VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THỊ HỒNG
GIÁM SÁT THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂY GIANG,
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM .................................................................. 8
1.1. Khái niệm giám sát thực hiện chính sách công ................................................. 8
1.2. Vị trí, vai trò của giám sát thực hiện chính sách công ..................................... 9
1.3. Mục đích của giám sát thực hiện chính sách công ........................................... 10
1.4. Bản chất của giám sát thực hiện chính sách công ............................................ 11
1.5. Chức năng, hình thức, công cụ của giám sát thực hiện chính sách công .......... 11
1.6. Nguyên tắc giám sát thực hiện chính sách công .............................................. 14
1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến giám sát thực hiện chính sách công ...................... 14
1.8. Chủ thể hoạt động giám sát thực hiện chính sách công ................................... 16
1.9. Bảo đảm hiệu quả hoạt động giám sát thực hiện chính sách công .................. 24
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁM SÁT THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
CÔNG Ở HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM .................................. 26
2.1. Thực trạng giám sát thực hiện chính sách công ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng
Nam của cấp ủy Đảng ............................................................................................. 26
2.2. Thực trạng giám sát thực hiện chính sách công của Quốc hội ở huyện Tây
Giang ....................................................................................................................... 29
2.3. Thực trạng giám sát thực hiện chính sách công ở huyện Tây Giang của tỉnh
Quảng Nam và HĐND huyện Tây Giang ............................................................... 30
2.4. Thực trạng giám sát thực hiện chính sách công ở huyện Tây Giang của cơ quan
hành chính Nhà nước ............................................................................................... 32
2.5. Thực trạng giám sát thực hiện chính sách công của UBMTTQVN và các tổ
chức chính trị xã hội huyện Tây Giang ................................................................... 44
2.6. Thực trạng giám sát chính sách công ở huyện Tây Giang của các tổ chức xã hội
và nhân dân ............................................................................................................. 46
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN GIÁM SÁT THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH CÔNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ............................................................ 51
3.1. Quan điểm, định hướng hoàn thiện giám sát thực hiện chính sách công ......... 51
3.2. Các giải pháp hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công .................. 53
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐND
Hội đồng nhân dân
HTX
Hợp tác xã
QCDC
Quy chế dân chủ
SPSS
Chương trình máy tính phục vụ công tác thống kê
THT
Tổ hợp tác
UBMTTQVN
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
UBND
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới trong giai đoạn hiện nay, việc ban
hành chính sách thực ra là cụ thể hóa đường lối chính trị của đảng cầm quyền.
Tại Việt Nam với tính chất là đảng cầm quyền duy nhất, các Chính sách công
là sự cụ thể hóa chủ trương đường lối của Đảng Cộng sản, yếu tố kỹ thuật và
yếu tố chính trị trong chính sách công là không tách rời. Vì thế nên vấn đề cần
quan tâm là trong toàn bộ quá trình của chính sách công các chủ thể nào sẽ
tham gia? Họ đóng vai trò thế nào? Và quan trọng nhất: Trong quá trình thực
hiện chính sách công ấy những chủ thể nào đóng vai trò giám sát? Bằng cơ
chế nào và công cụ nào? Đây là vấn đề chưa được nghiên cứu nhiều.
Như đã biết, trong toàn bộ quy trình chính sách thì việc thực hiện chính
sách có vai trò quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại của
chính sách. Hiện nay việc thực hiện chính sách còn nhiều bất cập, tất nhiên
những bất cập đó là không thể tránh khỏi, với mỗi chính sách khác nhau thì sẽ
có những vấn đề chính sách khác nhau.
Giám sát thực hiện chính sách công là một trong những chức năng rất
quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách công, nó được coi là bước đo
lường kết quả và hiệu quả của một chính sách công trong thực tế sau khi đưa
chính sách vào thực thi.
Thực tiễn trong những năm qua, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam đã
không ngừng đổi mới nội dung, phương thức giám sát chính sách công để
nâng cao hiệu lực hiệu quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình theo
quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội,
đảm bảo an ninh-quốc phòng của huyện. Hoạt động giám sát của huyện đã có
nhiều chuyển biến tích cực, giúp các cơ quan hữu quan, cá nhân có thẩm
quyền thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, góp phần sửa đổi, bổ sung, kịp
thời nhiều chính sách không còn phù hợp với thực tiễn. Thông qua hoạt động
1
giám sát đã cải tiến được quy trình làm việc, lề lối hoạt động của các cơ quan
Nhà nước, đảm bảo cho các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức hoàn thành
nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát chính sách công của huyện Tây Giang
vẫn còn có những hạn chế nhất định. Nội dung giám sát chưa sâu, nhất là ở
cấp xã, chưa tập trung vào các vấn đề mang tính bức xúc ở địa phương. Trong
thực hiện giám sát vẫn còn có sự nể nang, ngại va chạm nên hiệu lực và hiệu
quả giám sát chưa cao. Có những yêu cầu, kiến nghị sau giám sát chậm được
khắc phục, một số cơ quan, tổ chức cá nhân giải quyết các yêu cầu, kiến nghị
của đoàn giám sát còn chậm hoặc không triển khai, không báo cáo kết quả
thực hiện theo luật định.
Để hoạt động giám sát chính sách công đem lại hiệu quả trong thời gian
đến, thì việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng giám sát thực hiện chính sách
công đối với cả nước nói chung và huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam nói
riêng là thật sự cần thiết. Hiệu quả của hoạt động giám sát phải được phân
tích, đánh giá tích cực, đầy đủ và phải có một phương pháp phân tích, đánh
giá phù hợp. Tuy nhiên, cho đến nay các cơ quan, đơn vị, các ngành chức
năng có trách nhiệm triển khai hoạt động giám sát vẫn chưa tiếp cận được các
phương pháp để phân tích, đánh giá một cách chất lượng. Bên cạnh đó, hoạt
động giám sát ở huyện Tây Giang vẫn còn nhiều bất cập, do đó hiệu quả trong
thực hiện chưa cao.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Giám
sát thực hiện chính sách từ thực tiễn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam” làm
luận văn thạc sĩ chính sách công. Với mong muốn góp phần nâng cao nhận
thức trong các cấp, các ngành, các địa phương về phương pháp tiếp cận các lý
luận về hoạt động giám sát chính sách; đồng thời, qua nghiên cứu thực trạng
hoạt động giám sát từ thực tiễn huyện Tây Giang sẽ rút ra được những nguyên
2
nhân, những mặt còn hạn chế, những bất cập (nếu có) từ hoạt động giám sát
đang thực thi ở huyện Tây Giang hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện hoạt động giám sát chính sách công trong thời gian đến, góp phần
đem lại hiệu quả thiết thực trong hoạt động giám sát ở huyện Tây Giang góp
phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách, tạo điều kiện
cho kinh tế-xã hội của huyện phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về mặt lý thuyết, năm 2007 có PGS.TS Nguyễn Hữu Hải (Học viện
Hành chính Quốc gia) đã đưa ra việc giám sát, đánh giá chính sách công trong
quy trình chính sách. Kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp cơ sở tại GASS
năm 2012 của Khoa Chính sách công đã chỉ ra rằng: Việc tuân thủ quy trình
giám sát chính sách công còn rất yếu kém trong quá trình hoạch định và thực
thi chính sách. Hiện nay, trên thế giới đã hiện hành đa dạng phương pháp luận
đánh giá, giám sát chính sách công. Bên cạnh đó kỹ thuật đánh giá, giám sát
chính sách công còn đa dạng hơn. Các kỹ thuật này được vận dụng từ các
ngành khoa học xã hội, kinh tế, luật vv. Vậy những kỹ thuật này có được áp
dụng ở Việt nam không? Mức độ hiệu quả khi áp dụng các kỹ thuật đánh giá
chính sách này. Thực tế các phương pháp nghiên cứu thực địa xã hội học
thường được áp dụng cho nghiên cứu chính sách công trên thế giới. Ngay tại
Việt nam các kỹ thuật nghiên cứu này tương đối thịnh hành. Tuy nhiên, các
cơ quan nhà nước tham gia vào việc đánh giá, giám sát chính sách công còn
chưa áp dụng các phương pháp nghiên cứu này.
Khoa Chính sách công mới thành lập nên việc nghiên cứu cơ bản về
khoa học chính sách công là một vấn đề hoàn toàn mới, do vậy chưa có bất cứ
một chương trình hay đề tài nào tiến hành nghiên cứu về giám sát thực hiện
chính sách một cách đầy đủ, toàn diện. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn hướng
nghiên cứu những vấn đề lý luận về giám sát thực hiện chính sách công ở Việt
3
Nam; thực trạng giám sát thực hiện chính sách công từ thực tiễn huyện Tây
Giang, tỉnh Quảng Nam; đưa ra giải pháp hoàn thiện hoạt động giám sát trong
thời gian đến.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận giám sát thực hiện chính sách công ở
Việt Nam để có cơ sở khoa học đánh giá thực trạng giám sát thực hiện chính
sách công ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam và đề xuất các giải pháp góp
phần hoàn thiện giám sát thực hiện chính sách công ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về giám sát thực hiện chính
sách công ở Việt Nam.
Thứ hai, nghiên cứu đánh giá thực trạng giám sát thực hiện chính sách
công từ thực tiễn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế,
bất cập và nguyên nhân của các hạn chế, bất cập.
Thứ ba, xác định mục tiêu, định hướng và đề xuất các giải pháp để
hoàn thiện giám sát thực hiện chính sách công ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giám sát các chính sách công của Nhà nước ta hiện nay đang được thực
thi trên địa bàn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.
Đề tài nghiên cứu chủ thể thực hiện giám sát các chính sách công đang
thực thi trên địa bàn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc giám sát thực hiện chính sách công tại huyện Tây
Giang, tỉnh Quảng Nam.
4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
Tiếp cận hệ thống: phân tích và đánh giá các vấn đề về quy trình chính
sách công trong các yếu tố có liên quan, tác động qua lại với nhau của một
chỉnh thể thống nhất.
Tiếp cận đa ngành, liên ngành: có sự phối hợp của nhiều ngành khoa
học xã hội như kinh tế học, chính trị học, luật học, xã hội học.
Tiếp cận lịch sử: quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá
trình nghiên cứu, đặc biệt việc xem xét sự phát triển quy trình chính sách
công qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Đồng thời khi phân tích, đánh giá
từng mặt của mối quan hệ này được quán triệt trong những bối cảnh lịch sử và
những điều kiện nhìn nhận dưới góc độ logic phát triển.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xã hội liên ngành đa ngành được sử dụng chủ
đạo trong đề tài này. Cụ thể là nghiên cứu, xem xét tổng thể thực tiễn giám sát
chính sách công của Việt Nam hiện nay.
Phương pháp định tính: Phỏng vấn sâu 05 cán bộ công chức đang thực
hiện công tác giám sát chính sách công ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.
Phương pháp định lượng: Phỏng vấn bằng bảng câu hỏi đối với cán bộ
công chức, gồm: cả nam, cả nữ, cán bộ quản lý và chuyên viên.
Phương pháp xử lý số liệu:
Sử dụng một số phương pháp thống kê đơn giản.
Sử dụng chương trình SPSS để xử lý bảng câu hỏi.
Phương pháp tổng hợp, thu thập số liệu:
Số liệu thứ cấp: các số liệu về các cuộc giám sát của Quốc hội, Hội
đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (UBMTTQVN),
các ban, ngành liên quan vv.
5
Các văn bản, Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước quy định
về giám sát thực hiện chính sách công.
Số liệu sơ cấp: tự thu thập qua điều tra thực tế.
Ngoài ra, đề tài còn vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để thu
thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài
nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng,
Nhà nước, Bộ, ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu,
các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức, cá
nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề giám sát thực hiện chính sách
công ở nước ta nói chung và huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Kết hợp cùng với các phương pháp thống kê, khái quát thực tiễn,
phương pháp phân tích định tính, suy luận logic, diễn giải trong quá trình
phân tích, đánh giá chính sách.
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài này có ý nghĩa lý luận, góp phần bổ sung những vấn đề lý luận
về giám sát thực hiện chính sách công ở Việt Nam; đồng thời, biết vận dụng
các lý thuyết về quy trình phân tích chính sách công, đánh giá chính sách
công để đánh giá thực tiễn việc giám sát thực hiện chính sách công ở địa
phương.
Kết quả nghiên cứu đề tài minh chứng cho việc vận dụng các lý thuyết
phân tích chính sách công, đánh giá chính sách công là cần thiết trong quá
trình nghiên cứu thực tiễn giám sát thực hiện chính sách công, từ đó góp phần
hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công ở nước ta.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài, trước hết là góp phần nâng cao nhận
thức đối với các đồng chí lãnh đạo chính quyền, các hội, đoàn thể các cấp từ
6
tỉnh, huyện đến cơ sở hiểu rõ hơn về lý luận giám sát thực hiện chính sách
công ở Việt Nam, xem xét giữa lý luận và thực tiễn từ kết quả việc giám sát
thực hiện chính sách công tại huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam, từ đó định
hướng góp phần hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công, nâng cao
hiệu quả chất lượng hoạt động giám sát ở Việt Nam trong những năm tiếp
theo.
Kết quả nghiên cứu đưa ra các giải pháp thực hiện phù hợp hơn, việc
giám sát thực hiện chính sách công đem lại hiệu quả thiết thực, giúp các cơ
quan, đơn vị thực hiện tốt chức năng giám sát của mình để các chính sách đã
ban hành được thực thi hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tếxã hội ở địa phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo,
nội dung chính của luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giám sát thực hiện chính sách công
ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng giám sát thực hiện chính sách công từ thực tiễn
huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện giám sát thực hiện chính sách công
ở nước ta hiện nay.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm giám sát thực hiện chính sách công
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ giám sát.
Theo từ điển tiếng việt thì thuật ngữ giám sát được hiểu là “Theo dõi và
kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”. Cũng có quan
niệm cho rằng “Giám sát là việc theo dõi, xem xét của một chủ thể nào đó về
một việc làm đã thực hiện đúng hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy
định để từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, bảo
đảm cho các quy định thực hiện đúng và đủ”
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân số
87/2015/QH 13 năm 2015 quy định “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát trong việc tuân theo Hiến pháp và Pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền, hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan
có thẩm quyền xử lý”. [17]
Còn theo Ngân hàng Thế giới: “Giám sát có thể định nghĩa là một chức
năng được thực hiện một cách liên tục nhằm cung cấp cho cấp quản lý và các
bên có liên quan các dấu hiệu về tác động thành công hoặc không thành công
ban đầu của các hoạt động, dự án, chương trình đang triển khai”.
Tại Việt Nam khái niệm giám sát thực hiện chính sách công do PGS.
TS. Đỗ Phú Hải đưa ra là một khái niệm tương đối sát và được thừa nhận
rộng rãi: “Giám sát thực hiện chính sách công là hoạt động kiểm tra sự phù
hợp, hiệu quả và tác động của chính sách bởi các tiêu chí cụ thể nhằm cải
thiện để xây dựng chính sách để giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội. Đó là
8
những quy định, luật, quy tắc, nguyên tắc, thông lệ của một nhóm hoặc tổ
chức sử dụng để thực hiện các vấn đề liên quan đến giám sát”.
Như vậy, giám sát thực hiện chính sách công là việc chủ thể giám sát
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc tuân thủ, thực hiện các quy định của chính sách, xử lý
theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý nhằm
hoàn thiện chính sách, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả, hiệu lực chính sách,
nói cách khác giám sát thực hiện chính sách công là hoạt động của cơ quan có
thẩm quyền giám sát trong theo dõi, xem xét, đánh giá việc thực hiện chính
sách của đối tượng chính sách và của người dân nhằm hoàn thiện chính sách,
hoàn thiện tổ chức thực hiện chính sách và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
chính sách
1.2. Vị trí, vai trò của giám sát thực hiện chính sách công [8]
Giám sát thực hiện chính sách công có vị trí và vai trò quan trọng trong
quá trình thực hiện chính sách. Nó có vị trí như một cơ chế tồn tại song song
trong suốt quá trình thực thi chính sách, đồng thời là một bộ phận không thể
thiếu của thực hiện chính sách. Trong suốt quá trình thực hiện chính sách các
chủ thể có thẩm quyền và trách nhiệm phải thường xuyên giám sát quá trình
thực hiện đó. Giám sát thực hiện chính sách không đứng ở vị trí độc lập,
không đi trước hoặc sau hoạt động thực hiện chính sách, nó luôn song hành,
liên tục và gắn kết chặt chẽ với từng hoạt động cụ thể trong quá trình thực thi
chính sách.
Vai trò của nó thể hiện ở hiệu quả của nó mang lại, đó là thiết chế đảm
bảo chính sách được thực thi đúng, phù hợp và đảm bảo hiệu quả như mục
tiêu mà nó được xây dựng từ ban đầu. Ngoài ra giám sát thực hiện chính sách
công còn có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các căn cứ, các cơ sở cho
việc đánh giá tính hiệu quả, hiệu lực của chính sách. Giám sát chính sách tốt
9
sẽ đảm bảo hiệu quả cũng như sự minh bạch của chính sách, nếu giám sát
không tốt có thể làm cho thực hiện chính sách kém hiệu quả, ảnh hưởng đến
đời sống của đối tượng chính sách và người dân, làm giảm uy tín của chủ thể
ban hành và tổ chức thực hiện chính sách.
1.3. Mục đích của giám sát thực hiện chính sách công [8]
Hoạt động giám sát thực hiện Chính sách công góp phần phát hiện những
điều phù hợp, tốt hơn để phát huy; ngăn ngừa các vi phạm, giữ cho việc thực hiện
chính sách đúng với đề án chính sách đã được xây dựng ban đầu, quá trình thực
hiện phù hợp với thực tiễn, có những linh hoạt và điều chỉnh cần thiết cho phù hợp
với tình hình thực tiễn. Mục đích của giám sát thực hiện chính sách công là rất rõ
ràng:
Đảm bảo cho việc thực thi chính sách một cách nghiêm túc đúng với
mục tiêu đề án chính sách đã được xây dựng và hiệu lực, hiệu quả của chính
sách.
Đảm bảo quá trình thực hiện chính sách phù hợp với thực tiễn: trong đó
bao gồm và phù hợp với những quy định của pháp luật, tình hình phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia hay cộng đồng dân cư mà chính sách đó tồn tại
hoặc hướng tới.
Giúp cho việc duy trì, điều chỉnh và hoàn thiện chính sách để chính
sách tồn tại và phát huy được vai trò và tác dụng trong môi trường thực tiễn.
Giám sát thực hiện chính sách sẽ giúp phát hiện những nhân tố tiến bộ,
hợp lý, những cách làm hay, hiệu quả để thúc đẩy thành công chính sách.
Đồng thời nó sẽ giúp cho việc phát hiện những sai sót, những tồn tại và bất
cập trong thực hiện chính sách để có những điều chỉnh, những biện pháp xử lý
kịp thời và thích hợp; giúp phòng ngừa các vi phạm chính sách có thể xảy ra
và đề cao trách nhiệm của các chủ thể thực hiện chính sách
10
1.4. Bản chất của giám sát thực hiện chính sách công [7]
Bản chất của giám sát thực hiện chính sách công là một chức năng cũng
như hoạt động chỉ việc chủ thể trên cơ sở thu tập thông tin liên tục để theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động thực hiện chính sách công nhằm đưa ra
những lựa chọn cũng như phương án hành động để đảm bảo việc thực hiện
chính sách công diễn ra một cách phù hợp với đề án chính sách và đảm bảo
chính sách được thực thi một cách hiệu quả, liên tục, tạo cơ sở cho việc hoàn
thành chính sách.
Giám sát thực hiện chính sách công không phải là một hoạt động đơn
thuần không có chủ định. Nó đồng thời còn là công cụ giải pháp quan trọng
mà các cơ quan Nhà nước, các chủ thể có liên quan đến chính sách, các tổ
chức xã hội và người dân sử dụng để tham gia vào quá trình thực thi chính
sách thông qua việc theo dõi, đánh giá, kết luận và đề xuất những giải pháp,
những điều chỉnh về chính sách trong trường hợp cần thiết.
Như vậy, đây đồng thời là một hoạt động mang tính pháp lý, kỹ thuật
của quá trình thực hiện chính sách công, đồng thời là một hoạt động mang
tính chính trị của các chủ thể khác nhau trong việc giám sát hoạt động của
nhau.
1.5. Chức năng, hình thức, công cụ của giám sát thực hiện chính
sách công [7]
Chức năng: Khi nói đó là một chức năng, tức là nói đến những phương
diện hoạt động chủ yếu của hoạt động giám sát thực hiện chính sách nhằm để
thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước những yêu cầu của thực tế. Chức năng
giám sát thực hiện chính sách công được xác định xuất phát từ bản chất hoạt
động thực thi chính sách do vai trò quan trọng của bước này trong chu trình
chính sách quyết định rất lớn đến sự thành công hay thất bại của chính
sách. Chức năng của hoạt động giám sát thực hiện chính sách công là cơ sở để
11
trả lời cho các câu hỏi: Giám sát thực hiện chính sách công để làm gì? Giám
sát nhằm mục đích gì? Giám sát thực hiện Chính sách công bằng những
phương pháp, biện pháp, cách thức nào?
Giám sát thực hiện chính sách công về cơ bản có bốn chức năng chính là:
Giám sát sự tuân thủ pháp luật trong quá trình thực hiện chính sách:
Chủ thể thực hiện là Quốc hội và HĐND các cấp, chức năng này giúp giám
sát việc thi hành chính sách phù hợp với luật, Nghị quyết của Quốc hội và
HĐND để đảm bảo Luật, Nghị quyết của Quốc hội và HĐND được thực hiện
đầy đủ, đúng và phù hợp với thực tiễn.
Giám sát sự phù hợp của chính sách: Là hoạt động giám sát để đảm
bảo chính sách được thực hiện không chỉ đúng với đề án chính sách ban đầu
mà còn phải phù hợp với tình hình thực tế.
Giám sát quá trình thực hiện chính sách: Đó là hoạt động theo dõi,
giám sát liên tục những vấn đề cụ thể trong quá trình thực hiện chính sách.
Thông thường do chính chủ thể thực hiện chính sách giám sát, đó là quá
trình giám sát liên tục, vừa làm vừa giám sát để đảm bảo thực hiện một
cách hiệu quả.
Giám sát hiệu quả, kết quả và tác động của Chính sách công: Đó là
việc giám sát để đưa ra những đánh giá về tác động của quá trình thực hiện
chính sách. Tác động của chính sách đến đâu? Ở phạm vi nào? Tích cực hay
tiêu cực? Là những câu hỏi cần phải trả lời. Chức năng này không chỉ dùng để
nói đến hoạt động đánh giá hậu thực thi mà nó phải diễn ra trong cả quá trình
thực hiện chính sách, tức là chủ thể thực hiện và chủ thể giám sát, đồng thời
phải liên tục đánh giá tác động của chính sách trong quá trình thực thi, đây là
chức năng để đảm bảo tính dự báo của giám sát.
Hình thức: Là cách thức biểu hiện của hoạt động giám sát thực hiện
chính sách, nó là cách thức tồn tại của hoạt động mà chủ thể sử dụng đến tiến
12
hành hoạt động giám sát thực hiện chính sách công. Các hình thức này khá đa
dạng, phụ thuộc vào chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của chủ thể tiến hành
giám sát. Có hình thức bên ngoài và hình thức bên trong; có hình thức giám
sát thông qua các kỳ họp, thành lập đoàn giám sát như Quốc hội và HĐND;
có hình thức thông qua hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra như giám
sát của cơ quan hành chính; có hình thức giám sát trực tiếp và giám sát gián
tiếp của người dân và các tổ chức xã hội v.v…
Công cụ giám sát thực hiện chính sách công:
Công cụ pháp lý: Đây là công cụ cơ bản và quan trọng nhất, nó giữ vai
trò chủ đạo tạo cơ sở cho các chủ thể thực hiện hoạt động giám sát thông qua
xác định thẩm quyền, vai trò, vị trí, chức năng và trách nhiệm của mình đối
với giám sát thực hiện chính sách công; đồng thời công cụ pháp lý cũng cho
phép chủ thể thực hiện chính sách công xác định thẩm quyền và trách nhiệm
của mình trong vấn đề cung cấp thông tin, giải trình thực trạng quá trình thực
hiện chính sách; bên cạnh đó công cụ pháp lý còn là cơ sở để xác định trách
nhiệm, cơ chế pháp lý xử lý những vi phạm trong quá trình giám sát thực hiện
chính sách công.
Công cụ kinh tế: Giữ vai trò quan trọng thứ hai, với tư cách là công cụ
đảm bảo các nguồn lực vật chất cho hoạt động giám sát thực hiện chính sách,
công cụ kinh tế sẽ quyết định đến việc lựa chọn phương án, hình thức và nội
dung giám sát của chủ thể giám sát. Song song với công cụ kinh tế sẽ quyết
định đến thành công hay thất bại của hoạt động giám sát cụ thể khi nó có khả
năng cung cấp được công nghệ để phục vụ hoạt động giám sát hay không.
Công cụ hành chính – tổ chức: Là công cụ cung cấp nhân tố con người,
bộ máy và cách thức sắp xếp hoạt động của bộ máy trước – trong quá trình
giám sát. Nó còn đảm bảo trình tự, thủ tục của hoạt động giám sát. Đồng thời
công cụ này với cơ chế mệnh lệnh hành chính đơn phương cũng sẽ thúc đẩy
13
tính bắt buộc và trách nhiệm đối với hoạt động giám sát thực hiện chính sách.
Công cụ này với việc tổ chức bộ máy và cách thức làm việc cũng sẽ quyết
định đến thành công hay thất bại của hoạt động giám sát thực hiện chính sách.
1.6. Nguyên tắc giám sát thực hiện chính sách công [8]
Nguyên tắc khách quan: Đó là việc đảm bảo quá trình giám sát thực
hiện chính sách phải diễn ra một cách khách quan, không vụ lợi, không thiên
vị và có cái nhìn bao quát, toàn thể.
Nguyên tắc minh bạch: Hoạt động giám sát luôn phải đảm bảo yếu tố
minh bạch hóa thông tin, để giám sát đạt hiệu quả và có độ tin cậy thì việc
thực hiện nguyên tắc minh bạch là cần thiết. Sự minh bạch không chỉ ở việc
chủ thể chịu sự giám sát phải cung cấp thông tin đầy đủ, công khai cho chủ
thể thực hiện giám sát, mà sự minh bạch còn thể hiện ở việc chủ thể thực hiện
hoạt động giám sát phải công khai thông tin đầy đủ cho các cơ quan nhà nước
khác và xã hội, cộng đồng dân cư được biết.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật: Tất cả các chủ thể thực hiện hoạt động
giám sát và chủ thể chịu sự giám sát đều phải đảm bảo thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình trên cơ sở quy định của pháp luật. Bên cạnh đó trình tự,
thủ tục của hoạt động giám sát cũng phải thực hiện theo những quy định của
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nói chung.
Bảo đảm hiệu quả và không còn cản trở đến hoạt động tình huống của
cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
1.7. Các yếu tố ảnh hƣởng đến giám sát thực hiện chính sách công
Hệ thống chính trị
Đây luôn là yếu tố cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động giám
sát thực hiện chính sách công, cụ thể:
14
Hiến pháp và pháp luật: Đây là cơ sở định hình vị trí, vai trò của các cơ
quan Nhà nước, mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước đó và giữa Nhà
nước với đảng chính trị, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội.
Thể chế chính trị: Thể chế chính trị là toàn bộ các yếu tố liên quan đến
việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Giám sát thực hiện chính
sách công cần phải căn cứ vào phương pháp, cách thức tổ chức bộ máy Nhà
nước để tiến hành theo đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục.
Sự tham gia của các cơ quan Nhà nước, bao gồm Quốc hội, Chính phủ,
HĐND, UBND, các Bộ, cơ quan ngang bộ là sự tham gia quan trọng có ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động giám sát thực hiện chính sách công.
Nguồn lực kinh tế
Vai trò của yếu tố kinh tế là không thể phủ nhận với bất cứ hoạt động
nào. Nguồn lực kinh tế là cơ sở vật chất của hoạt động giám sát thực hiện
chính sách công. Nguồn lực kinh tế mạnh hay yếu sẽ quyết định đến lựa chọn
phương án và cách thức thực hiện giám sát chính sách. Các chủ thể thực hiện
chính sách và cả các chủ thể giám sát chính sách luôn cần đến sự hỗ trợ của
nguồn lực vật chất để đảm bảo hoạt động của mình hiệu quả. Nếu không có
nguồn lực kinh tế thì mọi yếu tố khác hầu như đều là bất khả thi.
Yếu tố thuộc về bên trong cơ quan, tổ chức tiến hành giám sát thực
hiện chính sách
Năng lực chủ thể giám sát: giữ vai trò quan trọng hoạt động giám sát
thực hiện chính sách. Năng lực này thể hiện trình độ, am hiểu chính sách ở
khả năng nắm bắt thông tin về tình hình thực thi chính sách, khả năng dự
đoán sự phát triển của chính sách, khả năng điều phối và đề xuất các giải
pháp, phương án thay thế khi phát hiện chính sách có vấn đề trong quá tình
giám sát.
15
Sự tương tác giữa các chủ thể giám sát: Cũng giống như chính sách
công, hoạt động giám sát thực hiện chính sách có khi là sự tham gia của nhiều
người, nhiều chủ thể, nhất là trong những trường hợp khi đồng thời các chủ
thể ấy cùng tiến hành hoạt động giám sát thực hiện chính sách thì sự tương
tác, phối hợp giữa các chủ thể trong quá trình giám sát thực hiện chính sách
đóng vai trò cô cùng quan trọng.
Yếu tố bên ngoài
Yếu tố dư luận, truyền thông: Luôn đóng vai trò rất lớn trong hoạt động
giám sát thực hiện chính sách. Sự tác động của dư luận và truyền thông là rất
lớn, có khi nó là nguyên nhân dẫn đến yêu cầu phải tổ chức hoạt động giám
sát thực hiên chính sách, cũng có khi nó là kênh giám sát rất hiệu quả; dù vậy
ảnh hưởng của dư luận và truyền thông cũng có khi mang tính chất tiêu cực
ảnh hưởng xấu đến quá trình giám sát thực hiện chính sách. Do đó, cần phải
đặc biệt quan tâm đến dư luận và truyền thông khi tiến hành giám sát thực
hiện chính sách công.
Sự tác động của các nhóm lợi ích, nhóm xã hội khác bên ngoài chủ thể
giám sát và chủ thể thực hiện chính sách: Các nhóm đối tượng này luôn muốn
thông qua lobby hoặc bằng những cách khác nhau tác động đến quá trình thực thi
chính sách và cả hoạt động giám sát thực thi chính sách để tạo ra những thay đổi
có lợi cho họ.
1.8. Chủ thể hoạt động giám sát thực hiện chính sách công
Giám sát thực hiện chính sách công là hoạt động không chỉ được thực
hiện bởi một chủ thể, mà nó được thực hiện bởi rất nhiều chủ thể khác nhau:
Giám sát của cấp ủy Đảng; cơ quan hành chính; Quốc hội và HĐND các cấp;
Viện kiểm sát nhân dân; UBMTTQ Việt Nam và tổ chức chính trị xã hội; khu
vực xã hội, người dân.
16
1.8.1. Giám sát của các cấp ủy Đảng
Đảng cộng sản: là chủ thể lãnh đạo nhà nước và xã hội, Đảng giám sát
thực hiện chính sách công ở mọi cấp thông qua tổ chức Đảng.
Giám của Đảng là một hoạt động rất quan trọng nhằm chủ động nắm
chắc tình hình và đánh giá đúng việc thực hiện chính sách công của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân có liên quan, các tổ chức đảng, đảng viên
thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý; phát huy ưu điểm; phát hiện hạn chế, thiếu
sót, khuyết điểm, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, khắc phục; cảnh báo, phòng
ngừa, ngăn chặn vi phạm của chủ thể thực hiện chính sách. Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, bảo đảm
sự đoàn kết, thống nhất trong thực hiện chính sách; ngăn chặn những biểu
hiện tiêu cực; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.
1.8.2. Giám sát của cơ quan hành chính
Giám sát hành chính là “hoạt động theo dõi, kiểm tra và xem xét của
các cơ quan hành chính nhà nước hoặc của công chức nhà nước được giao
thẩm quyền đối với đối tượng (tổ chức, cá nhân) để hướng hoạt động của đối
tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, đạt được mục đích hiệu quả
đã được xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật, chính sách được thực hiện
và tuân thủ nghiêm chỉnh”.
Là giám sát nội bộ do Chính phủ, UBND các cấp, các Bộ ngành hoặc
cơ quan thẩm quyền riêng ban hành chính sách công tiến hành.
1.8.3. Giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp
1.8.3.1. Giám sát của Quốc hội
a. Hoạt động giám sát của Quốc hội: Quốc hội giám sát thông qua các
hoạt động sau đây:
Xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
17
Xem xét báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về tình hình thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội;
Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao;
Thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem
xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban.
b. Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Uỷ ban thường
vụ Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
Xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;
Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội;
Xem xét việc trả lời chất vấn của người bị chất vấn trong thời gian giữa
hai kỳ họp Quốc hội;
Xem xét báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; xem xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
Xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
18
Tổ chức Đoàn giám sát.
c. Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội:
Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội giám sát thông qua các hoạt
động sau:
Thẩm tra báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách
hoặc theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có dấu hiệu
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên;
Trong trường hợp cần thiết, yêu cầu Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo về hoạt động
thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách;
Tổ chức Đoàn giám sát;
Cử thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về
vấn đề mà Hội đồng, Uỷ ban quan tâm;
Tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân.
d. Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội: Đại biểu Quốc hội giám
sát thông qua các hoạt động sau:
Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
19
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật
ở địa phương;
Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Đại biểu Quốc hội tự mình tiến hành hoạt động giám sát hoặc tham gia
hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội; tham gia Đoàn giám sát của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội tại địa
phương khi có yêu cầu.
e. Hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội: Đoàn đại biểu
Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau:
Tổ chức Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để các
đại biểu Quốc hội trong Đoàn giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương;
giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân mà đại biểu
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội đã chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền giải quyết;
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương trả lời về những vấn
đề mà Đoàn đại biểu Quốc hội quan tâm;
Cử đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham gia Đoàn giám sát của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội tại địa phương
khi có yêu cầu.
1.8.3.2. Giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp
Tương tự như giám sát của Quốc hội, ở địa phương có giám sát của
HĐND các cấp, gồm: giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng
nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân.
20
1.8.4. Giám sát của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân giám sát tính pháp lý của chính sách công cũng
như sự hợp hiến và quyền con người; giám sát để xem xét chính sách có phù
hợp với hệ thống pháp luật hiện hành không? Giám sát, đánh giá xem xét
chính sách công có vi phạm các nguyên tắc của một xã hội dân chủ.
Giám sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án,
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư
pháp khác theo quy định của pháp luật.
1.8.5. Giám sát của UBMTTQVN và các tổ chức chính trị xã hội
1.8.5.1. Đối tượng giám sát
Các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở.
Cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước .
1.8.5.2. Nội dung giám sát: Giám sát việc thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề
thuộc bí mật quốc gia) của cơ quan, tổ chức và cá nhân. [1]
1.8.5.3. Phạm vi giám sát
a. Đối với cơ quan, tổ chức
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Chủ trì giám sát việc thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những
vấn đề thuộc bí mật quốc gia) phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.
Các đoàn thể chính trị - xã hội: Chủ trì giám sát việc thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những
21