Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số kinh nghiệm làm đồ dùng
làm quen với toán cho trẻ lứa tuổi 5-6
Giáo viên: Lê Phương Hằng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non, môn học làm quen với toán (
LQVT ) ở lớp mẫu giáo lớn ( MGL ) đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp những
kiến thức ban đầu cho trẻ trước khi vào trường tiểu học. Nếu ngay từ khi học mẫu giáo,
trẻ đã nắm vững các khái niệm đơn giản về số lượng, kích thước, hình dạng, định hướng
không gian, thì sau này trẻ sẽ vững vàng, tự tin khi tiếp nhận những kiến thức của môn
toán học ở lớp một.
Trong quá trình cho trẻ làm quen với toán ở lớp mẫu giáo, giáo viên là người hướng dẫn,
gợi mở, tổ chức cho trẻ làm quen và thực hành trên các đồ dùng học tập nhằm hình thành
và phát triển các thao tác của tư duy như: so sánh, phân tích, tổng hợp…góp phần phát
triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Bên cạnh đó,giáo viên cần thực hiện nguyên tắc dạy
học theo phương pháp đổi mới: lồng ghép, tích hợp các nội dung giáo dục một cách phù
hợp để đạt được hiệu quả cao nhất trong học tập.
Trong quá trình hướng dẫn trẻ MGL LQVT, tôi nhận thấy: muốn cho trẻ học tập đạt kết
quả cao thì vấn đề đồ dùng đồ chơi trong tiết học hay trong giờ chơi ở góc toán phải được
coi trọng vì đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo mang tính trực quan hành động hay nói
cách khácmuốn tiếp thu được kiến thức thì trẻ phải được thực hành, hoạt động với các đồ
vật, đồ chơi. Việc trẻ tự tay biết làm ra những sản phẩm cho giờ học sẽ giúp trẻ biết trân
trọng, giữ gìn, yêu quí đồ dùng, đồ chơi và càng hứng thú khi tham gia vào các tiết học.
Như vậy, đồ dùng đồ chơi có ý nghĩa rất quan trọng trong giờ học LQVT của trẻ.Tôi đã
đọc tài liệu, học hỏi, suy nghĩ và tìm tòi để làm và khai thác được nhiều ưu thế của đồ
dùng dạy toán cho trẻ MGL. Sau đây, tôi xin trình bày kinh nghiệm của mình với đề tài: “
Một số kinh nghiệm làm đồ dùng LQVT cho trẻ lứa tuổi MGL ”. Phạm vi thực hiện đề tài
này là lớp mẫu giáo số 9 trường mầm non Mai Dịch.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1.Đặc điểm tình hình lớp:
1.1: Thuận lợi:
-Bản thân được đào tạo chính quy và đã trải qua 3 năm kinh nghiệm thực tế ( trong đó có
2 năm trực tiếp tham gia dạy lớp MGL ).
-Đã được kiến tập một số tiết mẫu của trường, của quận nên cũng đã học tập được một số
kinh nghiệm trong phương pháp giảng dạy bộ môn LQVT.
-Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục và sự quan tâm tạo điêù
kiện về cơ sở vật chất của ban giám hiệu nhà trường.
-Trẻ MGL có nhận thức cao nên việc dạy học trẻ ở một lứa tuổi đồng đều có nhiều thuận
lợi.
1.2: Khó khăn:
-LQVT là một môn học khó, đòi hỏi sự chính xác, khoa học và đòi hỏi giáo viên phải
nắm vững phương pháp môn học, linh hoạt, sáng tạo khi tổ chức các hoạt động cho trẻ
LQVT
-Khi làm đồ dùng đồ chơi, giáo viên phải tính toán nhiều đến kinh phí và hiệu quả sử
dụng.Nguyên vật liệu làm đồ dùng đồ chơi đắt, khó tìm.
-Số lượng đồ dùng đồ chơi do các công ty sản xuất để phục vụ cho môn làm quen với
toán còn rất ít và đơn sơ, giá thành cao.
-Trong lớp còn một số trẻ chưa học qua lớp MGN nên việc tiếp thu còn hạn chế, thiếu hệ
thống.
2.Các biện pháp:
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã đề ra một số biện pháp cụ thể như sau:
2.1: Nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy để làm ra đồ dùng đồ chơi học tập của cô và trẻ
cho phù hợp với đề tài.
Như chúng ta đã biết, đặc trưng của môn toán là tính chính xác và khoa học. Mỗi tiết học
cung cấp cho trẻ một kiến thức khác nhau và đòi hỏi phải có những đồ dùng đồ chơi khác
nhau, phù hợp với nội dung và hình thức tổ chức tiết học.
Ví dụ: Trong bài dạy các khối vuông, chữ nhật, cầu,trụ, tôi đã đưa ra trò chơi “ Tìm nhà ”
ở phần luyện tập. Để đáp ứng nôi dung trò chơi này, trước đó tôi phải sưa tầm một số
nguyên vật liệu có dạng các khối cần dạy như vỏ hộp, thùng, lon bia, bóng nhựa… rồi
làm những ngôi nhà có gắn các khối để trẻ chạy về nhà. Trẻ chơi rất hứng thú.
2.2: Khi làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ LQVT phục vụ cho một nội dung dạy,giáo viên
phải suy nghĩ, tìm tòi để làm ra các cặp đồ dùng đồ chơi có mối quan hệ lôgíc, hợp lý.
Như vậy, giáo viên mới có thể cung cấp được kiến thức chính xác, khoa học, phù hợp với
chủ điểm.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Số 6 – tiết 1 ” trong chủ điểm “ Thế giới động vật ”, tôi đã chọn cặp
đối tượng thỏ và cà rốt để dạy trẻ lập số. Tôi chọn cặp đối tượng trên vì những lí do sau:
- Đúng chủ điểm đang thực hiện.
- Thỏ và cà rốt có quan hệ lôgíc với nhau: Cà rốt là thức ăn mà thỏ rất ưa thích.
Trẻ đang lập số với cặp đối tượng Thỏ và Cà rốt
2.3: Khuyến khích trẻ làm một số đồ dùng học tập cùng cô.
Công việc này tuy đơn giản nhưng có giá trị rất lớn:
-Khắc sâu kiến thức toán mà trẻ đã học trên tiết học.
-Củng cố kĩ năng tạo hình của trẻ.
-Tạo hứng thú cho trẻ khi được sử dụng những đồ dùng do mình làm ra trong tiết học.
-Giáo dục trẻ ý thức biết trân trọng và giữ gìn sản phẩm do chính mình làm ra.
-Cung cấp thêm đồ dùng học tập cho lớp.
Ví dụ:
-Để phục vụ cho các tiết học về số lượng, tôi tổ chức cho trẻ vẽ các đồ vật, con vật, đối
tượng theo chủ điểm. Sau đó tôi sẽ lưu lại một số tranh đẹp, cắt dán các chi tiết cần thiết
rồi bồi lên bìa cứng để trẻ sử dụng trong tiét học.
-Để trẻ dễ liên hệ giữa số lượng và các khối đã học, tôi đã tận dụng các ngày sinh nhật
của trẻ, cho trẻ gói quà tặng nhau bằng các khối do tôi làm từ bìa để trẻ quan sát và nhận
xét.( Số lượng các khối bằng tháng sinh của trẻ ).
-Trong bài tập đo độ dài bằng các đồ dùng khác nhau, tôi và trẻ làm một số đồ dùng để đo
như: vẽ, tô màu và cắt theo hình bông hoa, bàn tay, bàn chân…rôi dùng các đồ dùng này
làm thước đo chiều dài các đối tượng.
Trẻ gói quà tặng sinh nhật từ các khối do Cô và trẻ sưu tầm
Cô và trẻ làm đồ dùng phục vụ cho tiết học đo độ dài các đối tượng
2.4: Nghiên cứu làm đồ dùng học tập sao cho một đồ dùng có thể cung cấp cho trẻ
nhiều kiến thức khác nhau, sử dụng được cho nhiều hoạt động.
Khi đó một đồ dùng học tập sẽ có hiệu quả sử dụng rất lớn, không chỉ là đồ dùng môn
toán mà có thể sử dụng cho nhiều môn học và các hoạt động khác. Việc khai thác tối đa
tính năng của các đồ dùng học tập sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí làm đồ dùng đồ
chơi học tập cho lớp.
Ví dụ: Tôi làm một bảng dạy tổng hợp bằng bìa A0, trên đó có hình ảnh các con vật được
gắn bằng các miếng dính có thể thay đổi số lượng và vị trí khi sử dụng phù hợp với các
mục đích giảng dạy khác nhau như:
-Dạy trẻ định hướng không gian: trên – dưới – trước – sau – phải – trái.
-Dạy trẻ về tập hợp, số đếm.
-Dạy trẻ về hình dạng.
-Dạy trẻ về kích thước.