Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

NGÀY LỄ TRONG THÁNG 02

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.53 KB, 5 trang )

THA
́
NG 02
Ngày 3/2
Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1930 - 3-2-2010)
Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và chống thực dân Pháp
Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi
đã lãnh đạo cách mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của
giai cấp công nhân và cách mạng Việt Nam; chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo trong phong
trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh đạo là Đảng
Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách mạng nước ta phát triển theo xu thế của
thời đại đã được mở ra từ cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) Tháng Mười Nga năm 1917.
Ngay từ khi mới ra đời với khẩu hiệu chiến lược “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng”,
Đảng đã lãnh đạo nông dân và công nhân trong cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là
phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Ở những nơi đó, quần chúng cách mạng đã thực hiện quyền
làm chủ, đứng ra tự quản lí đời sống của mình, thực hiện chức năng của chính quyền cách
mạng ở nông thôn. Lần đầu tiên, nhân dân ta thật sự nắm chính quyền ở địa phương.
Cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám năm 1945

Cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ thời kì 1936-1939, Đảng đã giáo dục và
xây dựng được một đội quân chính trị to lớn ở nông thôn và thành thị; đấu tranh đòi
tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Qua cao trào này, trình độ và khả năng
công tác của cán bộ và đảng viên được nâng cao, đội ngũ cán bộ cách mạng dày
dạn kinh nghiệm ngày càng đông đảo. Đây là một bước chuẩn bị của nhân dân ta
cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phát-xít Nhật kéo vào
Đông Dương (1940). Nhân dân ta chịu cảnh “một cổ hai tròng” vô cùng cực khổ.
Ngày 9/3/1945, Nhật hất cẳng Pháp. Đảng đã nhanh chóng chuyển hướng chiến


lược, đề ra chủ trương tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, đẩy tới cao
trào kháng Nhật, cứu nước. Ngày 12/3/1945, Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta”.
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng đã phát động tổng khởi nghĩa ở nông thôn
và thành thị để giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của Pháp - Nhật và lật đổ chế độ phong kiến
đè nặng lên nhân dân ta ngót chục thế kỉ, mở đầu cho kỉ nguyên mới của lịch sử
dân tộc - kỉ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ
đất nước, làm chủ vận mệnh của dân tộc. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên
ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước công nông
đầu tiên ở Châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu tranh cách
mạng của dân tộc ta. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một
nước thuộc địa nửa phong kiến, thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và
hăng hái của toàn dân trong và ngoài mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng
Tám đã thắng lợi. Người nhấn mạnh: Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân
Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi
khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách
mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc.
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã trưởng thành và phát triển về mọi
mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc và chống phong kiến không ngừng
được bổ sung và làm rõ hơn, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, vận dụng đúng đắn và có sự phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-

Lênin về cách mạng thuộc địa.
Thực tiễn qua 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và nhân dân
ta đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản trong
đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát triển
đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.


Những năm 1945 - 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vượt qua những
khó khăn, thách thức nặng nề, chống thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc: xây
dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; bầu cử Quốc hội (6/1/1946); xây dựng Hiến
pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân;
chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ
và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản
cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; thực hành sách lược khôn
khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp, lúc thì hoà với Pháp để đuổi
Tưởng, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc để triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ
thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Chúng ta đã chủ động chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên
phạm vi cả nước. Thành công nổi bật của hơn 1 năm xây dựng chính quyền non trẻ là đã tăng
cường được sức mạnh của cách mạng để có thể tự bảo vệ khi chưa có sự giúp đỡ trực tiếp từ
bên ngoài.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, mốc vàng trong lịch sử dân tộc, mang tầm vóc thời đại to lớn
Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chi Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất
cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng chiến dựa vào sức mình là
chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân
dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu ngày 7/5/1954.
Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Geneva năm 1954 đã

chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân
cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên CNXH, làm hậu phương
vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước./.
Theo VOVnews
Ngày lễ tình nhân.
Có rất nhiều ý kiến tranh luận xung quanh nguồn gốc của Ngày Tình Yêu. Một số các chuyên
gia cho rằng nó được khởi nguồn từ thánh Valentine, một người La Mã đã tử vì đạo do từ chối
bỏ đạo Thiên Chúa. Ông mất vào ngày 14/02 năm 269 trước công nguyên, đúng vào ngày mà
trước đây người ta gọi là Ngày May Rủi của tình yêu. Truyền thuyết cũng kể rằng thánh
Valentine đã để lại một bức thư ngắn để tạm biệt con gái của người cai ngục mà trước đó đã trở
thành bạn của ông. Bức thư kí tên ông và đề bên dưới " Valentine của em". Có một số chi tiết
khác của câu chuyện cũng cho biết thánh Valentine là một thầy tu ở điện thờ dưới thời bạo chúa
Claudius. Bạo chúa Claudius sau đó đã tống giam ông vào ngục do ông đã dám thách thức ông
ta. Năm 496 TCN, giáo hoàng Gelasius đã quyết định lấy ngày 14 tháng 2 để tưởng nhớ tới
thánh Valentine. Dần dần, ngày 14 tháng 2 đã trở thành ngày trao đổi các bức thông điệp của
tình yêu và thánh Valentine đã trở thành vị thánh bảo trợ của những đôi tình nhân. Người ta kỉ
niệm ngày này bằng cách gửi cho nhau những bài thơ và những món quà như hoa và kẹo.
Thông thường, người ta cũng tổ chức một cuộc gặp gỡ mang tính chất bạn bè hoặc một buổi
khiêu vũ. ở Mỹ, cô Esther Howland được coi là người gửi những chiếc thiệp Valentine đầu tiên
và các bưu thiếp Valentine mang tính chất thương mại đã được giới thiệu từ những năm 1800
và hiện nay ngày lễ này đã được thương mại hóa rất nhiều. Thành phố Loveland, bang
Colorado là nơi kinh doanh các dịch vụ bưu điện cho ngày 14 tháng 2. Sự cuốn hút của cái đẹp
của ngày Thánh Valentine vẫn được duy trì khi người ta gửi bưu thiếp cùng với những bài thơ
tình và trẻ con trao đổi nhau những chiếc thiệp Valentine ở trường học.
Ngày Valentine được bắt đầu từ thời kì đế chế La Mã. Dưới thời La Mã cổ đại, ngày 14
tháng 2 là ngày tưởng nhớ Juno. Juno là nữ hoàng của các nam thần và nữ thần La Mã. Người
La Mã cũng coi bà là nữ thần cai quản phụ nữ và hôn nhân. Ngày tiếp theo của ngày 14 tháng 2,
ngày 15 tháng 2 là ngày đầu tiên của lễ hội Lupercalia. Cuộc sống của các chàng trai và cô gái
trẻ bị ngăn cấm vô cùng hà khắc. Tuy vậy, họ vẫn có thể đến với nhau thông qua phong tục rút
thăm tên nhau. Vào đêm hôm trước ngày hội Lupercalia, tên của những cô gái La Mã được viết

lên một mảnh giấy nhỏ và được cho vào trong các bình đựng. Mỗi một chàng trai trẻ sẽ rút
thăm một cái tên bất kì và sau đó chàng trở thành bạn của cô gái mà anh ta chọn trong suốt thời
gian diễn ra lễ hội. Ðôi khi, việc kết đôi của đôi bạn trẻ kéo dài suốt cả một năm ròng và thông
thường họ yêu nhau và sau đó cưới nhau
Dưới sự trị vì của Hoàng đế Claudius đệ nhị, đế chế La Mã tham gia nhiều cuộc chinh phạt
đẫm máu và không được người dân ủng hộ. Claudius bạo chúa gặp phải khó khăn khi động
viên các chàng trai trẻ gia nhập vào đội chiến binh của ông ta. Claudius bạo chúa cho rằng
nguyên nhân chính là đàn ông La Mã không muốn rời xa gia đình hay người yêu của mình. Bởi
vậy, Claudius ra lệnh cấm tất cả các đám cưới hoặc lễ đính hôn ở thành La Mã. Thánh
Valentine tốt bụng là một linh mục ở thành La Mã dưới thời Claudius đệ nhị. Ông cùng thánh
Marius đã giúp đỡ những người Cơ Ðốc giáo phải chịu cảnh đọa đầy và cho những cặp vợ
chồng bí mật cưới nhau. Vì hành động nhân ái này mà thánh đã bị bắt giam và bị kéo lê trước
mặt tên thái thú thành La Mã. Hắn đã xử thánh Valentine phải bị đánh bằng gậy đến chết và sau
đó phải bị chặt đầu. Valentine phải chịu cuộc hành hình vào đúng ngày 14 tháng 2 vào khoảng
năm 270 TCN. Vào thời gian này đang diễn ra một phong tục truyền thống của người dân thành
La Mã, thực ra đó là một lễ hội rất cổ xưa được tổ chức vào tháng 2, lễ hội Lupercalia, lễ hội để
nhớ đến một vị thần của người La Mã. Vào dịp này, trong số rất nhiều các nghi lễ thì có một lễ
rút thăm một cách ngẫu nhiên tên của các cô gái trẻ trong những chiếc bình như là một trò chơi
may rủi của tình yêu. Các mục sư từ những nhà thờ Cơ Ðốc giáo ở La Mã đã cố gắng loại bỏ
yếu tố ngoại đạo bằng cách thay thế bằng tên của các vị thánh cho những ngày hội của các thiếu
nữ này. Bởi lễ hội Lupercalia bắt đầu vào giữa tháng 2, có vẻ như các mục sư đã chọn ngày
Thánh Valentine làm ngày kỉ niệm cho lễ hội mới này. Như vậy, dường như phong tục các
chàng trai trẻ chọn các thiếu nữ làm người yêu của mình (trong dịp Valentine) hay chọn cho
mình các vị thánh bảo hộ cho năm tới cũng phát sinh từ đây.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×