Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.01 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Võ Hữu Cơng*, Lê Thị Thu Uyên, Nguyễn Thanh Lâm, Phạm Văn Cường</b>
<i>Học viện Nông nghiệp Việt Nam </i>
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá phát sinh phế phụ phẩm và phế thải và tái sử dụng từ
hoạt động trồng trọt theo hướng nông nghiệp hữu cơ. Phế phụ phẩm đồng ruộng được ước tính cho
các cây trồng chính là cây lúa, ngô, lạc, rau và đậu tương. Phế thải đồng ruộng được xác định bằng
phương pháp lập ô tiêu chuẩn với tổng diện tích 1 ha, phế thải được phân loại theo thông tư
03/2018/BNNPTNT. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng lượng phế phụ phẩm đồng ruộng trong
tồn xã ước tính 301,98 tấn/năm; trong đó, cây lúa là 180,32 tấn/năm, cây ngơ 74,45 tấn/năm, cây
lạc 17,84 tấn/năm, cây rau 24,37 tấn/năm, cây đậu tương 5 tấn/năm. Lượng phế thải thu được gồm
50 loại thuốc bảo vệ thực vật và 3 loại phân bón với nhóm thuốc trừ sâu (29,8%) và thuốc trừ bệnh
(26,5%) và thuốc trừ cỏ (21,2%). Hoạt chất Trichlofon đã bị cấm sử dụng vẫn gặp khá phổ biến.
Phế phụ phẩm được tái sử dụng thông qua ủ phân hữu cơ (70%), làm giá thể trồng nấm, hoặc làm
thức ăn chăn ni (20%). Q trình tái sử dụng các phụ phẩm trồng trọt làm phân hữu cơ và thức
ăn chăn nuôi cần chú ý đến yếu tố tồn dư thuốc bảo vệ thực vật.
<i><b>Từ khóa: Phụ phẩm đồng ruộng; phế thải; phân hữu cơ; thuốc bảo vệ thực vật; tricloforn </b></i>
MỞ ĐẦU *
Việt Nam là nước nông nghiệp với khoảng
66,9% dân số làm nghề nông, trong đó có đến
48% dân số lấy nông nghiệp làm sinh kế;
nơng nghiệp đóng vai trị quan trọng trong
kinh kế hộ gia đình [2]. Lúa, ngơ và các loại
<i>Tel: 0981 954624, Email: </i>
nghiệp trên đồng ruộng thường phát sinh 2
loại chất thải là phế phụ phẩm và phế thải.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có những tính
tốn cụ thể lượng phát thải trên đồng ruộng
phục vụ công tác quy hoạch và tái sử dụng
Xã Cư n có điều kiện địa hình và khí hậu
đặc trưng cho nhiều xã của tỉnh Hồ Bình, với
điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp
đáp ứng nhu cầu cao về thực phẩm sạch và an
toàn. Ưu thế về điều kiện thổ nhưỡng và khí
hậu thuỷ văn giúp Cư n định hình được các
sản phẩm chủ lực theo hướng phát triển nông
nghiệp hữu cơ, chất lượng cao [6]. Trong
những năm gần đây, huyện Lương Sơn nói
chung, xã Cư Yên nói riêng, đã định hướng
chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản
xuất nông nghiệp hữu cơ trên đối tượng chủ
đạo là cây lúa và các loại rau, ưu tiên sử dụng
các sản phẩm an toàn và thân thiện với môi
trường, hạn chế tối đa chất thải từ hoạt động
nông nghiệp [7]. Trong bối cảnh giá thành vật
tư nông nghiệp tăng cao, phát sinh khí hiệu
ứng nhà kính từ phân bón hóa học, việc tái sử
dụng phế phụ phẩm đồng ruộng kết hợp với
chế phẩm vi sinh để sản xuất phân hữu cơ vừa
có hiệu quả quay vòng dinh dưỡng và giảm
thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, hiện
chưa có các nghiên cứu ước tính được lượng
phụ phẩm phát sinh từ các loại cây trồng cũng
như một số yếu tố hạn chế khác như lượng vỏ
bao bì thuốc bảo vệ thực vật và các loại tồn
dư khác trên đồng ruộng để có giải pháp thích
<b>Phương pháp thu thập số liệu </b>
<i><b>Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Cơ </b></i>
cấu diện tích đất, cơ cấu cây trồng và mùa vụ
của xã Cư Yên được thu thập từ báo cáo tổng
kết hàng năm của uỷ ban nhân dân xã.
<i><b>Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: Số </b></i>
liệu về diện tích, năng suất, sản lượng và phát
sinh phế phụ phẩm trong quá trình sản xuất
được thực hiện qua phỏng vấn sử dụng bảng
hỏi trên toàn thể 20 hộ dân đang canh tác trên
diện tích định hướng theo sản xuất nông
nghiệp hữu cơ.
Lượng phế phụ phẩm phát sinh được ước tính
như sau: Đối với cây lúa, phụ phẩm được xác
định chủ yếu là rơm, rạ [4].
Lượng rơm rạ phát sinh Sản lượng lúa
<i>Trong đó, tỷ lệ rơm rạ: Lúa (Trọng lượng </i>
khô của rơm rạ) (Trọng lượng khô của lúa) (2)
Cây trồng khác, ước tính lượng phát thải áp
dụng theo công thức (1), trong đó phụ phẩm
được tính bằng lượng bỏ đi. Ước tính lượng
phế phụ phẩm phát sinh được tính trên đơn vị
<i>hecta (tạ/ha). </i>
<i><b>Phương pháp điều tra phể thải đồng ruộng: </b></i>
Phế thải đồng ruộng là thành phần chất thải
khó phân huỷ, trên đồng ruộng thường là vỏ
bao bì thuốc bảo vệ thực vật, vỏ bao bì phân
bón, chai lọ. Điều tra phế thải đồng ruộng được
thực hiện trên tồn bộ cánh đồng với diện tích
10.000 m2 (1 ha) ở vùng trồng lúa vào thời điểm
tháng 6/2017. Đây là giai đoạn lúa mới cấy
được 2-3 tuần, lượng phế thải chưa được thu
gom, nằm rải rác trên cánh đồng.
<b>Phương pháp phân tích số liệu </b>
<i><b>Phương pháp phân tích mẫu phế phụ phẩm </b></i>
<i><b>trên đồng ruộng: Mỗi mẫu 200 g phế phụ </b></i>
phẩm ngô, lạc và cây cỏ hôi thu từ đồng
ruộng (Hình 1). Các chỉ tiêu protein, tinh bột
và xenlulo được phân tích theo TCVN
(a) (b)
<i><b>Phương pháp phân tích mẫu phế thải trên </b></i>
<i><b>đồng ruộng: Vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật </b></i>
được thu gom tại thời điểm đã kết thúc lịch
phun, vỏ bao bì được phân loại dựa vào thơng
tin trên bao bì. Số lượng, chủng loại được ghi
chú và đếm tần suất xuất hiện tương ứng với
lượng sử dụng và phát thải trên đồng ruộng.
Loại hoạt chất của phế thải được tổng hợp và
so sánh với Danh mục thuốc BVTV được
phép sử dụng và cấm sử dụng tại Việt Nam
ban hành kèm theo thông tư
03/2018/TT-BNNPTNT ngày 9/2/2018 [1].
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
<b>Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp </b>
Cư Yên là vùng đất bán sơn địa có tổng diện
tích đất tự nhiên 1.392,47 ha, trong đó
1.186,93 ha diện tích đất nơng nghiệp, chiếm
85,24%. Đất được sử dụng để sản xuất nông
<b>Bảng 1.</b><i>Cơ cấu sử dụng đất của xã Cư Yên</i>
<b>Chỉ tiêu </b> <b>Diện tích </b>
<b>(ha) </b>
<b>Cơ cấu </b>
<b>(%) </b>
Tổng diện tích đất 1392,47
1. Đất nông nghiệp 1186,93 85,24
1.1 Đất sản xuất nông
nghiệp 566,70 47,75
1.2 Đất lâm nghiệp 610,50 51,44
1.3 Đất nuôi trồng thủy
sản 7,21 0,61
1.4 Đất làm muối 0
1.5 Đất nông nghiệp
khác 2,52 0,20
2. Đất phi nông nghiệp 179,12 12,86
2.1 Đất ở 39,87 22,25
2.2 Đất chuyên dùng 120,28 67,15
2.3 Đất phi nông
nghiệp khác 18,97 10,60
3. Đất chưa sử dụng 26,42 1,90
Cơ cấu cây trồng khá đa dạng với diện tích
cây lúa chiếm 51%; ngô 16%; lạc 7%; sắn
5%; rau đậu các loại 11% và cây trồng khác
11%. Tùy theo từng vụ mà các loại cây trồng
được bố trí khác nhau.
<b>Phế phụ phẩm đồng ruộng </b>
Hệ số phát sinh được ước tính cho cây lúa,
ngô, lạc, rau và đậu tương tại Bảng 2. Hệ số
phát thải phụ phẩm cây lúa ước tính từ điều
kiện thực tế là 5,02 tạ/ha, cây ngô là 7,52
tạ/ha, cây rau 3,6 tạ/ha, cây đậu tương 4 tạ/ha.
Để đánh giá độ tin cậy của phép ước tính dựa
vào kinh nghiệm của người dân, hệ số phát
thải trong nghiên cứu này được so sánh với
các giá trị được Bộ NN&PTNT công bố năm
2014. Kết quả cho thấy, hệ số ước tính cho các
<b>Đặc điểm dinh dưỡng của phế phụ phẩm </b>
Thành phần dinh dưỡng trong phế phụ phẩm
là nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm môi
trường, nhưng cũng là thành phần có thể tái
sử dụng thành các dạng vật liệu hữu ích.
Trong đó, protein, tinh bột và xenlulo là 3
thành phần chính (Bảng 3). Kết quả phân tích
thành phần dinh dưỡng của thân cây ngô, lạc
và cây cỏ hôi cho thấy hàm lượng xenlulo
chiếm tỷ lệ cao nhất ở cả 3 loại phế phụ phẩm
(từ 26,59-36,32%), cao nhất ở mẫu phụ phẩm
cây cỏ và ngô. Hàm lượng protein và tinh bột
cao nhất ở cây lạc và cỏ (9,2-11,3% và
5,2-5,6%). Nghiên cứu này cho thấy, ngoài thành
phần phế phụ phẩm từ các loại cây trồng
chính, thân cây cỏ cũng có thể coi là một
nguồn cung cấp dinh dưỡng trong quá trình
tái sử dụng phế phụ phẩm đồng ruộng.
<i><b>Bảng 2. Thành phần, khối lượng phế phụ phẩm đồng ruộng </b></i>
<i>(ha) </i>
<b>Năng suất </b>
<i>(tạ/ha) </i> <b>Sản lượng </b><i>(tạ) </i> <b>Hệ số phát thải </b><i>(tạ/ha) </i> <b>Khối lượng </b><i>(tạ/năm) </i>
Lúa 10,80 92,60 1000,10 5,02 54,22
Ngô 2,10 132,20 277,60 7,52 15,80
Lạc 0,86 45,80 36,40 4,47 3,84
Rau 4,40 398,20 525,60 3,60 15,63
<i><b>Bảng 3. Đặc trưng dinh dưỡng của một số phế phụ phẩm </b></i>
<b>Phụ phẩm </b> <b>Hàm lượng (%) </b>
<b>Protein </b> <b>Tinh bột </b> <b>Xenlulo </b>
Cây ngô 5,10 1,60 34,97
Cây lạc 11,30 5,60 26,59
Cây cỏ hôi 9,20 5,20 36,32
Phương pháp TCVN 3705:1990 TCVN 8765:2012 TCCS 29:2015/TTPT
<b>Phát sinh phế thải đồng ruộng </b>
Điều tra phát sinh phế thải đồng ruộng được
thực hiện theo đặc trưng phân bố của các cánh
đồng với diện tích khảo sát là 1 ha. Số lượng
vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật và mức độ sử
dụng của từng loại thuốc trong cùng nhóm
của thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, thuốc trừ
bệnh, thuốc diệt ốc, các loại thuốc khác được
tổng hợp và phân loại theo thông tư
03/2018/TT-BNNPTNT [1]. Kết quả nghiên
cứu thực địa cho thấy người dân áp dụng 50
loại thuốc bảo vệ thực vật trên đồng ruộng và
3 loại phân bón. Tỷ lệ sử dụng cao gồm nhóm
thuốc trừ sâu (29,8%) và thuốc trừ bệnh
(26,5%) và thuốc trừ cỏ (21,2%) (Hình 2).
Bên cạnh các loại thuốc bảo vệ thực vật,
thuốc diệt chuột và kích thích sinh trưởng
cũng được sử dụng khá phổ biến. Tần suất sử
dụng các loại thuốc cũng có sự khác nhau ở
trong cùng nhóm.
Đối với nhóm thuốc trừ sâu, thuốc Fastocid
5EC và Địch bách trùng 90sp với các hoạt
chất alpha cypermethrin và trichlorfon được
sử dụng ở mức độ cao. Trong đó, hoạt chất
trichlofon là chất bị cấm sử dụng theo thông
tư 03/2018/BNNPTNT. Trichlorfon được biết
đến là thuốc trừ sâu và diệt các côn trùng như
gián, dế, rệp, bọ chét, ruồi... được áp dụng
<i><b>Hình 2. Vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật tại vùng </b></i>
<i>sản xuất nông nghiệp </i>
<b>Xử lý phế phụ phẩm, phế thải đồng ruộng </b>
Từ kết quả điều tra nông hộ thấy rằng phế phụ
phẩm đồng ruộng được các gia đình xử lý
bằng nhiều hình thức khác nhau như đốt, làm
thức ăn gia súc, ủ phân compost, làm nấm
rơm hoặc bỏ ngay tại ruộng (Bảng 4). Trong
đó, ủ phân compost là hình thức phổ biến nhất
(chiếm 70% tổng số hộ). Người dân đã tận
dụng nguồn phế phụ phẩm có sẵn này (chủ
yếu là rơm, rạ) để tạo ra phân hữu cơ vừa tiết
kiệm chi phí đầu vào mà vẫn đảm bảo được
yêu cầu của thị trường về mặt chất lượng sản
phẩm (Hình 2). Biện pháp đốt ngay tại ruộng
(chiếm 10%) được áp dụng vì xử lý nhanh mà
tốn ít sức lao động. Có 10% số hộ áp dụng phế
phụ phẩm làm giá thể trồng nấm rơm, đây là
phương pháp hữu ích đem lại lợi ích về kinh tế,
thu nhập cho người dân tại địa bàn xã.
Biện pháp dùng sinh khối thực vật làm thức
ăn chăn nuôi (chủ yếu là dùng phần thân hoặc
lá thừa của một số loại rau) chỉ chiếm tỷ lệ
<i><b>Bảng 4. Hình thức xử lý phụ phẩm đồng ruộng </b></i>
<b>TT </b> <b>Hình thức sử dụng </b> <b>Số hộ </b> <i><b>Tỷ lệ (%) </b></i>
1 Ủ phân Compost 14 70
2 Làm nấm rơm 2 10
3 Đốt 2 10
4 Làm thức ăn chăn nuôi 1 5
5 Bỏ tại ruộng 1 5
Tổng 20 100
Trong khi đó, phế thải đồng ruộng chưa được
xử lý đúng cách. Phế thải được thu gom định
kỳ và xử lý bằng biện pháp đốt cùng với rác
thải sinh hoạt. Một số người dân nhận thức
được vấn đề ô nhiễm môi trường do dư lượng
hoá chất bảo vệ thực vật gây ra đã tiến hành
thu gom cho vào túi nilon mang đi sau khi
phun, nhưng đa số vẫn để bao bì lại ở một số
khu vực trên cánh đồng. Theo đánh giá của
người dân, để quản lý hiệu quả phế thải đồng
Nghiên cứu đã ước tính tổng lượng phụ phẩm
đồng ruộng cho toàn xã là 301,98 tấn/năm;
trong đó, cây lúa là 180,32 tấn/năm, cây ngơ
74,45 tấn/năm, cây lạc 17,84 tấn/năm, cây rau
24,37 tấn/năm, cây đậu tương 5 tấn/năm.
Lượng phế thải phát sinh chủ yếu là vỏ bao bì
thuốc bảo vệ thực vật và bao bì phân bón với
khoảng 50 loại thuốc bảo vệ thực vật và 3 loại
phân bón. Tỷ lệ sử dụng cao gồm nhóm thuốc
trừ sâu (29,8%) và thuốc trừ bệnh (26,5%) và
thuốc trừ cỏ (21,2%). Trong các loại thuốc trừ
sâu, hoạt chất Trichlofon đã bị cấm sử dụng
theo thông tư 03/2018/BNNPTNT nhưng vẫn
được sử dụng khá phổ biến.
Phế phụ phẩm được thu gom cho việc ủ phân
hữu cơ, dùng làm giá thể trồng nấm và thức
ăn cho trâu bò. Nghiên cứu này đề xuất việc
đánh giá rủi ro môi trường khi sử dụng phụ
phẩm bị lẫn tạp với các loại hoá chất bảo vệ
thực vật.
LỜI CÁM ƠN
Nhóm tác giả cảm ơn Học viện Nơng nghiệp
Việt Nam đã hỗ trợ kinh phí từ đề tài
<i>(T2017-01-03 ĐTN) cho nghiên cứu này. </i>
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn
<i>(2018), Thông tư 03/2018/TT-BNNPTNT, Ban </i>
<i>hành Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng </i>
<i>và cấm sử dụng tại Việt Nam, ngày 9/2/2018. </i>
<i>2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Báo cáo </i>
<i>Môi trường Quốc gia-Môi trường nông thôn 2014: </i>
<i><b>Chương 1. </b></i>
3. Đinh Hồng Duyên, Phạm Thị Thảo Nguyên,
Phạm Thuý Kiều (2010), “Đánh giá đặc tính sinh
học và định tên nấm dùng trong xử lý phế thải
<i>nông nghiệp”, Tạp chí Khoa học và Phát triển, </i>
8(2), tr. 287-295.
4. Trần Sỹ Nam, Nguyễn Thị Huỳnh Như, Nguyễn
Hữu Chiếm, Nguyễn Võ Châu Ngân, Lê Hoàng
Việt và Kjeld Ingvorsen (2014), “Ước tính lượng
và các biện pháp xử lý rơm rạ ở một số tỉnh đồng
<i>bằng sơng cửu long”, Tạp chí Khoa học Trường </i>
<i>Đại học Cần Thơ, Phần A: Khoa học Tự nhiên, </i>
<i>Công nghệ và Môi trường, 32, tr. 87-93. </i>
5. Phạm Châu Thuỳ, Đỗ Thị Mai, Nghiêm Trung
<i>7. UBND xã Cư Yên (2016b), Báo cáo kiểm điểm </i>
<i>công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2016, </i>
<i>và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm </i>
<i>2017, Số 60 – BC/ĐU. </i>
<i>8. UBND xã Cư Yên (2017), Báo cáo tình hình </i>
<i>kinh tế-xã hội năm 2017. </i>
9. Burange A., Clark J. H., Luque R. (2016),
<i>Trends </i> <i>in </i> <i>food </i> <i>and </i> <i>agricultural </i> <i>waste </i>
<i>valorization, Encyclopedia of Inorganic and </i>
<i>Bioinorganic Chemistry, John Wiley & Sons, Ltd. </i>
10. Hashemian S., Salari K., Yazdi Z. A. (2014),
“Preparation of activated carbon from agricultural
wastes (almond shell and orange peel) for
<i>adsorption of 2-pic from aqueous solution”, </i>
<i>Journal of Industrial and Engineering Chemistry, </i>
20, pp. 1892–1900.
11. Kamthan R., Tiwari I. (2017), “Agricultural
wastes-potential substrates for mushroom
<i>cultivation”, European Journal of Experimental </i>
12. Kung C., Kong F., Choi Y. (2015), “Pyrolysis
and biochar potential using crop residues and
<i>agricultural wastes in China”, Ecological </i>
<i>Indicators, 51, pp. 139-145. </i>
14. Soleimani M., Kaghazchi T. (2007),
“Agricultural waste conversion to activated carbon
by chemical activation with phosphoric acid”,
<i>Cheminal Engineering and Technology, 30(5), pp. </i>
649-654.
15. Srinivasan P., Sarmah A. K., (2015),
“Characterisation of agricultural waste-derived
biochars and their sorption potential for
sulfamethoxazole in pasture soil: A spectroscopic
<i>investigation”, Science of the Total Environment, </i>
502, pp. 471–480.
16. Sud D., Mahajan G., Kaur M. P. (2008),
“Agricultural waste material as potential adsorbent
for sequestering heavy metal ions from aqueous
<i>solutions - A review”, Bioresource Technology, </i>
99, pp. 6017–6027.
17. Thines K. R., Abdullah E. C., Mubarak N. M.,
Ruthiraan M. (2017), “Synthesis of magnetic
biochar from agricultural waste biomass to
enhancing route for waste water and polymer
19. Zhou C., Liu Z., Huang Z. L., Dong M., Yu X.
L., Ning P. (2015), “A new strategy for
co-composting dairy manure with rice straw:
Addition of different inocula at three stages of
<i>composting”, Waste Management, 40, pp. 38–43. </i>
SUMMARY
<b>AGRICULTURAL RESIDUES AND FIELD WASTES GENERATION IN CU YEN </b>
<b>COMMUNE, LUONG SON DISTRICT, HOA BINH PROVINCE </b>
<b>Vo Huu Cong*, Le Thi Thu Uyen, Nguyen Thanh Lam, Pham Van Cuong </b>
<i>Vietnam National University of Agriculture </i>
This research aims to investigates agricultural residues and wastes generated from organic agricultural
production and its reultilization. Crop residues were identified on rice, maize, peanut, vegetable and
soybean cultivation. The field waste generation was measured by total sampling plot area of 1 ha, types
of wastes was classified reffered to circular 03/2018/BNNPTNT. The results show total amount of
residues was estimated about 301.98 tons/year, of which, rice is 180.32 tons/year, maize is 74.45
tons/year, peanut is 17.84 tons/year, vegetable is 24.37 tons/year, and soybean is 5 tons/year. The field
wastes are the inappropriate disposal bags containing 50 active chemicals from pesticides and 3
branches of fertilizers. The highly usage rates are pesticides (29.8%) and fungicides (26.5%) and
<b>Keywords: </b><i>crop residues, field waste, organic fertilizer, pesticide, tricloforn </i>
<i><b>Ngày nhận bài: 23/7/2018; Ngày phản biện: 24/8/2018; Ngày duyệt đăng: 31/10/2018 </b></i>