Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân hóa môn âm nhạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.42 KB, 12 trang )

PHƯƠNG PHÁP PHÂN HOÁ ĐỐI TƯỢNG HỌC SINH
TRONG GIẢNG DẠY MÔN ÂM NHẠC.
I/ Đặt vấn đề:
1/Lý do viết sáng kiến kinh nghiệm:
Âm nhạc là một phân môn được coi là môn năng khiếu, vì nó đòi hỏi học sinh phải biết mô
phỏng lại được các âm thanh theo các âm vực khác nhau trong cùng một giai điệu. Tuy nhiên
không phải em nào cũng thể hiện được và từ đó phát sinh ra nhiều đối tượng học hát khác nhau.
Để tất cả các em được học và học được môn âm nhạc thì người giáo viên phải biết cách
giảng dạy sao cho phù hợp với tất cả đối tượng học sinh trong cùng một tiết dạy nhằm đảm bảo
được chuẩn kiến thức kỹ năng và phát huy được tính sáng tạo trong các em.
Vì thế phân hoá đối tượng học sinh là một phương pháp nhằm giúp giáo viên đảm bảo được
các yêu cầu trên.Nhưng cần phải hiểu phân hoá không phải là phân loại đối tượng học sinh mà là
một phương pháp nhằm truyền đạt kiến thức sao cho phù hợp với từng đối tượng nhằm giúp các
em học được và phát triển tốt khả năng hát nhạc.
Vì vậy phân hoá đối tượng học sinh là một phương pháp giúp giáo viên thành công trong
dạy nhạc.Để thực hiện được tốt, bước đầu cần làm là cải tiến phương pháp dạy học sao cho phù
hợp với đặc điểm tâm lý của từng đối tượng, cũng như khả năng tư duy, cảm thụ và diễn đạt âm
nhạc, đồng thời tích cực hoá việc học nhạc của học sinh.
2/ Xuất phát việc viết sáng kiến kinh nghiệm .
a/ Tầm quan trọng của môn âm nhạc.
Âm nhạc là một trong những phân môn giúp học sinh phát triển một cách toàn diện như:
khả năng nghe, nhìn, tiếp thu và cảm nhận các âm vực, giai điệu và sắc thái của âm thanh, khả
năng kết hợp điều khiển cùng lúc các hoạt động, rèn luyện tính tự tin, kích thích óc sáng tạo, khả
năng giao tiếp.v.v.., nên trong giảng dạy không thể xem nhẹ, hay dạy một cách qua loa trong
việc phát huy khả năng cho từng đối tượng.
b/Do điều kiện.
- Phía học sinh:
Thời gian học hát của các em quá ít, mỗi tuần chỉ có một tiết. Do đó khả năng học thuộc bài
hát là rất hạn chế dẫn đến việc hát đúng, hát hay là chưa cao. Bên cạnh đó lứa tuổi các em chỉ
thích vui chơi nô đùa là chính, các em học nhạc chỉ vì vui, chỉ vì hát là sở thích nên các em ít khi
thể hiện rõ nét khả năng học nhạc của mình.


-Phía gia đình:
Gia đình chỉ chú trọng vào việc học toán, tiếng việt .v.v.. là chính, chưa thấy được tầm
quan trọng của môn âm nhạc nên chưa quan tâm đến việc học hát của các em.
- Phía giáo viên:
Đối với giáo viên không chuyên thì lại dạy quá nhiều môn và bị đặt nặng vào việc dạy toán
và tiếng việt, bên cạnh đó họ còn thiếu đi phương tiện hổ trợ trong dạy hát như máy cassett, khả
năng chuyên môn về nhạc còn nhiều hạn chế.
Còn giáo viên chuyên thì được đào tạo quá ngắn hạn nên cũng gặp rất nhiều khó khăn trong
việc sử dụng đàn organ để hổ trợ hát cho học sinh. Phần lớn là tự học, tự tìm kiếm kiến thức để
hỗ trợ cho phương pháp và tay nghề chuyên môn của mình.
II/ Nội dung biện pháp giải quyết:
Từ những nguyên nhân trên đã tạo ra các dạng đối tượng học sinh khác nhau nên việc giảng
dạy âm nhạc gặp rất nhiều khó khăn. Do đó qua nhiều năm nghiên cứu và nhất là những năm
dạy chuyên nhạc tôi đã tìm ra một số biện pháp tích cực và cụ thể trong việc phân hóa đối tượng
học sinh nhằm giúp cho từng đối tượng đó được hát và hát được.
1
Để phân hoá đối tượng học sinh tôi thực hiện như sau:
1/ Nắm lại các yếu tố cần thiết khi giảng dạy.
a/Đối tượng học sinh.
- Đầu năm học cũng như trong từng tiết dạy cụ thể tôi thường cho các em xung phong lên
hát để xem thực trạng học hát của các em như thế nào, từ đó phân ra các dạng đối tượng trong
từng lớp học. Trong trường hợp nầy tôi cần chú ý tìm ra được những đối tượng ảo, những đối
tượng nầy hát được nhưng lại không chịu thể hiện khả năng của mình.
- Sau khi nắm chắc một loạt đối tượng tôi bắt đầu phân hoá đối tượng học sinh, lên kế
hoạch thực hiện các phương thức hoạt động dạy học cùng với kinh nghiệm bản thân để có một
kế hoạch giảng dạy thích hợp.
- Tiến hành kiểm tra việc thuộc nhạc của học sinh để thấy được các em có khả năng cảm
thụ âm nhạc ở mức độ nào. Tôi thấy đây là bước quan trọng để hạn chế việc phân hoá nhầm và
từ đó có được một kế hoạch cụ thể và phù hợp.
b/ Cấu trúc chương trình cũng như chuẩn kiến thức kỹ năng.

* Cấu trúc chương trình.
Nhìn vào cấu trúc chương trình của từng khối lớp ta thấy chúng giống nhau về số tiết dạy
của cả năm, mỗi bài được dạy trong hai tiết. Nội dung cấu trúc chương trình mang tính đồng tâm
và được nâng dần theo từng khối lớp.
Ví dụ:
+Lớp 1: Một năm học có 35 tiết, mỗi bài được dạy 2 tiết, các bài hát thuộc nhịp @ , chủ
yếu thuộc giọng pha và đô trưởng.Nhìn chung giai điệu tương đối dễ đối với học sinh.
+Lớp 2: Một năm học có 35 tiết, mỗi bài được dạy 2 tiết, có một số bài hát thuộc nhịp
@ ,một bài nhịp #,một bài nhịp $, các bài hát thuộc giọng pha, đô và son trưởng.Nhìn chung
giai điệu tương đối dễ đối với học sinh.
+Lớp 3: Một năm học có 35 tiết, mỗi bài được dạy 2 tiết, có 8 bài thuộc nhịp @ ,một bài
nhịp #,một bài nhịp $, đa số các bài hát thuộc giọng trưởng có một bài thuộc giọng thứ.Các
em bắt đầu làm quen với khuông nhạc, tên nốt và hình nốt. Tính chất khó trong giai điệu được
nâng lên.
+Lớp 4: Một năm học có 35 tiết, mỗi bài được dạy 2 tiết, có 8 bài thuộc nhịp @ ,một bài
nhịp #, một bài nhịp $, đa số các bài hát thuộc giọng trưởng có một bài thuộc giọng thứ. Tính
chất khó trong giai điệu được nâng lên. Các em còn được học phần đọc nhạc, bước đầu làm
quen với 6 nốt nhạc đô, rê, mi, pha, son, la với các hình tiết tấu chủ yếu là trắng, đen, móc đơn.
Có 8 bài tập đọc nhạc đều thuộc nhịp @ .
+Lớp5: Một năm học có 35 tiết, mỗi bài được dạy 2 tiết, có 8 bài thuộc nhịp @ ,một bài
nhịp #, một bài nhịp $, đa số các bài hát thuộc giọng trưởng có một bài thuộc giọng thứ. Tính
chất khó trong giai điệu được nâng lên. Các em còn được học phần đọc nhạc, bước đầu làm
quen với 7 nốt nhạc đô, rê, mi, pha, son, la, si với các hình tiết tấu chủ yếu là trắng, đen, móc
đơn và dấu chấm vôi. Có 8 bài tập đọc nhạc 7 bài thuộc nhịp @ và một bài thuộc nhịp # .
*Chuẩn kiến thức kỹ năng.
-Nhìn chung chuẩn kiến thức là một trong những yếu tố nền tảng làm cơ sở trong giảng dạy
cho giáo viên. Tuy nhiên yếu tố cần thiết để đạt được chuẩn và nâng cao khả năng tư duy của
hoc sinh lại là phương pháp, kinh nghiệm đứng lớp của giáo viên, dạy như thế nào để tất cả các
đối tượng đều đạt chuẩn và từ chuẩn phát triển tư duy.
2

-Như vậy ta có thể so sánh chuẩn giống như cái nền của ngôi nhà, từ cái nền đó giáo viên tự
xây dựng cho các em những ý tưởng về kiểu dáng cũng như cách trang trí ngôi nhà sao cho phù
hợp với từng đối tượng
- Thực hiện như thế chúng ta đã cho các em đạt được cái cần đạt và từ đó phát huy khả
năng sáng tạo của từng đối tượng theo từng giai đoạn phát triển của lứa tuổi cũng như cấu trúc
chương trình.
2/Biện pháp thưc hiện.
*Các biện pháp hỗ trợ cho viêc phân hoá đối tượng học sinh.
Để thực hiên tốt việc phân hoá đối tượng học sinh tôi có các biện pháp hổ trợ như sau:
a/ Học thuộc lời.
-Đầu tiên tôi dựa vào chuẩn kiến thức để làm nền tảng chung cho cả lớp sau đó đi vào sự
phân hoá cho phù hợp với từng đối tượng. Đây là một yếu tố rất quan trọng vì nó là cái cơ bản
để học sinh hát được. Có thuộc lời các em mới có thể hát đúng giọng và tạo được sự tự tin trong
biểu diễn. Để giúp các em thuộc lời tôi thực hiện bằng cách:
+Thực hiện kỹ phần chuẩn bị bài của học sinh.
Ví dụ: Để dạy bài mới trong tiết một thì phần dặn dò của tiết hai trước đó tôi dành ra một
phút đàn và hát cả bài cho các em nghe nhằm giúp bước đầu hình thành giai điệu và làm cơ sở
để các em tập hát ở nhà trước. Thực hiện cách này tôi thấy hiệu quả rất tốt.
+Đến phần dạy bài mới tôi thực hiện:
.Viết trước bài hát lên bảng
.Đàn và hát cả bài một lần.
.Hướng dẫn học sinh đọc lời từng câu rồi cả bài (giành cho học sinh lớp một).
.Hướng dẫn đọc theo tiết tấu được thực hiện như sau.
Giáo viên đọc tiết tấu cả bài đồng thời đánh dấu vào những chỗ ngưng, nghỉ hoặc ngân dài
bao nhiêu phách hay những đoạn đọc nhanh để các em có được hình ảnh trực quan nhằm giúp
bước đầu thực hiện giai điệu được tốt hơn.
Ví dụ:Học hát bài “Sắp đến tết rồi”
nhạc và lời: Hoàng vân.
Giáo viên thực hiện như sau:
Sắp đến tết/ rồi/ đến trường rất/ vui/….

Giáo viên hướng dẫn đọc từng câu rồi cả bài (khi học sinh đọc có những chỗ ngưng hay
kéo dài thì tuỳ bài mà giáo viên có thể đếm 1 hoặc 2 hay 1,2 hoặc 2,1….., để làm cơ sở cho học
sinh hát đúng nhịp).
Ví dụ: bài “Tiếng hát bạn bè mình”
nhạc và lời: Lê Hoàng Minh
Khi đọc đến lời “….bình yên rất say……” thì giáo viên đếm 1,2 học sinh mới đọc tiếp”…
một đàn chim tung cánh….”.
Như vậy tuỳ theo từng lớp mà giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc lời hay đọc theo tiết
tấu nhiều hoặc ít. Trong quá trình đọc cần theo dõi, chấn chỉnh những em không đọc, hay đọc sai
để có biện pháp nhắc nhở, khắc phục.
*Ở nhà:
Sau khi học xong mỗi bài tôi thường khuyến khích các em về nhà hát lại cho gia đình nghe,
nhằm tạo thêm động lực khích lệ, sự quan tâm của gia đình và cũng nhằm phát huy tính thích hát
của các em.
Để kiểm tra phần nầy khi vào tiết học tôi thường hỏi:
+Các em về nhà có hát cho gia đình nghe không?
+Sau khi hát cha, mẹ, anh, chị,…. Nói gì?
3
Sau khi hỏi một số vấn đề, tôi bắt đầu kiểm chứng lại việc dạy của mình để làm sao gia
đình có thái độ thích thú với việc học nhạc của các em.
* Nhà trường.
Về phía nhà trường đầu năm học tôi nhờ các lớp thường xuyên hát ở đầu buổi hoặc lúc ra
chơi vào để tạo cho các em có điều kiện học thuộc lời bài hát dễ dàng hơn.
* Giáo viên:
Để nhằm đảm bảo được việc phân hoá đối tượng học sinh giáo viên cần có:
-Thường xuyên tập luyện giọng hát để thể hiện đúng gai điệu, đúng ca từ.
-Tập sử dụng thành thạo các loại dụng cụ hỗ trợ cho tiết dạy như đàn organ, máy hát, dụng
cụ gõ đệm cũng như các loại dụng cụ hỗ trợ khác.
-Thường xuyên không ngừng tìm tòi, nghiên cứu tự học, tự bồi kiến thức âm nhạc để tìm ra
những biện pháp phù hợp với đặc điểm tâm lý trẻ nhằm giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức.

-Thay đổi nhiều hình thức hoạt động nhằm gây hứng thú học tập cho nhiều đối tượng.
-Cần xây dựng phương pháp tổ chức tiết dạy sau cho tất cả các đối tượng được hát và hát
được đồng thời biểu diễn tự tin và sáng tạo.
-Cần tạo mặt bằng kiến thức chung theo chuẩn để từ đó nâng cao dần các đối tượng theo
nguyên tắc: Từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
* Phương pháp phân hoá đối tượng học sinh.
Ta cần phải hiểu, phân hoá không có nghĩa là phân loại đối tượng học sinh để xếp theo
dạng giỏi, khá, trung bình hay yếu được. Vì tôi xét nghĩ phân hoá phải dựa vào các đặc điểm,
yếu tố, phong cách, cũng như khả năng thể hiện của các em mà phân hoá thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm năng khiếu có chất giọng, khả năng lĩnh hội âm nhạc tốt, biết giữ nhịp
và biểu diễn tự tin, có tính sáng tạo, phong cách chuẩn chạc.
Nhóm 2: Nhóm hát biểu diễn được nhưng chưa tự tin còn nhút nhát, còn một vài khuyết
điểm.
Nhóm 3: Nhóm không thể hiện được ca từ, chưa có chất giọng tốt, chưa biết giữ nhịp,
biểu diễn chưa tự tin, chưa có tính sáng tạo.
Từ đó tôi lên kế hoạch giảng dạy phân hoá theo từng đối tượng cho một tiết dạy như sau:
* Chọn ra phương pháp hoạt động thích hợp cho từng nhóm đối tượng.
Bước 1: Việc cần làm đầu tiên là tôi phải xác định rõ mục tiêu cần đạt của bài theo chuẩn
kiến thức kỹ năng
Bước 2: Phân hóa đối tượng theo chuẩn kiến thức cần đạt.
Bước 3: Tìm ra phương pháp hoạt động thích hợp cho từng nhóm đối tượng để các em tự
lĩnh hội được kiến thức và phát huy theo khả năng của mình.
Bước 4: Các phương thức hổ trộ thích hợp nhằm gây được sự thích thú trong học tập cũng
như khích lệ tâm lý của từng đối tượng để các em có thể tự tin trong biểu diễn.
Bước 5: Phát triển tư duy sáng tạo.
*Tiến hành thực hiện giảng dạy cụ thể cho từng nhóm như sau:
a/ Đối với nhóm 1:
Xét về đặc điểm tâm lý thì đây là nhóm rất hiếu động và tích cực, các em rất thích được
biểu diễn để được khen. Thường các em chiếm hết các hoạt động của các đối tượng khác, vì thế
tôi thường dành cho nhóm này nhiều trong những hoạt động tìm ra sự khác biệt trong giai điệu,

trong sáng tạo biểu diễn, cũng như thể hiện diễn cảm của ca từ.
Ví dụ:
+Thực hiện trong phần gõ đệm: Phần này được thể hiện nhiều trong kiểm tra bài cũ, có thể
dựa vào gõ đệm tiết tấu hoặc phần đàn giai điệu để tìm ra tên bài hát, tác giả.
Giáo viên gõ tiết tấu và hỏi: Đây là tiết tấu của bài hát nào? Nhạc và lời của ai? Hoặc đàn
giai điệu và hỏi: Đây là giai điệu của bài hát nào? Nhạc và lời của ai?
4
+Thực hiện phần giai điệu: Thông thường cho các em so sánh sự giống và khác nhau về
giai điệu. Phần này được thể hiện nhiều trong dạy bài mới, rõ nét nhất là dạy hát từng câu.
Ví dụ: Bài”Hãy giữ cho em bầu trời xanh”
Sau khi dạy lời 1 xong “Hãy xua tan…. dưới trời xanh” thì giáo viên đàn lời 2”hãy chặn
tay….khắp hành tinh” và hỏi:
.Các em có nhận xét gì về giai điệu của lời 2 so với giai điệu của lời 1?
.Các em có thể dễ dàng tìm ra sự giống nhau về giai điệu nhưng khác nhau về ca từ.
+Trong sáng tạo biểu diễn tôi chia ra làm hai phần.
1/ Hình thức biểu diễn:Các em có thể tự chọn cho mình một hình thức như đơn, song hay
tóp ca để thực hiện hát bè hay hát đối đáp….
2/ Phần phụ hoạ: các em có thể tự sáng tạo tìm ra động tác mới để thể hiện. Phần này
được thực hiện cả trong tiết 1 và tiết 2.
Ví dụ:
.Ở tiết 1 sau khi dạy hát xong đến phần biểu diễn cho học sinh hát đơn, song, tóp ca thì giáo
viên hỏi:
+Em nào có thể hát và tự tìm ra động tác phụ hoạ cho bài nầy?
.Ở tiết 2 sau khi cho các em biểu diễn hát và kết hợp phụ hoạ theo chỉ dẫn của giáo viên
xong thì hỏi:
.Em nào có thể tìm ra động tác mới để phụ hoạ bài nầy?
Như vậy từ cái nền tảng của chuẩn kiến thức tôi đã phát huy năng khiếu của các em trong
nhóm 1. Sự hình thành kiến thức ở đây mang tính logic và chặt chẻ hơn,nó được đi từ cái dễ đến
khó, từ cái cơ bản đến phức tạp, từ cái đã biết đến sáng tạo.
b/ Đối với nhóm 2:

Đây là nhóm mang tâm lý tình cảm đặc biệt. Các em hay mang một lối sống trầm lặng, ít
nói, ít năng động, tài năng ít được phát hiện, dễ sai lầm khi đánh giá. Tâm lý này không phải
luôn luôn là tính vốn có ở các em, phần lớn là do giáo dục của gia đình hoặc do khắc khe quá
mức của giáo viên khi đứng lớp, hay là do các em thường xuyên bị chê từ đó mất đi sự tự tin,
khả năng quyết đoán, tự quyết định hành động của mình trong học tập cũng như trong cuộc sống
hiện tại hay sau này của các em.
Vì vậy đây là đối tượng cần quan tâm đặc biệt, cần có những biện pháp khơi dậy tiềm năng
vốn có của các em một cách khéo léo. Để làm được điều này, đầu tiên tôi phải nắm bắt được
những đặc điểm nổi trội ở các em.
Ví dụ: Tìm xem các em có điểm nào tốt như: Chất giọng hay biết giữ nhịp; Phân biệt được
âm cao thấp; sự giống, khác nhau của các giai điệu hay phong cách biểu diễn v.v…
Để phát hiện được những đặc điểm nổi trội này tôi thường tổ chức nhóm cho các em cùng
hoạt động dưới hình thức thi đua tập thể để các em xoá đi tính nhút nhát, từ đó khơi dậy sự tự tin
rồi dần dần tiến tới thi đua cá nhân để phát huy tính sáng tạo của các em.
Đây là phương thức tôi thường tổ chức nhưng không phải lúc nào cũng thành công, nên tuỳ
từng đối tượng mà tôi thực hiện nhiều phương pháp hỗ trợ khác nhau như:
+Không tạo ra sự ngăn cách quá xa giữa thầy và trò luôn luôn trò chuyện một cách cởi mở
và thân thiện với các em.
+Tìm hiểu cách thức hoạt động mà các em thích, hoặc tạo điều kiện cho các em có một môi
trường thích hợp thể hiện phong cách của mình.
+ Không quá khắc khe khi các em phạm sai lầm, mà thường tìm ra nguyên nhân phát sinh
hành vi sai đó để có hướng sửa chữa.
+ Luôn vận dụng phương pháp trực quan, thay đổi nhiều phương thức hoạt động nhằm gây
hứng thú, tránh sự nhàm chán.
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×