Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Lịch sử Y dược của Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.72 KB, 9 trang )

Lịch sử Y dược của Trung Quốc




DÀN BÀI

1. NGUỒN GỐC TRUNG Y
2. Y SƯ VÀ Y THUẬT
3. KHÍ VÀ SINH LÝ HỌC CON NGƯỜI
4. CẤU TRÚC CƠ THỂ CON NGƯỜI
5. CHÂM CỨU
6. DƯỠNG SINH
7. DƯỢC PHẨM VÀ THỨC ĂN TRỊ LIỆU



1. NGUỒN GỐC TRUNG Y

Xưa nay biết bao học giả đã gắng công chú giải kinh điển Trung y.
Những chứng cứ khảo cổ mới được phát hiện gần đây và các công
trình nghiên cứu về những ký lục của các y sư riêng biệt về các y
án đã tiết lộ cho thấy một xu hướng canh tân và đa dạng trong việc
thực hành Trung y. Những dị biệt theo khu vực địa lý cũng như
những yếu tố xã hội và chính trị đã ảnh hưởng rõ rệt cách thức mà
cá nhân hay tập thể đã xây dựng và thuyết giải nền y học cổ điển.
Trong khi hầu hết các nguồn tư liệu viết bằng chữ Hán mô tả một
cách giới hạn về một nền y thuật kiệt xuất và do nam giới đảm
nhiệm, thì một số văn bản tiết lộ về một lịch sử y học của phụ nữ.

Hoàng Đế



Những gì chúng ta biết được về sự thực hành Trung y suốt đời
Chiến Quốc và đời Hán là chủ yếu góp nhặt từ các chuyên luận của
các tác giả vô danh về triết lý và y thuật. Các tác giả Trung Quốc
ngày xưa có xu hướng gán tác phẩm của mình cho tam hoàng ngũ
đế, các y sư truyền thuyết, hay các bậc thầy của họ. Khi nghiên cứu
y thuật, các y sư ngày xưa thường sao chép các đoạn bản thảo và
sắp xếp chúng theo một thứ tự nhằm phản ánh sự kế tục của các y
sư bậc thầy thuộc nhiều trường phái khác nhau. Điều này giải thích
sự hiện diện của bốn sưu tập lớn về các y luận châm cứu, được biết
chung dưới tên Hoàng Đế Nội Kinh. Hoàng Đế là một vị vua
truyền thuyết, tương truyền sống khoảng 2697-2597 tcn, và được
xem là cha đẻ của Trung y. Đa phần lý thuyết trong Hoàng Đế Nội
Kinh (biên soạn khoảng đầu công nguyên) được trình bày qua lời
vấn đáp giữa Hoàng Đế và Kỳ Bá, một vị quan cũng là chuyên gia
về châm cứu và các vấn đề huyền bí.

Giá trị mà những bậc học thức nhìn nhận đối với các y luận này có
thể giải thích sự hiện diện của những sưu tập đầu tiên về các tư liệu
tương tự trong các ngôi mộ đời Hán, thí dụ như 3 ngôi Hán mộ
được phát hiện tại Mã Vương Đôi, thuộc Trường Sa, tỉnh Hồ Nam
hiện nay. Trong số các văn bản khai quật ở ngôi Hán mộ số 3 thì
có 7 văn bản đề cập lý thuyết âm dương, lời chú cúng tế, phòng
trung thuật, tĩnh tọa, và các phương thuốc bào chế từ thảo dược,
động vật, và các chất liệu gia dụng.

Sự phát triển mau chóng của thương mại nói chung và của kỹ thuật
ấn loát nói riêng vào đời Minh đã giúp phổ biến kiến thức y học.
Sự giao tiếp trực tiếp giữa y sư và đệ tử không quan trọng bằng
việc các y điển quan yếu được phổ biến rộng rãi hơn trước. Trong

các gia đình theo nghiệp y, các thế hệ con cháu đã xuất bản và đề
cao tác phẩm y học của gia tiên. Rõ ràng việc tường thuật các ca
chẩn trị thành công này đã chứng minh các quan điểm lý thuyết và
thể hiện những kỹ thuật mới. Những y án cũng trở nên phổ biến
hơn, giúp người ta thấy được lý thuyết Trung y được vận dụng
trong thực tế ra sao.

Sau cùng, văn chương, nhất là các tiểu thuyết từ đời Minh và đời
Thanh đã tạo một ấn tượng muôn màu về sự phức tạp và tinh tế
của thế giới Trung y.



2. Y SƯ VÀ Y THUẬT

Hoa Đà

Những nghiên cứu về lịch sử Trung y cho thấy các y sư Trung
Quốc thuở xưa thực là đa dạng. Họ đồng thời cũng có thể là nho sĩ,
tăng nhân, đạo sĩ, hay phụ nữ. Tuy nhiên những chuyên luận do
các y sư trứ tác đôi khi đã ảnh hưởng đến sự phát triển của Trung
y, thí dụ như tác phẩm Thương Hàn Luận của Trương Trọng
Cảnh (142-220). Tác phẩm được người đời sau trích dẫn rất nhiều
này đã chào đời sau một nạn bệnh dịch xảy ra và tàn phá thị trấn
ông cư ngụ. Y luận của ông được kế tục vào đời Tống, Kim,
Nguyên do một số y sư có tư tưởng canh tân và lập nên trường
phái riêng, chẳng hạn như Tôn Tư Mạc (khoảng 581-682, về sau
được sùng bái như một vị thần y dược).

Suốt đời Thương, chiêm bốc hẳn rất cần thiết để xoa dịu cơn thịnh

nộ của tổ tiên; nhưng những khi khác thì chiêm bốc và lịch pháp
được dùng để xác định quá trình và hậu quả của bệnh tật. Giới vu
hịch (đồng cốt), nhất là nữ vu (bà đồng) cũng thực hành y thuật,
một công việc liên quan đến chức năng tôn giáo của họ. Họ chuyên
về chiêm bốc, mà việc này dùng để chẩn bệnh. Họ có thể niệm
danh các chư thần, triệu vời ma quỉ và chiêu hồn tổ tiên về trợ giúp
việc trị bệnh, hoặc chế tác các hình nộm của bệnh nhân để thư ếm
hay trị bệnh.

Các phương pháp chẩn bệnh cổ truyền gọi là tứ chẩn: vọng (quan
sát), văn (nghe), vấn (hỏi han), và thiết (bắt mạch). Tư Mã Thiên
chép truyện Biển Thước và Thương Công trong Sử Ký, đã kể rằng
thần y Biển Thước thời Chiến Quốc đã biết «thiết mạch, vọng
chẩn, thính thanh, vấn chẩn» rồi.

Tôn Tư Mạc

Các tác phẩm y học đã chứng minh rằng cả y thuật mang tính tôn
giáo lẫn ma thuật có lúc đã là thành phần chủ lực trong truyền
thống y thuật bác học. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ II tcn, những y
sư thực hành y thuật theo triết lý tự nhiên hẳn đã tự xem mình là
những người bảo vệ cho một truyền thống y học dựa trên kinh
điển.

Trong khi sự phát triển dược học là một phần chủ lực của thuật
luyện đan Đạo giáo, thì các nhà sư từ khi Phật giáo du nhập vào
Trung Quốc sau thế kỷ I cn đã bắt đầu bào chế thuốc cũng như đặt
ra cách ăn chay, tham thiền, và các bài tập điều tức. Bùa chú và
pháp nội quán dùng để trị các bệnh do tà quái gây ra.


Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cách thực hành y thuật mang
tính chất mê tín đã bị hạn chế. Tuy nhiên, Trung y vẫn tiếp tục phát
triển ở tầm mức địa phương và địa vị của Trung y đã được khôi
phục phần nào sau khi Cộng sản nắm quyền.



3. KHÍ VÀ SINH LÝ HỌC CON NGƯỜI

Những yếu tố quan trọng nhất trong cơ thể con người là tinh, khí
thần. Những tư liệu cổ xưa nhất như văn tự khắc trên đồ đồng đời
Thương và đời Chu đã có chữ khí 氣 và chữ khí liên quan đến thực
phẩm dinh dưỡng (trong chữ khí 氣 có chữ mễ 米 là gạo). Các tư
liệu khoảng giữa đời Chiến Quốc cho thấy xu hướng dùng chữ khí
để mô tả tình trạng không khí và môi trường, nhất là hơi ẩm ướt,
vân vụ, và sương mù, rồi bằng sự suy luận tương tự, người ta dùng
chữ khí để mô tả những đặc tính vô hình và tập trung thí dụ khói
hay ma quỷ.

Giữa thế kỷ IV cn, chữ khí được dùng để mô tả một chất liệu cơ
bản trong cõi tự nhiên giúp tăng cường sự sống trong thế giới biến
thiên. Nó cũng được dùng để mô tả sự cường điệu về các cảm giác

×