Một số thông tin thú vị về chỉ số EPS
Từ ngày có cái thị trường chứng khoán, đọc báo chí, nghe tin tức thấy người ta nói
đến EPS nhiều quá nên cũng tò mò muốn biết nó là cái gì. Tìm đến hỏi một số
chuyên gia có thâm niên “đánh Đông dẹp Bắc” trên thị trường chứng khoán thì
được biết nó là viết tắt của Earnings Per Share, dịch ra tiếng Việt là lợi nhuận trên
một cổ phần. Tò mò hỏi tiếp thế vì sao mà EPS lại quan trọng thế? Lần này thì câu
trả lời phức tạp hơn, hóa ra xung quanh anh chàng EPS này cũng có khá nhiều
điều lý thú. Xin được chia sẻ cùng quý vị một số điều lý thú đó.
Vì sao EPS lại được ưa thích như vậy?
Những ai từng một lần sử dụng báo cáo tài chính đều biết một báo cáo tài chính
thông thường cũng dài mấy chục trang, các công ty lớn thì hàng trăm trang là
chuyện bình thường. Trong một báo cáo tài chính có rất nhiều thông tin, nhưng có
một dòng nằm khiêm tốn tận cuối của Báo cáo kết quả kinh doanh (Income
Statement) lại luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt. Đó chính là dòng “Lợi nhuận
trên một cổ phần” (tiếng Anh là earnings per share – EPS). EPS xuất hiện trong
hầu hết các phân tích tài chính và quen thuộc đến nỗi từ cụ già tới em nhỏ, hễ cứ
quan tâm đến thị trường chứng khoán là biết EPS có nghĩa là gì, mặc dù chưa từng
một ngày học tiếng Anh. Nhưng vì sao giữa một rừng các con số trong báo cáo tài
chính, EPS lại được quan tâm đến vậy? Câu hỏi này được Graham, Harvey,
Rajgopal (2005)đặt ra cho các vị giám đốc tài chính (CFOs) của 401 công ty tại
Mỹ, và đây là câu trả lời: Thứ nhất, các nhà đầu tư hằng ngày nhận được rất nhiều
thông tin (từ báo cáo tài chính cũng như từ các nguồn khác) trong khi khả năng xử
lý thì có hạn. Vì vậy, các nhà đầu tư cần một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp một cách đơn giản, dễ hiểu, và dễ so sánh.
EPS được coi là đáp ứng tốt các yêu cầu này. Lý do thứ hai rất đơn giản, EPS là
chỉ tiêu được sử dụng một cách phổ biến nhất và xuất hiện với tần suất nhiều nhất
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đến mức người ta mặc nhiên coi nó là
quan trọng mà chẳng cần hỏi lý do. Cuối cùng, giống như các nhà đầu tư, các
chuyên gia phân tích tài chính (financial analysts) và các ngân hàng đầu tư
(investment banks) cũng muốn có một chỉ tiêu tổng hợp để thuận tiện cho việc
phân tích, đánh giá, dự báo tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, và họ cũng
chọn EPS.
EPS và các giá trị tham chiếu (benchmarks)
Khi đã có trong tay số liệu EPS, có lẽ việc đầu tiên mà các nhà phân tích thường
làm là so sánh với các giá trị tham chiếu (benchmarks). Ba điểm tham chiếu
thường nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà phân tích là điểm 0 (tức là
mức EPS bằng 0); EPS của năm trước (hoặc của cùng quý năm trước); EPS theo
dự báo của các chuyên gia phân tích tài chính (analyst forecast) hoặc theo mức
EPS kế hoạch của chính doanh nghiệp. Các kết quả nghiên cứu cho thấy thị trường
phản ứng khá mạnh mẽ mỗi khi mức EPS của doanh nghiệp cao hơn hay thấp hơn
các điểm tham chiếu này. Ví dụ, nghiên cứu của Bartov, Givoly, Hayn (2002 ) đối
với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ giai đoạn 1983-1997 cho
thấy mức chênh lệch lợi tức cổ phiếu (return) bình quân quý giữa một công ty có
EPS bằng hoặc cao hơn dự báo của các chuyên gia phân tích (analyst forecast) dù
chỉ 1 cent và một công ty tương tự nhưng có EPS thấp hơn analyst forecast chỉ 1
cent là 3.2% (đây là mức chênh lệch sau khi đã loại trừ ảnh hưởng của các yếu tố
khác có thể có ảnh hưởng tới lợi tức cổ phiếu của các công ty như sai số dự báo,
rủi ro).
Do việc EPS cao hơn hay thấp hơn các giá trị tham chiếu có ảnh hưởng lớn tới giá
cổ phiếu nên môt điều dễ hiểu là các công ty thường cố gắng tránh rơi vào tình
trạng phải báo cáo EPS thấp hơn các điểm tham chiếu này. Vì vậy, trong trường
hợp EPS thực tế thấp hơn một chút xíu so với các giá trị tham chiếu thì các công ty
thường tìm cách “phù phép” báo cáo tài chính để có được mức EPS cao hơn. Các
kết quả nghiên cứu cho thấy hiện tượng phù phép này khá phổ biến. Ví dụ,
Degeorge, Patel, Zeckhauser (1999) phân tích các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Mỹ giai đoạn 1974-1996 và phát hiện rằng có rất nhiều (đến mức
“bất thường”) các công ty báo cáo mức EPS cao hơn 0, hoặc cao hơn EPS năm
trước, hoặc cao hơn mức dự báo của chuyên gia phân tích tài chính một chút xíu
(1-2 cent), trong khi đó có rất ít công ty báo cáo EPS thấp hơn các giá trị tham
chiếu này 1-2 cent.
Vì sao thị trường lại phản ứng mạnh mẽ với các giá trị tham chiếu?
Degeorge, Patel, Zeckhauser (1999) đưa ra một giả thuyết dựa trên Prospect
Theory rằng con người nói chung có xu hướng đánh giá các kết quả của một quá
trình (outcomes) bằng cách so sánh với các điểm tham chiếu (reference points).
Khi một công ty công bố mức EPS cho năm hiện tại, thông thường mức lợi nhuận
năm trước và mức lợi nhuận theo dự báo của các chuyên gia phân tích tài chính
cũng được công bố kèm theo. Việc thường xuyên xuất hiện đồng thời như vậy một
cách tự nhiên khiến cho hai chỉ tiêu EPS năm trước và EPS dự báo của các chuyên
gia phân tích tài chính trở thành các điểm tham chiếu quan trọng (benchmarks).
Riêng đối với điểm tham chiếu 0 thì đặc biệt hơn. Tâm lý sợ thua lỗ (loss
aversion) khiến cho các nhà đầu tư có xu hướng phản ứng mạnh mẽ hơn khi EPS
cao hơn hay thấp hơn điểm tham chiếu này. Cho dù mức chênh lệch chỉ là 2 cents
nhưng nghe từ “lãi” vẫn thấy thân thương hơn từ “lỗ”.
Nguyên lý chung là như vậy, nhưng trên thực tế phản ứng của thị trường khi EPS
của doanh nghiệp cao hơn hay thấp hơn các mốc tham chiếu này còn mạnh mẽ
hơn do tác động của yếu tố tâm lý. Ví dụ, khi một công ty công bố EPS cao hơn
các mức tham chiếu, giá cổ phiếu của công ty đó thường tăng mạnh do:
Thứ nhất, một số nhà quản lý quỹ (fund managers) có thiên hướng ưa thích các
công ty có lợi nhuận tăng trưởng. Các fund managers này sẽ tăng cường mua cổ
phiếu của các công ty có EPS cao hơn so với năm trước hoặc so với dự báo của
các chuyên gia phân tích tài chính, và khi cầu đủ lớn thì giá tất sẽ tăng.
Thứ hai, các chuyên viên phân tích và nhà đầu tư trẻ, thiếu kinh nghiệm thường có
xu hướng phản ứng thái quá (over-reaction) khi các công ty báo cáo mức EPS cao
tương đối so với các điểm tham chiếu.
Ngươc lại, khi một công ty công bố EPS thấp hơn các mức tham chiếu thì giá cổ
phiếu của công ty đó thường giảm mạnh do:
Thứ nhất, các nhà đầu tư có xu hướng mặc định rằng mọi công ty đều tìm cách
phù phép lợi nhuận để có EPS cao hơn các mốc tham chiếu. Vì vậy, khi một công
ty báo cáo EPS thấp hơn các mốc tham chiếu này thì đó là dấu hiệu có điều gì đó
bất ổn đối với công ty (đến mức không thể phù phép cho EPS cao hơn). Kết quả là
giá cổ phiếu của công ty đó nhiều khả năng sẽ bị điều chỉnh giảm.
Thứ hai, các chuyên viên phân tích và nhà đầu tư trẻ, thiếu kinh nghiệm thường có
xu hướng phản ứng thái quá (over-reaction) khi các công ty báo cáo mức EPS thấp
hơn so với các điểm tham chiếu.
Thứ ba,thù lao của các fund managers thường được xác định trên cơ sở so sánh
với kết quả hoạt động của các fund managers khác trong cùng kỳ (relative
performance evaluation). Vì vậy, khi một fund manager phản ứng thái quá đối với
EPS thấp hơn mốc tham chiếu bằng cách bán ra sẽ kéo theo nhiều fund managers
khác bán ra theo, khiến cho giá cổ phiếu càng giảm. Thứ tư, một số hedge funds sử
dụng các chương trình bán ra tự động (automatic sell programs). Các chương trình
này có thể được thiết kế để tự động đặt lệnh bán khi EPS thấp hơn một số điểm
tham chiếu, tạo ra hiện tượng bán ồ ạt dẫn tới giá cổ phiểu bị giảm (Xem Raigopal,
Shivakumar, Simpson [2007] ).
Tóm lại, dường như lý do quan trọng nhất khiến EPS được ưa thích là do tính “dễ
sử dụng” và “được thừa nhận rộng rãi” của chỉ tiêu này hơn là bản chất kinh tế
(economic fundamentals) của nó. Mặc dù các chuyên gia phân tích tài chính luôn
khẳng định rằng EPS là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, nhưng những băn khoăn không phải là không có lý. Liệu
một con số có thể tổng hợp được tình hình hoạt động của cả một doanh nghiệp với
muôn vàn các sự kiện trong suốt một năm không? Câu trả lời chưa có, nhưng lâu
nay cả thế giới người ta dùng EPS mà có làm sao đâu nhỉ. Thôi thì lại theo phương
châm: cái gì tồn tại thì có lý.
Trần Đức Nam
(VACO)
Tài liệu tham khảo
Bartov, E., D. Givoly, and C. Hayn, 2002, The rewards to meeting or beating
earnings Expectations, Journal of Accounting and Economics 33: 173–204
Degeorge, F., J. Patel and R. Zeckhauser, 1999, Earnings management to exceed
thresholds, Journal of Business 72: 1-33
Graham, J.R, C.R. Harvey, and S. Rajgopal, 2005, The economic implications of
corporate financial reporting, Journal of Accounting and Economics 40: 3-73
Raigopal, S., L. Shivakumar, and A. Simpson, 2007 , A Catering Theory of
Earnings Management, Working Paper (University of Washington)