa cao, đội ngũ cán bộ cơng chức làm cơng tác hộ tịch cịn
thiếu và yếu, việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin cịn gặp nhiều khó khăn,
chưa đồng bộ. Do đó, cơng tác thực hiện pháp luật về hộ tịch là một trong
2


những vấn đề cần được hồn thiện, nâng cao, góp phần vào việc xây dựng,
hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Vì vậy, nghiên cứu cơng tác thực hiện pháp luật về hộ tịch nói chung
cũng như thực tế tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam nói riêng nhằm làm
rõ hơn cơ sở lý luận, thực tiễn của việc thực hiện pháp luật về hộ tịch; đưa ra
những ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên
địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam là việc cần thiết hiện nay. Đây
chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực
tiễn huyện Đơng Giang, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tính đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về hộ tịch của các cá
nhân, tập thể được công bố như:
Phạm Trọng Cường, Về quản lý hộ tịch, NXB Chính trị quốc gia, 2004;
Bộ Tư pháp, Quy định mới về đăng ký và quản lý hộ tịch, NXB Chính
trị quốc gia, 2006;

Nguyễn Quốc Cường, Lương Thị Lanh, Trần Thị Thu Hằng…, Hướng
dẫn đăng ký và quản lý hộ tịch, NXB Tư pháp, 2006;
Bộ Tư pháp, Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, NXB Tư pháp, 2007;
Phạm Hồng Hoàn, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Đan
Phượng, Luận văn thạc sĩ hành chính cơng, 2011;
Phạm Trọng Cường, Quản lý nhà nước về hộ tịch - Lý luận, thực trạng
và phướng hướng đổi mới, Luận văn thạc sĩ luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2003;
Bùi Thị Tư: Quản lý hộ tịch - Qua thực tiễn ở Hải Phòng, Luận văn
thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014;
Nguyễn Hữu Đính: Cơng tác tư pháp - hộ tịch ở cấp xã: những vấn đề
lý luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật, Đại học Quốc
3


gia Hà Nội, 2008;
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu, phân tích
những vấn đề liên quan đến công tác đăng ký, quản lý hộ tịch từ lý luận đến
thực tiễn và đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả của công tác đăng ký
và quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu chuyên sâu pháp
luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đơng Giang, tỉnh Quảng Nam. Chính vì
vậy, trên cơ sở kế thừa các kết quả của các cơng trình nghiên cứu liên quan,
luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực
hiện pháp luật hộ tịch ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam để từ đó đưa ra
các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác thực hiện pháp luật về hộ
tịch nói chung và trên địa bàn huyện Đơng Giang, tỉnh Quảng Nam nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật
về hộ tịch, phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch tại huyện Đơng

Giang, tỉnh Quảng Nam và từ đó, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về hộ tịch hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn có những nhiệm
vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về hộ tịch.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa
bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn năm 2017-2019 để
tìm ra những ưu điểm, hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước về công tác hộ
tịch trên địa bàn huyện.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống quy phạm pháp luật
điều chỉnh về lĩnh vực hộ tịch đặc biệt là Luật hộ tịch 2014 và thực tiễn việc
thực hiện pháp luật về hộ trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực hiện pháp luật về hộ tịch trên
địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2017 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Triết học Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm:
- Phương pháp trực tiếp: quan sát, phỏng vấn;
- Phương pháp gián tiếp: phân tích và tổng hợp số liệu, thống kê, so
sánh, quy nạp, diễn dịch, nghiên cứu tài liệu, tư liệu tham khảo, nguồn tin từ
mạng Internet, …
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hộ tịch
và thực hiện pháp luật hộ tịch, phân tích chỉ ra những yếu tố đặc thù về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội tác động tới q trình thực hiện pháp
luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. Từ đó, nên
5


ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch ở
huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong thực tế thực hiện
pháp luật về hộ tịch ở huyện Đông Giang, tỉnh Quang Nam trong những năm
tới. Đồng thời, luận văn cũng là nguồn tư liệu tham khảo cho những người
nghiên cứu các đề tài liên quan đến pháp luật về hộ tịch.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về hộ tịch.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện
Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng
Nam.


6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ TỊCH
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm hộ tịch
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một
người từ khi sinh ra đến khi chết. Đây được coi là nhiệm vụ thường xuyên,
quan trọng của chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và biến động
về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và
gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an
ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình. Cơng tác quản lý hộ tịch là
một tổng thể của nhiều công việc như tuyên truyền giáo dục pháp luật về hộ
tịch, tổ chức đăng ký hộ tịch, báo cáo thống kê tăng, giảm dân số, kiểm tra, xử
lý vi phạm về đăng ký hộ tịch. Các công việc nêu trên phải được tiến hành
thường xuyên tại cơ sở nhằm đảm bảo kịp thời, chính xác, đồng thời phải
thuận tiện, tránh gây phiền hà cho dân.
Từ trước đến nay, có khá nhiều quan niệm khác nhau về “Hộ tịch”. Các
tác giả khác nhau đã giải nghĩa từ “hộ tịch” như sau:
Tác giả Nguyễn Văn Khôn đã nêu khái niệm “hộ tịch” trong cuốn Hán Việt từ điển xuất bản năm 1960 như sau: “Hộ tịch: sổ biên dân số có ghi rõ
tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người” [31, tr.404].
Hay tác giả Nguyễn Lân cũng trình bày giải nghĩa từ “hộ tịch” trong
cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt xuất bản năm 1989: “Hộ tịch: Quyển sổ ghi
chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi người trong một địa phương”
[33, tr.321].
Trong cuốn Giản yếu Hán - Việt từ điển xuất bản năm 1992, tác giả
Đào Duy Anh trình bày cách hiểu của mình đối với từ ghép “hộ tịch” là: “Hộ
7



tịch: quyển sổ của Chính Phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch quán
của từng người” [1, tr.384].
Hoặc là trong cuốn Từ điển Hán - Việt từ nguyên xuất bản năm 1999
của tác giả Bửu Kế, “hộ tịch” được hiểu là “Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề
nghiệp dân cư ngụ trong xã phường” [30, tr.814].
Có thể nhận thấy cách giải nghĩa từ “hộ tịch” của các tác giả tuy rằng
khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều giải nghĩa “hộ tịch” có nét khá tương
đồng: “hộ tịch” là quyển số chứa đựng các thông tin cơ bản của cá nhân như
họ, tên, nghề nghiệp, quê quán.
Bên cạnh đó, một số từ điển lại giải nghĩa từ “hộ tịch” theo một cách
khác, chẳng hạn như:
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ học do Hồng Phê
chủ biên xuất bản năm 1998, từ ghép “hộ tịch” được giải nghĩa là: “Hộ tịch:
sổ của cơ quan dân chính đăng kí cư dân trong địa phướng mình theo từng
hộ” [37, tr.442]
Một cách hiểu khác về “hộ tịch” được tác giả Nguyễn Như Ý trình bày
trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1998 đó là: “Hộ tịch: các sự
kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của pháp luật” [54,
tr.835].
Hay trong cuốn Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt do Nhà
xuất bản văn hóa thơng tin xuất bản năm 1999, tác giả Nguyễn Văn Đạm giải
nghĩa “hộ tịch” khác hoàn toàn so với các cách giải nghĩa trên: “Hộ tịch là
quyền cư trú, được chính quyền cơng nhận của một người tại nơi mình ở
thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng một hộ, do chính
quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần” [24, tr.385].
Nhìn chung, các tác giả tuy đưa ra những cách định nghĩa khác nhau về
hộ tịch nhưng tựu chung lại đều chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của hộ tịch,
8



đó là:
Thứ nhất, hộ tịch là việc ghi chép các quan hệ gia đình của một người;
Thứ hai, các quan hệ gia đình thuộc phạm vi quan tâm của hộ tịch phải
là những quan hệ phát sinh trên cơ sở ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời
của mỗi con người, đó là: khai sinh, hơn nhân và khai tử;
Thứ ba, chứng thư hộ tịch là loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh
chính xác các đặc điểm nhân thân cơ bản của một cá nhân.
“Hộ tịch” là một khái niệm đặc biệt trong hệ thống khái niệm pháp lý
tiếng Việt. Khái niệm này hồn tồn khơng dễ dàng định nghĩa một cách rõ
ràng, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó cũng khơng thuận tiện khi xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trong thực tế, đã có những cuộc hội thảo
trong giới chun mơn về việc thay thế khái niệm này bằng một khái niệm
khác thông dụng hơn, dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, qua quá trình lịch sử, khái
niệm này đã dần trở thành ngôn ngữ phổ thông, ăn sâu trong nhận thức nhân
dân. Do đó, các nhà xây dựng pháp luật đã dung hòa bằng việc sử dụng khái
niệm này với tư cách là một thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa trong văn
bản.
Theo đó, tại Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày
10/10/1998 về việc đăng ký hộ tịch thì: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác
định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”.
Trước khi có Nghị định số 83/1998/NĐ-CP, Bộ luật dân sự 1995 có
riêng một mục quy định về hộ tịch. Bộ luật dân sự 1995 không đưa ra khái
niệm “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa về đăng ký hộ tịch tại điều 54 như sau:
Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự
kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc
tịch, xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự kiện khác theo quy định của
pháp luật về hộ tịch.
9



Việc đăng ký hộ tịch là quyền, nghĩa vụ của mỗi người.
Việc đăng ký hộ tịch được thực hiện theo trình tự và thủ tục do pháp
luật về hộ tịch quy định.
Nghị định 158/2005/NĐ-CP tiếp tục sử dụng khái niệm “hộ tịch” đã
được định nghĩa trong Nghị định 83/1998/NĐ-CP: “Hộ tịch là những sự kiện
cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi
chết”. Nghị định 158/2005/NĐ-CP còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch”
như sau:
Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền:
a) Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ;
nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định
lại giới tính; xác định lại dân tộc;
b) Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào
sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc
kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.
Theo quy định tại Điều 1 Luật hộ tịch 2014 quy định khái niệm về hộ
tịch giống như nghị định số 158/2005/NĐ-CP tuy nhiên có xác định rõ các sự
kiện:
“Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác
định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết”.
Theo đó, Điều 3 của Luật hộ tịch quy định những sự kiện hộ tịch:
1. Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch:
a) Khai sinh;
b) Kết hôn;
c) Giám hộ;
d) Nhận cha, mẹ, con;
10



đ) Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin
hộ tịch;
e) Khai tử.
2. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
a) Thay đổi quốc tịch;
b) Xác định cha, mẹ, con;
c) Xác định lại giới tính;
d) Ni con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi;
đ) Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn;
e) Công nhận giám hộ;
g) Tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất
hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
3. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết
hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay
đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có
thẩm quyền của nước ngồi.
4. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy
định của pháp luật.
Điểm mới của Luật hộ tịch là không quy định khái niệm về giấy tờ hộ
tịch. Luật quy định chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và Giấy chứng
nhận kết hơn. Đối với các sự kiện hộ tịch khác, sau khi hoàn tất thủ tục đăng
ký sẽ được cấp Trích lục hộ tịch tương ứng với từng sự kiện hộ tịch đã đăng
ký. Bản chính trích lục hộ tịch sẽ được chứng thực bản sao.
Giấy khai sinh là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho
cá nhân khi được đăng ký khai sinh; nội dung Giấy khai sinh bao gồm các
thông tin cơ bản về cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật hộ tịch.
11



Giấy chứng nhận kết hôn là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp khi đăng ký kết hôn; nội dung Giấy chứng nhận kết hôn bao gồm
các thông tin cơ bản quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật hộ tịch.
Như vậy, trong khuôn khổ của nghiên cứu tại luận văn này, hộ tịch
được hiểu là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một
người từ khi sinh ra đến khi chết: khai sinh, kết hơn, nhận cha mẹ, thay đổi cải
chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch, khai tử.
1.1.2. Pháp luật về hộ tịch
1.1.2.1. Khái niệm và khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật
về hộ tịch ở nước ta
Pháp luật về hộ tịch là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
hộ tịch nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và góp phần
trong cơng tác quản lý dân cư của nhà nước.
Ở nước ta, vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch đã có lịch sử từ lâu đời.
Thời kỳ phong kiến, thực dân, bên cạnh vấn đề quản lý đất đai thì vấn đề quản
lý hộ tịch - con người là vấn đề trọng yếu, luôn được nhà nước quan tâm quản
lý, thực hiện.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, xác định được tầm quan trọng
của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, nhà nước ta tiếp tục duy trì và ban
hành văn bản quy phạṃ pháp luật để điều chỉnh. Văn bản đầu tiên là Sắc lệnh
số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau đó, đến Bản Điều
lệ hộ tịch năm 1956 ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg ngày
08/5/1956 của Chính phủ. Bản điều lệ này quy định những nguyên tắc và thủ
tục đăng ký về các vấn đề sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký; ghi
chú các việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát giấy chứng nhận các việc ấy. Các
quy định của bản Điều lệ đăng ký hộ tịch này thay thế toàn bộ các thể lệ đăng
12



ký hộ tịch áp dụng trước đó. Việc quản lý hộ tịch trong giai đoạn này do Bộ
Nội vụ và Ủy ban hành chính các cấp thực hiện. Đến năm 1961, Bản Điều lệ
đăng ký hộ tịch được ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày
16/01/1961. Bản điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/4/1961 và có hiệu lực trong gần 40 năm cho đến khi Nghị định số
83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch ra đời.
Đến năm 1987, sau khi Nghị định số 219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội
đồng Bộ trưởng có hiệu lực thì cơng tác đăng ký hộ tịch được chuyển giao từ
Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp.
Ngày 27/12/2005, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số
158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch. Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã thay thế
Nghị định 83/1998/NĐ-CP sau 7 năm có hiệu lực. So với Nghị định
83/1998/NĐ-CP thì Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã tháo gỡ những vướng
mắc trên thực tế mà Nghị định 83/1998/NĐ-CP chưa giải quyết được đó là:
đơn giản thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết công việc phù hợp với tinh thần
cải cách hành chính, thuận tiện cho người dân. Nghị định 158/2005/NĐ-CP
có nhiều điểm mới, đặc biệt việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy
ban nhân dân cấp huyện thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch trước đó thuộc
thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp trên.
Căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự (năm 1995, 2005), Luật Hơn
nhân và gia đình (năm 1986, 2000, 2014) và các luật liên quan khác, đến
trước năm 2015, Chính phủ đã ban hành 6 Nghị định điều chỉnh lĩnh vực hộ
tịch, cả việc hộ tịch trong nước và việc hộ tịch có yếu tố nước ngồi gồm:
Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi
tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về
việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày
27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hơn nhân và gia đình
13



đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ- CP ngày 10/7/2002
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và
gia đình về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số
69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày
02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về
hộ tịch, hơn nhân gia đình và chứng thực; Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày
28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hơn
nhân và gia đình về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi.
Ngày 20/11/2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thơng qua
Luật Hộ tịch với 7 Chương 77 Điều và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2016. Có thể nói, đây là lần đầu tiên nhà nước ban hành văn bản Luật
quy định riêng về lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch sau hơn 60 năm thực hiện
bằng các văn bản dưới luật do Chính phủ ban hành. Luật Hộ tịch có nhiều quy
định mới, mang tính cách mạng về các nội dung như: thẩm quyền đăng ký hộ
tịch, phương thức đăng ký, quản lý hộ tịch, cải cách thủ tục hành chính...
Trong đó, Luật quy định cụ thể về vai trò của Uỷ ban nhân dân các cấp, Sở Tư
pháp cấp tỉnh trong hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực đăng ký hộ tịch.
Như vậy, pháp luật về hộ tịch là những quy tắc xử sự do nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa nhà
nước với công dân nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ
của mình trong lĩnh vực hộ tịch.
1.1.2.2. Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật về hộ tịch
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật (Bộ luật Dân sự 2015, Luật Hơn
nhân và Gia đình năm 2014, Luật nuôi con nuôi năm 2010, Luật hộ tịch và
các nghị định, thông tư…) và các tài liệu sách báo pháp lý, thuật ngữ “pháp
luật về hộ tịch” được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, tùy từng trường hợp, nội
14



hàm của nó được xác định theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp có sự khác nhau cơ
bản. Theo những cách hiểu khác nhau đó việc xác định các quy phạm pháp
luật và các quan hệ pháp luật về hộ tịch cũng có sự khác nhau.
Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật về hộ tịch bao gồm toàn bộ hệ thống
quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hộ tịch, theo đó nguồn chủ đạo
của pháp luật về hộ tịch bao gồm Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hơn nhân
và Gia đình năm 2014, Luật nuôi con nuôi năm 2010, các văn bản về đăng ký
và quản lý hộ tịch: Luật hộ tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Thông tư 15/2015/TT-BTP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định
123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ
tịch. Cũng trong cách hiểu này các quan hệ pháp luật về hộ tịch được phân
thành hai nhóm cơ bản, đó là nhóm quan hệ mang tính chất dân sự và nhóm
quan hệ về quản lý. Hai nhóm quy phạm này có mối quan hệ hết sức mật
thiết, trong đó nhóm quy phạm về hộ tịch do luật dân sự điều chỉnh ln đóng
vai trị là tiền đề để xây dựng các quy phạm hành chính về hộ tịch.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quy phạm
hành chính về quản lý hộ tịch. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng điều chỉnh
của pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quan hệ mang tính chất chấp hành điều hành phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch. Mặc dù hai
quan niệm trên có sự khác nhau cơ bản nhưng cần thấy rằng chúng không
mâu thuẫn và loại trừ nhau.
a) Quy phạm pháp luật về hộ tịch
Là một dạng cụ thể của quy phạm hành chính, quy phạm pháp luật về
hộ tịch được hiểu là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành để điều
chỉnh các quan hệ quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch. Các quy phạm
15



pháp luật về hộ tịch có thể được phân thành hai nhóm sau:
Một là, nhóm quy phạm về địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của các
chủ thể trong quan hệ quản lý hộ tịch và quan hệ giữa các chủ thể với nhau
trong quan hệ quản lý hộ tịch;
Hai là, nhóm quy phạm về thủ tục hành chính (thủ tục đăng ký hộ tịch
hoặc giải quyết khiếu, nại tố cáo về hộ tịch).
Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch tương đối lớn,
điều chỉnh khá toàn diện, đầy đủ các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này.
Trước đây, các quy phạm quản lý hộ tịch nằm rải rác trong nhiều văn bản
khác nhau. Ngoài Nghị định số 158/2005/NĐ-CP được coi là văn bản chủ đạo
về quản lý hộ tịch, các quy phạm về quản lý hộ tịch còn được quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Nghị định số 32/2002/NĐ- CP của
Chính Phủ ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật Hơn nhân và Gia đình
đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐCP ngày 10/7/2002 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ
Hơn nhân và Gia đình có yếu tố nước ngồi. Chính việc quy phạm pháp luật
về quản lý hộ tịch nằn rải rác trong nhiều văn bản như trên đã ảnh hưởng đến
hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về hộ tịch. Xét từ khía cạnh giá trị pháp
lý có thể thấy, các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch có thứ bậc không
cao trong thang giá trị quy phạm. Các quy phạm có giá trị cao nhất mới dừng
lại ở mức độ quy phạm trong Nghị định của Chính Phủ; một bộ phận không
nhỏ quy phạm do Bộ Tư pháp ban hành trong các Thơng tư mang tính chất
hướng dẫn nghiệp vụ. Bởi vậy, tính ổn định của pháp luật về quản lý hộ tịch
cịn chưa cao, có thể bị sửa đổi, bổ sung trong một thời gian ngắn. Bên cạnh
đó, quy định của pháp luật về phân cấp quản lý, đăng ký hộ tịch còn nhiều bất
cập. Ở cả 03 cấp chính quyền (tỉnh, huyện, xã) đều có thẩm quyền đăng ký hộ
tịch, điều này dẫn đến chồng chéo, không rõ ràng giữa chức năng quản lý và
16



đăng ký hộ tịch. Trong công tác hộ tịch ở nhiều địa phương, Sở Tư pháp,
Phòng Tư pháp chỉ tập trung đến nhiệm vụ đăng ký, ít có sự quan tâm đến
nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân cấp mình thực hiện quản lý nhà nước về công
tác hộ tịch. Trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch cịn rườm rà, bất cập, một số quy
định còn thiên về việc tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước hơn là tạo
thuận lợi cho người dân. Nhiều loại sổ sách, giấy tờ về hộ tịch cũng đã gây
bất lợi, tạo nhiều áp lực cho cả cơ quan nhà nước và người dân trong việc lưu
giữ, bảo quản, sử dụng, khai thác. Các văn bản pháp luật chưa có quy định
mang tính đột phá, tạo hành lang pháp lý trong việc ứng dụng công nghệ
thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử nhằm tăng cường khả năng
tra cứu, khai thác dữ liệu hộ tịch phục vụ yêu cầu của người dân và của cơ
quan, tổ chức.
Tuy nhiên, từ khi Luật hộ tịch ra đời thì hiện nay các quy phạm pháp
luật về hộ tịch đã nằm tập trung trong các văn bản pháp luật chính: Luật hộ
tịch, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật hộ tịch và Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và
thống nhất cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, khắc phục nguyên nhân
gây ra những bất cập, hạn chế như trên, nhất là trong bối cảnh triển khai thi
hành Hiến pháp năm 2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con người,
quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng bộ, thống nhất với các luật liên
quan (như Bộ luật dân sự 2015, Luật quốc tịch, Luật nuôi con ni, Luật hơn
nhân và gia đình 2014, Luật căn cước công dân).
b) Quan hệ pháp luật về hộ tịch
Quan hệ pháp luật về hộ tịch là những quan hệ phát sinh trong hoạt
động chấp hành - điều hành được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về
hộ tịch. Chủ thể của quan hệ pháp luật về hộ tịch gồm hai nhóm:
17



Một là, các cá nhân và cơ quan nhà nước có chức năng quản lý về hộ
tịch.
Hai là, các cá nhân có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch.
Các quan hệ pháp luật hình thành trong lĩnh vực quản lý hộ tịch rất đa
dạng, diễn ra theo nhiều chiều giữa các chủ thể khác nhau như: quan hệ giữa
cơ quan có thẩm quyền quản lý chung với cơ quan quản lý chuyên ngành,
giữa cơ quan quản lý cấp trên với cơ quan quản lý cấp dưới, quan hệ giữa các
cơ quan cùng cấp, quan hệ giữa cơ quan quản lý hộ tịch với cơng dân, v. v.
Trong đó nhóm quan hệ phát sinh trong hoạt động đăng ký hộ tịch là nhóm
quan hệ phổ biến và thể hiện nhiều yếu tố đặc thù. Các quan hệ pháp luật về
đăng ký hộ tịch là các quan hệ thủ tục phát sinh giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đăng ký hộ tịch với các cá nhân công dân, người nước ngồi hoặc
người khơng quốc tịch có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch. Các quan hệ
này được thiết lập trên cơ sở sáng kiến, đề nghị chủ động của cá nhân và nó
thường gắn liền với việc thực hiện một quyền dân sự hoặc xác lập một quan
hệ hôn nhân và gia đình.
Ví dụ: Việc UBND cấp tỉnh thực hiện thủ tục xác định lại dân tộc cho
một người là quan hệ hành chính nhằm thực hiện quyền dân sự của cá nhân
đó; hoặc việc UBND cấp xã đăng ký kết hơn là một quan hệ hành chính, gắn
liền với việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai cá nhân. Một số quan hệ đăng
ký hộ tịch như đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử… được thiết lập khơng phải
từ đề nghị của chính cá nhân được khai sinh, kết hơn, khai tử mà từ những
người có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Quan hệ đăng ký hộ
tịch không chỉ diễn ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với một cá
nhân mà có thể diễn ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với cùng
lúc nhiều cá nhân có chung mục đích xác lập quan hệ hành chính đó. Ví dụ:
trường hợp cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện việc đăng ký kết hôn, đăng ký
18



nuôi con nuôi.
1.1.2.3. Hệ thống quy phạm pháp luật về hộ tịch hiện hành
Luật hộ tịch năm 2014 là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh
lĩnh vực hộ tịch. Bên cạnh đó, cịn có Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Thông tư số
15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và
Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật hộ tịch.
Luật hộ tịch năm 2014 gồm có 7 chương và 77 điều, được bố cục như
sau:
Chương I. Những quy định chung (gồm 12 điều, từ Điều 1 đến Điều
12)
Chương II. Đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp xã (gồm 7 mục, 22
điều, từ Điều 13 đến Điều 34)
Chương này quy định về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký các
loại việc hộ tịch trong nước thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã,
bao gồm: Đăng ký khai sinh (gồm 04 điều: từ Điều 13 đến Điều 16); Đăng ký
kết hôn (gồm 02 điều: từ Điều 17 đến Điều 18); Đăng ký giám hộ (gồm 05
điều: từ Điều 19 đến Điều 23); Đăng ký nhận cha, mẹ, con (gồm 02 điều:
Điều 24, Điều 25); Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch (gồm 04 điều:
từ Điều 26 đến Điều 29); Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (gồm 02 điều: Điều 30 và
Điều 31); Đăng ký khai tử (gồm 03 điều: Điều 32, Điều 33, Điều 34).
Chương III. Đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp huyện (gồm 7
Mục, 18 điều, từ Điều 35 đến Điều 52).
Chương này quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký các loại
việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân cấp
19



huyện, bao gồm: Đăng ký khai sinh (gồm 02 điều: Điều 35, Điều 36); Đăng
ký kết hôn (gồm 02 điều: từ Điều 37 đến Điều 38); Đăng ký giám hộ (gồm 04
điều: từ Điều 39 đến Điều 42); Đăng ký nhận cha, mẹ, con (gồm 02 điều:
Điều 43, Điều 44); Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại
dân tộc (gồm 03 điều: Điều 45, Điều 46, Điều 47); Ghi vào Sổ hộ tịch việc hộ
tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngồi (gồm 03 điều: Điều 48, Điều 49, Điều 50); Đăng ký khai tử (gồm
02 điều: Điều 51, Điều 52).
Chương IV. Đăng ký hộ tịch tại cơ quan đại diện (gồm 4 điều, từ Điều
53 đến Điều 56)
Chương V. Cơ sở dữ liệu hộ tịch, cấp trích lục hộ tịch (gồm 2 Mục, 08
điều, từ Điều 57 đến Điều 64)
Mục 1. Cơ sở dữ liệu hộ tịch (gồm 5 điều từ Điều 57 đến Điều 61).
Mục 2. Cấp trích lục hộ tịch (gồm 3 điều từ Điều 62 đến Điều 64).
Chương VI. Trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch, công chức làm
công tác hộ tịch (gồm 2 Mục, 10 điều, từ Điều 65 đến Điều 74).
Mục 1. Trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch (gồm 7 điều, từ Điều
65 đến Điều 71).
Mục 2. Công chức làm công tác hộ tịch (gồm 3 điều, từ Điều 72 đến
Điều 74).
Chương VII. Điều khoản thi hành (gồm 03 điều, từ Điều 75 đến Điều
77)
Chương này quy định về giá trị pháp lý của Sổ hộ tịch được lập, giấy
hộ tịch được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực, điều khoản chuyển tiếp và
hiệu lực thi hành của Luật hộ tịch.
Luật Hộ tịch năm 2014 đã có những điểm mới nổi bật so với các văn
bản điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch trước đó.
20



×