Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.41 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>VÀ LIÊN KẾT THƯ VIỆN ĐI VÀO HOẠT ĐỘNG HIỆU QUẢ </b>


<b>- NHÌN NHẬN TỪ CHÍNH SÁCH ĐẾN THỰC TIỄN</b>



<b>Đỗ Xuân Đán</b>

<b>1</b>

<b>*</b>



<i><b>Tóm tắt: Đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển </b></i>


<i>sâu rộng. Trong đó kỷ ngun của tồn cầu hóa và cuộc Cách </i>
<i>mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ tạo ra những cơ chế vận hành mới </i>
<i>cho điều hành và quản lý mọi hoạt động của đời sống xã hội. Với </i>
<i>vai trò là các đơn vị cung cấp thông tin tri thức cho mọi người dân, </i>
<i>các hệ thống thư viện phải không ngừng tiếp cận với những thay </i>
<i>đổi của công nghệ và thông tin, nhằm đưa ra các tiêu chí và cơng </i>
<i>cụ tra cứu và tìm đọc nguồn thơng tin tri thức mình đang sở hữu. </i>
<i>Để làm được điều đó, khơng chỉ việc số hóa kho tài liệu của đơn vị, </i>
<i>cơ quan mình mà các thư viện cần hình thành và liên kết thành </i>
<i>các trung tâm tri thức cung cấp cho người dùng các cơ sở dữ liệu </i>
<i>phong phú và tập trung một cách hiệu quả. Bài viết nêu bật những </i>
<i>cơ hội và khó khăn cũng như đề xuất các giải pháp cho việc hình </i>
<i>thành các Trung tâm Tri thức số đối với các thư viện tại Việt Nam </i>
<i>hiện nay. </i>


<i><b>Từ khóa: Thư viện; Liên kết thư viện; Số hóa tài liệu; Luật thư viện; </b></i>


<i>Trung tâm tri thức.</i>


<b>I. NHỮNG GHI NHẬN TÍCH CỰC CỦA NGÀNH THƯ VIỆN TRONG THỜI GIAN QUA </b>


Trong những năm qua, trước sự phát triển trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Đặc biệt là sự phát triển của khoa học cơng nghệ, làn
sóng dịch chuyển và đón đầu cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ 4,



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

ngành Thư viện cũng đang chủ động chuyển mình bắt kịp với cơ chế
và xây dựng các chính sách trình các cơ quan nhà nước ban hành,
hướng tới một xã hội học tập và tiếp cận với các tri thức tiến bộ của xã
hội. Điểm nổi bật đầu tiên, chúng tôi xin liệt kê một số văn bản pháp
luật và chính sách mang tính đột phá trong lĩnh vực thư viện thông tin
mà những người hoạt động trong ngành thư viện hết sức mong chờ
bấy lâu.


Điều đầu tiên phải khẳng định việc nâng cấp từ Pháp lệnh lên thành
<i>Luật Thư viện được Quốc hội thông qua vào ngày 21 tháng 11 năm 2019 </i>
là một đột phá quan trọng nhất của ngành Thư viện thời gian qua.
Theo cách nói của chuyên viên cao cấp Ông Phạm Thế Khang, nguyên
Giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam, thành viên Ban soạn thảo Luật
Thư viện là: “Luật Thư viện đã trở thành tờ giấy khai sinh, là tấm hộ
chiếu để Thư viện Việt Nam hội nhập với bạn bè năm châu. Chúng ta
có quyền tự hào về chất lượng của Luật Thư viện Việt Nam so với hàng
trăm luật thư viện của các nước trên thế giới”.


Đối với ngành Thư viện, cụ thể ở đây là Vụ Thư viện Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã ln chủ động xây dựng, trình với các cơ quan
chức năng cho ban hành nhiều chương trình, đề án, các cuộc hội thảo
khoa học:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nghiên cứu, theo quy định của pháp luật. Theo đó, Luật Sở hữu trí tuệ có
thể cho phép được số hóa tài liệu để phục vụ cho mục đích nghiên cứu,
khơng lo sợ vi phạm bản quyền. Cụ thể: Điều 25, mục 2 điểm đ Luật Thư
viện đã nêu: “chuyển dạng, số hóa tài ngun thơng tin phục vụ lưu giữ
và nghiên cứu theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ,..." ở Điều
25 mục 1 của Luật Sở hữu trí tuệ cho thấy: “sao chép tác phẩm để lưu trữ
trong thư viện với mục đích nghiên cứu và giảng dạy”. Như vậy có thể


hiểu thư viện được số hóa để phục vụ nghiên cứu (dùng nội bộ và khơng
được bán). Bên cạnh đó Luật cũng đề cập rõ việc bố trí cán bộ có tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp được đào tạo đúng chuyên môn nghiệp
vụ; trụ sở thư viện được bố trí tại nơi trung tâm.


Một văn bản mới nữa là Thông tư số 03/2020/TT-BGDĐT ngày
10/02/2020 Quy định chi tiết hướng dẫn tiêu chuẩn định mức sử dụng
diện tích cơng trình sự nghiệp lĩnh vực giáo dục đào tạo. Trong đó có
nêu rõ trong các cơ sở giáo dục đào tạo, phải bố trí diện tích tối thiểu
tương ứng với quy mô đào tạo và đội ngũ cán bộ giảng viên. Đặc biệt,
trong đó nêu rất cụ thể như hội trường, phòng học, xưởng thực hành,
phòng làm việc của giáo sư, giảng viên,... và lần đầu tiên Thông tư đã
đưa ra quy chuẩn về diện tích thư viện, cụ thể là diện tích thư viện
trong các cơ sở giáo dục phải có 2,5m2<sub>/người trên tổng số ít nhất 25% </sub>
giảng viên và sinh viên quy đổi hiện có.


Trước đó cũng có Thơng tư số 194/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012
của Bộ Tài Chính hướng dẫn mức chi tạo lập thông tin điện tử nhằm
duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan đơn vị sử dụng ngân sách
nhà nước. Theo hướng dẫn của Thơng tư này, chúng ta có cơ sở để làm
căn cứ tính giá khi triển khai đề xuất số hóa tài liệu trong các thư viện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Thứ hai, trong hoạt động của tổ chức nghề nghiệp thuộc lĩnh vực
thư viện, cũng rất tích cực trong việc luôn tổ chức các cuộc hội thảo, tọa
đàm nhằm quy tụ và phát huy thế mạnh của từng cơ sở, hướng đến
xây dựng những mơ hình, trung tâm tri thức trong các cơ sở giáo dục
và các khu vực, vùng miền…


Ngày 30/10/2017 tại Quy Nhơn, Bình Định, Liên Chi hội Thư viện
đại học phía Bắc và phía Nam tổ chức hội thảo với chủ đề: “Xây dựng


học liệu mở nội sinh dùng chung" và tại hội thảo đã có khoảng 30 lãnh
đạo các thư viện đại học ký bản cam kết: “Hợp tác xây dựng thư viện số
đại học dùng chung: Kết nối tri thức – thúc đẩy sáng tạo”. Qua đó, thư
viện các trường sẽ cùng tham gia sưu tầm bổ sung, xây dựng và chia sẻ
dữ liệu thông tin phục vụ cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu.


Ngày 25/7/2019, tại Nha Trang, Liên Chi hội Thư viện đại học phía
Bắc, phía Nam và Trung tâm TTTV- Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức hội
thảo khoa học với chủ đề: “Tối ưu hóa quản trị tri thức số Chính phủ -
Doanh nghiệp – Thư viện”. Hội thảo đã đề xuất nhiều giải pháp trong việc
tạo lập, triển khai, liên kết, chia sẻ tài nguyên thông tin giữa các cơ quan
chuyên môn, cơ sở nghiên cứu, các nhà quản lý và doanh nghiệp trong
lĩnh vực này.


Đến nay, được biết đã có các liên kết khối ngành đào tạo như: khối
ngành kinh tế (bao gồm kinh tế, tài chính, kế tốn, ngân hàng, quản trị
kinh doanh), gồm khoảng 50 trường, do Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân chủ trì; khối trường đào tạo kỹ thuật do Trường Đại học Bách khoa
chủ trì; khối trường đào tạo ngành luật do Trường Đại học Luật chủ trì;
khối trường đào tạo nơng lâm nghiệp; liên chi hội các vùng và khu vực
thuộc khối thư viện công cộng, khối thư viện ngành công an, quân đội,
Liên hợp thư viện Việt Nam về nguồn tin KH&CN thuộc Cục Thông
tin KHCNQG (Bộ KHCN)…


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>II. MỘT VÀI THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC THÔNG TIN THƯ VIỆN TRONG PHỤC VỤ </b>


<b>HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU </b>



Không thể không thừa nhận nỗ lực và cố gắng của ngành thư viện
và những người làm nghề thư viện tâm huyết trong những năm qua
đã có tiếng nói và hành động, việc làm thiết thực trong tham mưu, đề


xuất các chính sách cho sự đổi mới và thay đổi về nhận thức của xã hội,
đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động thông tin
thư viện thời gian qua. Tuy nhiên, qua thực tế hoạt động và đánh giá,
chúng tôi nhận thấy vẫn còn những điểm bất cập như sau:


Thứ nhất, mặc dù Luật Thư viện ra đời và đi kèm sau đó là Nghị
định của Chính phủ đã được ban hành trong một thời gian ngắn, cùng
với đó là một số văn bản của các cơ quan nhà nước liên quan đến công
tác thông tin thư viện. Tuy nhiên, Luật vẫn còn dừng ở văn bản trên giấy,
mà chưa đi vào thực tiễn hoạt động của ngành, của nghề một sớm một
chiều. Để dần biến từ chính sách đến hiệu quả thực tiễn trong hoạt động
của lĩnh vực chuyên môn, rất cần sự phổ biến, tuyên truyền và kèm với
đó là những giải pháp chi tiết cụ thể, nếu không văn bản chỉ mãi ở trên
giấy. Đơn cử như Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động thư viện trường
đại học được ban hành ngày 10/3/2008 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, chưa có nhiều tác dụng khi ứng dụng vào thực tiễn.
Trong khi thực tế, những người làm trong ngành luôn kêu ca thiếu văn
bản pháp lý để triển khai hoạt động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

thư viện ở Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 là: “Phần
mềm thư viện đã sử dụng 19 năm, khơng cịn phù hợp trong điều kiện
hiện tại của cơng nghệ. Tính năng thường xun lỗi, trục trặc gây nhiều
khó khăn cho đơn vị trong việc xử lý, quản lý, phổ biến thông tin, đặc
biệt chưa đảm bảo được vai trò là trung tâm xử lý dữ liệu tập trung, chia
sẻ cho thư viện tồn quốc. Điều này vơ hình chung gây lãng phí nguồn
nhân lực và kinh phí cho tồn hệ thống thư viện cả nước”.


Thứ ba, trong các cuộc hội thảo, tọa đàm về lĩnh vực thông tin
thư viện, rất hiếm khi thấy sự xuất hiện lãnh đạo hay người có trách
nhiệm từ Bộ Giáo dục và Đào tạo.



Thứ tư, lâu nay, các nhóm liên hiệp thư viện thuộc khối ngành
nghề hoặc địa bàn, các thư viện có đủ nguồn lực ln chủ động đề xuất
việc mua các bộ sưu tập số của nước ngồi, điều đó cũng là cần thiết.
Tuy nhiên, tỷ lệ và hiệu quả sử dụng chưa cao, nguyên nhân có thể do
khả năng sử dụng ngoại ngữ của giảng viên, sinh viên, người nghiên
cứu, cũng có thể do khơng mang tính cấp thiết, bắt buộc họ phải tìm
đọc. Chúng tơi nhận thấy ở mảng bộ sưu tập số thuộc các lĩnh vực tri
thức khác nhau của các nhà xuất bản, các tạp chí trong nước, các cơ
quan nghiên cứu chuyên ngành… còn bỏ ngỏ đối với bạn đọc và vác
thư viện, cơ quan nghiên cứu. Có thể do họ chưa quan tâm, chưa có các
văn bản hướng dẫn từ cơ quan nhà nước, chưa có những tuyên truyền
quảng bá đến cộng đồng giới đào tạo và nghiên cứu. Hiện như chúng
tơi biết mới chỉ có Cục Thơng tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Bộ
KH&CN); một số ít tạp chí chuyên ngành uy tín, tạo lập các cơ sở dữ
liệu để cung cấp cho người dùng tin ở dạng số và điện tử. Tuy nhiên,
tính phổ biến tới đơng đảo người có nhu cầu cịn hạn chế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Thứ sáu, mặc dù các tổ chức thuộc hội nghề nghiệp như Hội Thư
viện Việt Nam, Liên Chi hội thư viện đại học phía Bắc, phía Nam liên tục
tổ chức các hội thảo, tọa đàm, nhằm đề xuất các giải pháp cho công tác
nghiệp vụ và kiến nghị chính sách cho ngành thư viện để có cơ sở pháp
lý cho hoạt động lĩnh vực này hiệu quả hơn nhưng các cuộc hội thảo
này mới chỉ dừng ở nội bộ những người làm thư viện, hầu như rất hiếm
sự có mặt của các quan chức thuộc bộ, ngành có thẩm quyền ban hành
chính sách. Đồng thời các ý kiến đề xuất, kiến nghị cũng rất ít/hiếm khi
được tập hợp và gửi cho các cơ quan chức năng. Do vậy tiếng nói hay
ảnh hưởng của hội nghề nghiệp tới xã hội nói chung hay các cơ quan
chuyên ngành cũng chưa được rõ nét và hiệu quả.



<b>III. MỘT VÀI ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG CÁC TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO THƯ VIỆN </b>


<b>VIỆT NAM NHẰM PHỤC VỤ HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU MỘT CÁCH HIỆU QUẢ</b>


Chưa bao giờ có nhiều văn bản được ban hành, nhiều cuộc hội
thảo tọa đàm liên quan đến lĩnh vực thư viện được tổ chức như thời
gian vừa qua. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, ngành thư viện vẫn
cịn gặp một số khó khăn, rào cản, cả về cơ chế chính sách, lẫn nhận
thức hành động. Trước những thực trạng như vậy, để góp phần giúp
thư viện làm tốt vai trò và sứ mệnh của mình trong việc phục vụ nâng
cao dân trí, đào tạo nhân tài và phát triển khoa học kỹ thuật và nghiên
cứu, chúng tôi đề xuất một số nội dung nhằm tiến tới xây dựng các
Trung tâm Tri thức số cho thư viện Việt Nam, tập trung vào các giải
pháp cụ thể sau đây:


<b>1. Triển khai và hồn thiện văn bản, cơ chế, chính sách và mơ hình </b>
phù hợp liên quan đến lĩnh vực thông tin thư viện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Cụ thể như vấn đề cho phép sao lưu, số hóa tài liệu phục vụ lưu trữ
và nghiên cứu, học tập và giảng dạy; vấn đề trách nhiệm của người
đứng đầu các cơ sở giáo dục trong việc cho phép truy cập và sử dụng
cơ sở dữ liệu thông tin ra bên ngồi; vấn đề liên kết các nhóm, hiệp
hội thư viện cùng khối, ngành hoặc địa bàn, bởi hiện nay các hoạt
động nói trên vẫn chủ yếu dựa vào sự nhiệt tình, tự nguyện hoặc tự
phát từ các thư viện mà chưa có những căn cứ và trách nhiệm và vai
trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; vấn đề đầu tư, mua sắm tập
trung về cơ sở dữ liệu thông tin, tài liệu, phần mềm; vấn đề cho phép
thu phí từ các dịch vụ…


Trong chuyến thăm quan thực tế một số thư viện trường đại học
tại Hàn Quốc của đoàn đại biểu thư viện các trường ĐH phía Bắc, phía
Nam, chúng tôi nhận thấy, họ đã đặt viết và đưa vào sử dụng một


phần mềm thư viện chung áp dụng cho thư viện tất cả các trường
đại học trong cả nước. Điều này sẽ tạo được ít nhất hai thứ: một là
tiết kiệm ngân sách quốc gia, hai là rất dễ dàng trong việc thống nhất
sưu tầm, xử lý và chia sẻ dữ liệu, tra cứu và sử dụng thông tin, bảo trì
bảo dưỡng… giữa thư viện và các cơ sở đào tạo. Thực trạng mua phần
mềm và CSDL ở Việt Nam, chúng tôi thấy chủ yếu vẫn mạnh ai nấy
chạy, mạnh trường nào trường ấy đầu tư; phần mềm cũng có nhiều
loại khác nhau, chưa có quy định về cơ quan có thẩm quyền thẩm
định, đánh giá và tư vấn. Hiện nay, chạy theo xu thế số hóa, các đơn vị
đua nhau xin dự án số hóa tài liệu, nơi nào cũng sắm máy và thiết bị, có
khi sử dụng chỉ vài lần, trong khi mua sắm nhiều tỷ đồng, có nơi, thậm
chí khi khơng có người biết sử dụng, nhiều nơi cùng số hóa một tên
sách giống nhau. Do vậy dẫn đến việc đầu tư lãng phí và không hiệu
quả từ nguồn đầu tư ngân sách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Chúng tôi quan tâm đến một ý tưởng trong bài viết của tác giả
Nguyễn Việt Trung đăng trong Kỷ yếu Hội thảo phục vụ xây dựng Đề án:
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong hoạt động của thư viện
ở Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, do Vụ Thư viện Bộ
VHTTDL tổ chức tại Hà Nội vào tháng 8/2020 với tiêu đề: “Đề xuất mơ
hình kiến trúc trung tâm dữ liệu thư viện điện tử quốc gia”. Theo bài viết,
trung tâm dữ liệu sẽ cho phép triển khai, kết nối các quy trình cơng việc
quan trọng, thực hiện các cơng việc như tìm kiếm, liên kết, truy vấn, tổng
hợp, thống kê, phân tích, báo cáo và tự động hóa các quy trình, giúp giảm
chi phí, thời gian và đưa ra các quyết định chính xác cho người dùng và
lãnh đạo. Đi kèm với đó là hệ thống hạ tầng phần cứng thiết bị và công
nghệ được đầu tư và kết nối trên nền tảng mạng LAN và Web…


<b>2. Tạo lập các cơ sở dữ liệu nội sinh thuộc tất cả các lĩnh vực nghiên </b>
cứu trong nước.



Như đã phân tích ở phần trên, các thư viện (đặc biệt là thư viện
đại học, viên nghiên cứu) bấy lâu nay vẫn tìm mua những cơ sở dữ liệu
tri thức nước ngoài hết sức tốn kém, nhưng việc sử dụng lại chưa hiệu
quả. Thậm chí có tình trạng nơi cần thì khơng có tiền mua; nhiều nơi
mua về thì để đó, hoặc rất ít người có khả năng đọc tài liệu nước ngồi.
Tuy nhiên khơng hiểu vì sao rất ít các bộ sưu tập về các lĩnh vực nghiên
cứu, tạp chí, xuất bản… lại thiếu vắng những cơ sở dữ liệu phát hành
bằng tiếng Việt. Chúng tơi đề xuất Nhà nước cần có những quy định
bắt buộc hoặc chỉ đạo, hướng dẫn hoặc giao các cơ quan chun mơn
chủ trì trong việc xây dựng, số hóa, tạo lập các cơ sở dữ liệu nội sinh
tập trung từ các cơ sở đào tạo, các địa phương, bộ ngành, các nhà xuất
bản, các cơ quan tạp chí, truyền thơng… nhằm tập hợp thành các đầu
mối thuộc quản lý nhà nước cho các lĩnh vực thơng tin tri thức và có
phương án phân phối, chia sẻ, khai thác nhằm phục vụ mục đích tra
cứu, nghiên cứu, giảng dạy, học tập cho cộng đồng và xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

tham mưu cho lãnh đạo đơn vị cho phép triển khai các bước số hóa, dịch
vụ liên thơng, liên kết với cơ sở bên ngoài, nhằm hướng tới cùng khai
thác, sử dụng nguồn lực thông tin từ các cơ sở một cách hiệu quả.


<b>4. Phát huy tiếng nói và tầm ảnh hưởng của tổ chức hội nghề </b>
nghiệp. Cụ thể là như Hội Thư viện Việt Nam, Liên Chi hội TVĐH
phía Bắc, phía Nam, Liên Chi hội thư viện công cộng các khu vực, khối
thư viện lực lượng vũ trang, Liên hợp thư viện Việt Nam về nguồn
tin KH&CN… trong việc chia sẻ thông tin, nghiệp vụ; tăng cường sức
ảnh hưởng của tổ chức hội nghề nghiệp trong việc tham gia khảo sát
nghiên cứu các đề tài, dự án, phản biện và trình các chính sách liên
quan đến những tiêu chuẩn, chế độ thuộc lĩnh vực ngành trong phạm
vi hoạt động của mình đối với xã hội và các cơ quan quản lý nhà nước.


<b>IV. KẾT LUẬN</b>



Hướng đến việc hình thành các Trung tâm Tri thức số cho thư viện
Việt Nam là nhiệm vụ và xu thế tất yếu của đất nước trong kỷ ngun
số, tồn cầu hóa và chúng ta đang bắt đầu bước vào giai đoạn của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngành Thư viện và những người
làm nghề thư viện thấy có trách nhiệm đề xuất các ý kiến với các cơ
quan quản lý nhà nước, đồng thời tìm kiếm các giải pháp để phục vụ
hiệu quả các nguồn lực thơng tin tri thức vì sự phát triển của đất nước.

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>



1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2020), Kỷ yếu Hội thảo phục vụ xây
dựng Đề án: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong hoạt
động của thư viện ở Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
2. Bộ Tài chính (2012), Thơng tư số 194/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012 của Bộ


Tài chính hướng dẫn mức chi tạo lập thơng tin điện tử nhằm duy trì hoạt
động thường xuyên của cơ quan đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước.
<i>3. Nguyễn Huy Chương (2014), Thực trạng và các giải pháp thúc đẩy hoạt động </i>


<i>thông tin thư viện đại học Việt Nam với vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo </i>
<i>dục đại học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.</i>


<i>4. Đại học Quốc gia Hà Nội (2019), Tối ưu hóa quản trị tri thức số: Chính phủ - </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>5. Đỗ Xuân Đán (2019), Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư và nguồn lực thông </b>
<i>tin tri thức trong các thư viện ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Hoạt </i>


<i>động thư viện trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thư 4, Học viện Chính </i>



trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 40.


6. Mẫn Đạt (2018), Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến các thư
viện đại học ở Việt Nam, Thư viện thông minh Công nghệ - Dữ liệu – con
người, tr. 132- 140.


<i>7. Luật Thư viện số: 46/2019/QH14 ngày 21 tháng 11 năm 2019.</i>


8. Nghị định số 93/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Chính phủ
quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Thư viện.


9. Nguyễn Hoàng sơn, Lê Bá Lâm, Hoàng Văn Dưỡng, Xây dựng thư viện
số đại học dùng chung thơng qua cơng cụ tìm kiếm thơng minh Primo
và phần mềm quản trị tài liệu số nội sinh Dispace. Công nghệ - Dữ liệu –
con người, tr. 491 – 502.


10. Thông tư số 03/2020/TT-BGDĐT ngày 10/02/2020 Quy định chi tiết hướng
dẫn tiêu chuẩn định mức sử dụng diện tích cơng trình sự nghiệp thuộc
lĩnh vực giáo dục đào tạo.


<i>11. Trường ĐH KHXH NV (2014), Hoạt động thông tin thư viện với vấn đề đổi </i>


<i>mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia </i>


</div>

<!--links-->

×