Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tìm hiểu vai trò của triết học trong đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.13 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 2
NỘI DUNG........................................................................................................................... 4
Chương 1. TRIẾT HỌC – MỘT MÔN KHOA HỌC .......................................................... 4
1.1. Sự ra đời của triết học và định nghĩa triết học. ............................................................. 4
1.1.1 . Sự ra đời của triết học................................................................................................ 4
1.1.2. Định nghĩa Triết học ................................................................................................... 6
1.2. Triết học với tư cách là một khoa học. .......................................................................... 8
1.2.1. Đối tượng của Triết học.............................................................................................. 8
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu. ......................................................................................... 10
1.2.3. Vấn đề cơ bản của Triết học. .................................................................................... 11
1.2.4. Hệ thống các phạm trù và các quy luật. ................................................................... 12
1. 3. Đặc điểm của khoa học triết học ................................................................................ 13
1.3.1. Triết học tồn tại như một hình thái ý thức xã hội ..................................................... 13
1.3.2. Triết học là hệ thống tri thức chung nhất ................................................................. 14
1.3.3. Triết học mang tính giai cấp ..................................................................................... 14
Chương 2: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI ......................... 15
2.1. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. ........................................................................ 15
2.1.1. Ý Thức xã hội triết học có thể vượt trước hoặc lạc hậu hơn tồn tại xã hội. ............. 15
2.1.2. Tư tưởng triết học tác động trở lại đời sống xã hội .................................................. 16
2.2. Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội................................................................. 16
2.2.1. Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận của triết học ................. 16
2.2.2. Chức năng phản ánh hiện thực của đời sống xã hội và chức năng động lực cho sự
phát triển xã hội. ................................................................................................................. 18
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 21

1



LỜI MỞ ĐẦU
Khơng phải ngẫu nhiên có người coi triết học như là khoa học của mọi khoa học.
Cũng không phải ngẫu nhiên trong lịch sử, nhà triết học được gọi là nhà thông thái, nhà
hiền triết, người nắm được bí mật của sự vật… thậm chí trong lịch sử nhân loại, có những
thời đoạn xã hội đã đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất, có nhà cải tạo đặt nhà triết học vào
vị trí cao nhất của cơ cấu tổ chức xã hội (Platon với mơ hình "Nhà nước lý tưởng")…
Triết học, ngay từ khi mới nảy sinh và cho đến mãi tận nay, dù tồn tại ở phương
Đông hay phương Tây, dù dưới dạng các hệ thống, trào lưu, trường phái rất khác nhau,
nhưng nội dung cốt lõi của triết học bao giờ cũng bao gồm những quan điểm lý luận chung
nhất, những lời giải đáp có luận chứng (dù được tán thành hay khơng được tán thành) cho
những câu hỏi của con người về thế giới xung quanh mình, về vị trí của con người trong
thế giới đó, về quan hệ giữa con người với thiên nhiên và với bản thân con người. Trong
triết học, người ta ln tìm thấy những biện luận, phán xét suy tư, những băn khoăn, trăn
trở cùng những lời giải đáp cho các câu hỏi về số phận của cá nhân con người trước thiên
nhiên bao la, về nguồn gốc cùng những bí ẩn của thiên nhiên bao la ấy, những sức mạnh,
những lực lượng chi phối nó và chi phối cuộc sống của chính bản thân con người, về cuộc
sống và cái chết của họ... Những lời giải đáp ấy, dù là khác nhau trong các hệ thống, trào
lưu, trường phái triết học khác nhau nhưng đều là những cách lý giải nhất định về thế giới
mà trong đó con người đang sống theo quan điểm của các hệ thống, trào lưu, trường phái
triết học đó. Tất cả những điều ấy khiến triết học trở thành một môn học, một lĩnh vực thú
vị, một cái gì đó kì bí làm con người ở mọi thời đại đam mê, ham muốn hiểu sâu hơn và
đóng góp sức mình vào kiến thiết tịa lâu đài kì bí và hoa lệ đó.
Kể từ khi ra đời, trải qua nhiều giai đoạn phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ
thì triết học ln phản ánh sự phát triển trí tuệ lồi người và thúc đẩy tư duy lồi người, đơi
khi cịn trở thành vũ khí sắc bén nhất cho những gì tiến bộ của sự phát triển đó. Ngày nay
triết học đã thực sự trở thành khoa học, đã hoàn chỉnh hơn vì vậy ý nghĩa là động lực cho
sự phát triển của đời sống xã hội càng rõ nét hơn, con người càng được hoàn thiện hơn về
tư duy lý luận. Đó là mặt tác động đến đời sống xã hội từ bản thân khoa học triết học. Ngày
nay, mặc dù sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự phát triển về mặt vật chất
2



của đời sống xã hội… cũng không hề làm giảm đi tính chất kì bí và vai trị đối với thực tiễn
của triết học, mà vấn đề là phải có một tư duy lý luận, đúng đắn để không bị "lạc lối" trong
sự phát triển đó, hơn nữa, sự phát triển về mặt xã hội của khoa học kỹ thuật… cũng tác
động ngược trở lại khoa học triết học: chứng minh hay bác bỏ những quan điểm triết học,
nhận chân được những tư tưởng đúng đắn.
Với vai trò to lớn của triết học với sự phát triển tư tưởng xã hội và với thực tiễn đời
sống xã hội như vậy, tiểu luận này chỉ mong tổng hợp lại một số vai trò đã được thừa nhận
của triết học trong đời sống xã hội. Tiểu luận "Tìm hiểu vai trị của triết học trong đời sống
xã hội" được trình bày gồm 3 phần:
Phần 1: Lời mở đầu
Phần 2: Nội dung:
Chương I: Triết học - Một mơn khoa học
Chương II: Vai trị của môn triết học trong đời sống xã hội
Phần 3: Kết luận.

3


NỘI DUNG
Chương 1. TRIẾT HỌC – MỘT MÔN KHOA HỌC
1.1. Sự ra đời của triết học và định nghĩa triết học.
1.1.1 . Sự ra đời của triết học
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian
(khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VII trước công nguyên). Tại một số trung tâm văn
minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hi Lạp. Theo người Trung Quốc, thuật
ngữ triết học có nguồn gốc ngơn ngữ là chữ triết và khoa học này hiểu theo nghĩa là sự truy
tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con người. Theo
người ấn Độ, triết học được coi là Danshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang hàm

ý là trí thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. ở
phương Tây thuật ngữ triết học suất hiện ở HiLạp, theo tiếng HiLạp triết học là Philosophia,
nghĩa là u mến sự thơng thái, nó là khoa học vừa mang tính định hướng vừa nhấn mạnh
đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người. Như vậy, cho dù ở phương Đông hay
phương Tây, ngay từ đầu triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức,
đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội. Với quan niệm
đó, triết học cổ đại khơng có đối tượng nghiên cứu riêng của mình, mà được xem là "khoa
học của mọi khoa học".
Từ thế kỷ XV - XVI đến thế kỷ XVIII, các bộ môn khoa học chuyên ngành, nhất là
khoa học thực nghiệm phát triển mạnh mẽ, dần dần tách ra khỏi triết học, từng bước làm
phá sản tham vọng muốn đóng vai trò "khoa học của mọi khoa học" của một số học thuyết
triết học lúc bấy giờ, đặc biệt là triết học Hêghen.
Đầu thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan niệm trên và
xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng: "Triết học là một trong những hình
thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức,
4


của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy".
Khác với các khoa học cụ thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế
giới, triết học xem xét thế giới như một chỉnh thể và đem lại một hệ thống các quan niệm
về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Mặc dù có sự khác nhau
giữa các hệ thống triết học, nhưng điểm chung của chúng là đều nghiên cứu những vấn đề
chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của
tư duy nói riêng với thế giới.
Như vậy, Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ
nhu cầu cuộc sống, song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học không

thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều
kiện nhất định. Triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau:
Nguồn gốc xã hội:
Lao động đã phát triển đến mức có sự phân cơng lao động thành lao động trí óc và
lao động chân tay, xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ
nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp thống trị có điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống hóa
các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và trên cơ sở đó triết
học đã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thuỷ đã bị thay thế bằng chế độ Chiếm hữu
nô lệ - chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Bởi vậy ngay từ khi Triết
học xuất hiện đã tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp,
những lực lượng xã hội nhất định…
Nguồn gốc nhận thức:
+ Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện tượng mn hình mn vẻ,
con người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy
từ đâu mà ra?, nó tồn tại và phát triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có
tn theo quy luật nào khơng? ... trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.
+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái qt và tính trừu tượng cao,
do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có
5


một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng, trình độ tư duy trừu tượng hố, khái qt
hố, hệ thống hố để có thể rút ra được cái chung từ vô số các sự vật và hiện tượng riêng lẻ
xây dựng nên các học thuyết, các lý luận…
Điều đó khẳng định rằng, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học đã ra
đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực tiễn quy định.
1.1.2. Định nghĩa Triết học
Triết học thật sự là gì, vai trị của nó ra sao đối với cuộc sống của mọi người chúng
ta? Để giải đáp cho những câu hỏi đó cũng phức tạp như từ “văn hóa”, mà các nhà nghiên
cứu xưa nay đã nêu ra đến vài trăm định nghĩa, không cái nào giống hẳn cái nào. Khái niệm

triết học cũng chưa được đồng nhất, mà khác nhau còn tùy theo do ai đưa ra, dựa trên quan
điểm nào, cách diễn đạt ra sao. Nói chung ngay từ trong các định nghĩa, thấy ngay việc đưa
ra một đinh nghĩa thống nhất cho Triết học thật sự đã có phần rắc rối, phức tạp.
Trong cuốn Từ vựng Triết học (Vocabulaire de la Philosophie) của André Lalande
(NXB Presses Universitaires de France in năm 1956), nơi mục từ PHILOSOPHIE (triết
học), trích dẫn nhiều loại định nghĩa khác nhau của các triết gia từ Aristote (384-322 TCN)
trở đi: “(Triết học) là sự hiểu biết dựa trên lý tính, sự thơng thái, theo nghĩa tổng quát nhất
của từ này. Nghĩa này đã được bảo tồn lâu nơi các tác giả hiện đại” (Lalande, tr. 774).
Từ điển triết học của TS Triết học Trần Văn Hiến Minh, tác giả đưa ra sơ lược đến
bốn định nghĩa khác nhau: “(1) Theo Aristote, môn học nghiên cứu hữu thể xét như là hữu
thể. Nghiên cứu bằng tìm hiểu các nguyên nhân: nguyên nhân chất thể, mơ thể, tác thành,
mục đích. (2) Theo Descartes và Kant: nghiên cứu về nhận thức con người, về giá trị của
nó. (3) Theo Khổng Tử: nghiên cứu về nguyên lý của vũ trụ và của nhân sinh. (4) Theo
quan niệm hiện đại: học về tinh thần con người với tất cả chiều hướng hiện sinh của nó”
(Từ điển và Danh từ Triết học, Tủ Sách Ra Khơi, 1969, tr. 278-279).
Theo Từ điển Triết học do một nhóm nhà nghiên cứu triết học Liên Xô biên soạn
(NXB Sự Thật, Hà Nội, 1960) thì: “Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, triết học được coi như
là ‘khoa học của những khoa học’ bao gồm toàn bộ sự hiểu biết của loài người và thay thế
cho tất cả các khoa học” (tr. 823), “Chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp duy nhất
6


có giá trị của các khoa học hiện đại, là lý luận duy nhất khoa học để giải thích và cải tạo
tự nhiên và xã hội” (tr. 828).
Với một quan điểm và cách giải thích tương tự, nhưng phần đầu sách Giáo trình triết
học Mác-Lênin của Bộ Giáo dục biên soạn dành cho các trường cao đẳng, đại học (NXB
Chính Trị Quốc Gia, 2004) lại đưa ra một định nghĩa tương đối dễ hiểu và ít lan man hơn:
“Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai
trị của con người trong thế giới ấy” (tr. 8). Về nguồn gốc và tính chất của triết học, bài
giảng trong bộ giáo trình trên nêu tiếp: “Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực

tiễn… Từ khi ra đời, triết học, tự nó đã mang trong mình tính giai cấp, nghĩa là nó phục vụ
cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định”.
Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên) thì nói rằng: “Khoa học nghiên cứu
những quy luật chung nhất của thế giới và sự nhận thức thế giới” (tr. 1707). Định nghĩa
này so với định nghĩa trong Từ điển Oxford của Anh dường như không được rõ bằng: “Sự
dùng lý trí và lý lẽ để tìm kiếm chân lý và tri thức về thực tại, nhất là về những nguyên nhân
cùng bản chất các sự vật cũng như những nguyên tắc chi phối sự tồn tại”. Lại còn một cách
diễn đạt khác nữa trong Triết học đại từ điển của Trung Quốc (Thượng Hải Từ Thư Xuất
Bản Xã, 2007), theo một hướng có vẻ tổng hợp và đầy đủ hơn: “Học thuyết về thế giới
quan. Hệ thống các quan điểm căn bản của con người đối với toàn bộ giới tự nhiên, xã hội
và tư duy. Đó là sự khái quát và tổng kết về thế giới quan, tri thức tự nhiên và tri thức xã
hội đã được lập thành hệ thống và lý luận” (tr. 1).
Trong cuốn sách Trò chuyện Triết học của Bùi Văn Nam Sơn (NXB Tri Thức in
2012) bằng những liên hệ thực tế trong những cuộc tranh luận giữa các nhân vật trong sinh
hoạt đời thường, tác giả Trò chuyện triết học cho thấy triết học khơng phải là thứ gì xa lạ
tách rời cuộc sống con người, mà đâu đâu cũng cần tới nó, nhưng nó vẫn khơng phải là một
cơng cụ hay phương pháp để chỉ đạo, quản lý, vì nếu là cơng cụ, “nó sẽ giới hạn chân trời
hoạt động và bắt con người phụ thuộc vào công cụ. Là ‘phương pháp’, nó sẽ bắt người theo
phương pháp ấy làm tù binh! Trái lại, chỉ có thể từ triết học, tức từ thái độ được nuôi dưỡng
bằng tư duy triết học: triết học giống như nhà tư vấn giúp ta có cái nhìn sâu vào hậu trường,
vào tất cả mọi hậu trường… Chính trong tinh thần ấy, triết học thường được hiểu ‘ba trong
7


một’: triết học như là khoa học khai minh, giúp xóa bỏ những ảo tưởng, định kiến; triết học
như là khoa học điều hịa, giúp cân đối mọi lối nhìn; triết học như là khoa học hành động,
giúp định hướng cho mọi lựa chọn, quyết định” (tr. 13-14). Vì có hiểu hậu cảnh rồi mới
“quyết định có cơ sở; hành động có trách nhiệm; hoạt động có hiệu quả; truyền thơng rõ
ràng, sống thanh thản, hạnh phúc” (tr. 14).
Tóm lại, Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm

những nội dung giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm
ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể nói chung, của xã hội loài
người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ
thống dưới dạng duy lý. Vậy: Triết học là hệ thống trí thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về vị trí vai trị của con người trong thế giới ấy.
1.2. Triết học với tư cách là một khoa học.
Ngày nay, Triết học khơng cịn là bí mật mà chỉ những nhà Triết học mới biết nữa
(Ph.Ăngghen, "Chống Đuy-rinh") nó từ "Khoa học của các khoa học" đã trở thành một môn
khoa học độc lập. Là một mơn khoa học độc lập, Triết học cần phải có: Đối tượng riêng
của nó, phải có phương pháp nghiên cứu (cần phương pháp luận và phương pháp riêng); có
các vấn đề cơ bản; có các khái niệm và các phạm trù; các quy luật.
1.2.1. Đối tượng của Triết học.
Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên - bao hàm
trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, khơng có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu
xa làm nảy sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa học của mọi khoa học.
- Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm mọi
lĩnh vực đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học. Triết học chỉ có
nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung trong kinh thánh. Triết học
tự nhiên bị thay thế bởi nền Triết học kinh viện.
- Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ
môn khoa học chun ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách
là các khoa học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học - Khoa học hậu vật
8


lý. Đối tượng của Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các
sự vật, hiện tượng “vật thể” có thể thực nghiệm được.
+ Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển
nhanh chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn, T.Hốpxơ (Anh), Diđrô,
Hen Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)...

+ Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm mà
đỉnh cao là Triết học Hêghen.
+ Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành
cũng từng bước làm phá sản tham vọng của Triết học muốn đóng vai trị “Khoa học của
mọi khoa học”, mà Triết học Heghen là Triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen
xem Triết học của mình là một hệ thống phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành
khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào Triết học.
- Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến tính
chất từ khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách quan cho triết học
đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác - Triết học
duy vật biện chứng ra đời thể hiện sự đoạn tuyệt đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng
nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập
trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy.
- Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách
đưa ra một hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện được bằng cách tổng
kết toàn bộ lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư tưởng Triết học. Cho nên, vấn đề
tư cách khoa học của Triết học và đối tượng của nó đã gây ra cuộc tranh luận kéo dài cho
đến hiện nay.
Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu những
vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người
nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Theo Ph.ăngghen: "Triết
học là khoa học về các quy luật chung nhất sử sự vận động và phát triển của thế giới; từ tự
9


nhiên, xã hội và cả tư duy", (Ph. ăng ghen, "chống Đuy-rinh") Như vậy có thể coi đối tượng
của Triết học là tự nhiên, xã hội và tư duy của con người: nhưng Triết học không phải là
khoa học tự nhiên, khoa học về xã hội, khoa học về tư duy (logic học) mà là khoa học chung
nhất, nó coi thế giới là "một chỉnh thể thống nhất" các mặt trên.

1.2.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân
con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới.
- Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp
cho sự hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ đó
tri thức trở thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức.
- Có một điều đặc biệt của khoa Triết học, đó là, với khoa học này thì sự khác nhau
về phương pháp luật là cơ sở để phân biệt các trường phái Triết học (siêu hình hay biện
chứng), thể hiện tính khoa học hay phản động của một hệ thống Triết học. Nguyên nhân
của hiện tượng này xuất phát từ đối tượng của Triết học: Coi thế giới như là một chỉnh thể,
nghiên cứu bao trùm thế giới: tự nhiên, xã hội, tư duy với các loại thế giới quan (phân chia
theo sự phát triển):
+ Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên
thuỷ, có đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng
tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về
thế giới.
+ Thế giới quan tơn giáo: Niềm tin tơn giáo đóng vai trị chủ yếu, tín ngưỡng cao
hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người.
+ Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù, qui
luật đóng vai trị như những bậc thang trong quá trình nhận thức. Như vậy, Triết học được
coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới quan. Triết học là
hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng vai trò định hướng, củng cố và phát triển thế giới
quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.

10


- Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa
học cụ thể: Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các
quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ

lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân Triết học
1.2.3. Vấn đề cơ bản của Triết học.
Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất nhiều vấn đề có liên
quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và là điểm xuất phát để giải
quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của Triết học. Ăngghen định nghĩa
vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết học, đặc biệt là Triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. Giải quyết vấn đề cơ bản của Triết
học không chỉ xác định được nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của
Triết học mà nó cịn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các Triết gia và
học thuyết của họ.
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
+ Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thể giới hay khơng?
- Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học:
+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất
tồn tại bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của
chúng ta, khơng có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngồi hai lĩnh vực ấy.
+ Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới
quan và phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết
học đó, cụ thể:

11


- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học
này, nhà triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo

thuyết khả tri hay bất khả tri.
Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.
1.2.4. Hệ thống các phạm trù và các quy luật.
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất
định. Mỗi bộ môn khoa học có hệ thống phạm trù riêng của mình, phản ánh những mối liên
hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu. Ví dụ, tốn học có các phạm
trù “đại lượng”; “hàm số”; “điểm”; “đường thẳng”… Trong kinh tế chính trị có các phạm
trù “hàng hố”, “giá trị”, “giá trị trao đổi”...
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, rộng nhất phản ánh những mặt,
những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Ví
dụ, phạm trù “vật chất”, “ý thức”, “vận động”, “đứng im”… phản ánh những mối liên hệ
phổ biến không chỉ của tự nhiên mà cả xã hội, tư duy của con người. Phạm trù triết học
khác phạm trù của các khoa học khác ở chỗ, nó mang tính quy định về thế giới quan và tính
quy định về phương pháp luận. Các phạm trù của phép biện chứng duy vật có tính biện
chứng, nghĩa là nội dung mà phạm trù phản ánh luôn vận động, phát triển; các phạm trù có
thể thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau và là cơng cụ nhận thức, đánh dấu trình độ nhận thức
của con người.
Khi Triết học duy vật biện chứng ra đời; nó trở thành vũ khí lý luận sắc bén cho giai
cấp tiến bộ, nó kết tinh mọi tinh hoa của tư tưởng nhân loại, vì vậy nó là "khoa học nhất";
là "triệt để và hoàn mỹ nhất", là "sâu sắc và toàn diện nhất" (V.I. Lênin; "Ba nguồn gốc của
chủ nghĩa Mác"). Vì vậy có thể coi các quy luật của Triết học duy vật biện chứng là quy
luật cơ bản của khoa học Triết học.
Triết học duy vật biện chứng gồm ba quy luật cơ bản:

12


+ Quy luật mâu thuẫn: nói lên nguồn gốc và động lực vận động và phát triển của thế
giới, cả về các mặt: tự nhiên, xã hội, và tư duy.

+ Quy luật về mối quan hệ giữa mặt lượng với mặt chất Nói lên cách thức của sự
phát triển.
+ Quy luật phủ định của phủ định: nói lên con đường tất yếu của sự phát triển.
1. 3. Đặc điểm của khoa học triết học
1.3.1. Triết học tồn tại như một hình thái ý thức xã hội
Như các hình thái ý thức xã hội khác (đạo đức, tôn giáo, khoa học…) Thì triết học
cũng tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, từ là có đặc tính biến đổi phụ thuộc
vào sự biến đổi của tồn tại xã hội và tác động trở lại những điều kiện nhất định. Chính
những điều kiện thực tiễn xã hội và nhận thức là những nhân tố đảm bảo cho sự ra đời của
Triết học với tính cách là một hình thái ý thức xã hội đầu tiên có tính tổng hợp, trừu tượng
và khái quát trong lịch sử.
Ngay từ khi ra đời, trong lịch sử vận động và phát triển đời sống tinh thần của nhân
loại thì Triết học đã có những đặc điểm riêng biết. Trước hết, nó là một hình thái ý thức xã
hội xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nhận thức của con người. Nó là sự tổng hợp những
quan niệm chung nhất của con người về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới
đó . Vì vậy, Triết học tác động mạnh mẽ nhất vả hiệu quả nhất đối với việc xác định phương
hướng và các giải pháp cho con người trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Vai trò tác động ấy của Triết học ngày càng tăng lên cùng với quá trình phát triển tri thức
của nhân loại và nó tồn tại mãi mãi trong đời sống của lồi người.
Tuy nhiên, triết học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, Triết học khác với các
hình thái ý thức xã hội khác ở chỗ: nó khơng phải là một bộ phận trong hình thái ý thức xã
hội khoa học vì bản chất nó cũng là một hình thái ý thức xã hội; nó khơng giống như tơn
giáo, là hình thái ý thức xã hội ra đời ngay từ thời nguyên thủy. Nó xem xét thế giới trong
một chỉnh thể nhằm xác định bản chất, những quy luật vận động và phát triển của thế giới,
từ đó vạch ra con đường, phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học chỉ ra đời
khi con người đã có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung
13


trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ và khi xã hội đã phát triển đến thời kỳ

hình thành tầng lớp lao động trí óc.
1.3.2. Triết học là hệ thống tri thức chung nhất
Điều này thể hiện qua định nghĩa về triết học và đối tượng của nó (đã được nêu rõ ở
các mục trên).
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí,
vai trị của con người trong thế giới ấy; những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến
thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ.
Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung
nhất, những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống
dưới dạng lý luận.
Nói cách khác Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về
những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối với thế
giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.3.3. Triết học mang tính giai cấp
Mỗi tư tưởng triết học đều đại diện cho một giai cấp nhất định trong xã hội và cũng
mỗi tư tưởng triết học phản ánh một giai đoạn một trình độ nhận thức về thế giới của mỗi
thời đại nhất định. Khơng có một thứ triết học phi giai cấp, một thứ triết học chung chung.
Mỗi hệ thống triết học đều có Chính Đảng của nó và trở thành vũ khí lý luận cho một giai
cấp nhất định thường là có vai trị nổi bật trong lịch sử ở mỗi thời đại. Cứ như vậy "Triết
học vẫn có tính đảng của nó trong suốt thời hơn 2000 năm nay" (V.I. Lênin).

14


Chương 2: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
2.1. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Như phần trên đã khẳng định, triết học là một hình thái ý thức xã hội. Vì vậy nó
mang đặc tính chung của các hình thái ý thức xã hội khi tác động trở lại với thực tiễn đời
sống, thể hiện rõ nhất ở các mặt: ý thức xã hội có thể "lệch pha" với tồn tại của xã hội (có
thể đi trước cả thực trạng xã hội , có thể lạc hậu hơn tồn tại xã hội); ý thức xã hội tác động

trở lại tồn tại xã hội.
2.1.1. Ý Thức xã hội triết học có thể vượt trước hoặc lạc hậu hơn tồn tại
xã hội.
* Tư tưởng triết học có thể lạc hậu hơn đời sống, kìm hãm sự phát triển của xã hội:
Ý thức xã hội nói chung và đặc biệt là triết học luôn gắn với lợi ích của những tập
đoàn người những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực
lượng xã hội tiến bộ.
Những tư tưởng lạc hậu, thế giới quan phản động khơng mất đi một cách dễ dàng.
vì vậy trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư
tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù
địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoa bỏ những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
* Triết học có thể vượt trước trình độ hiện đại của tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng
khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, vượt trước sự phát triển
của tồn tại xã hội, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc
giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội
đặt ra.
Triết học Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời đại - giai
cấp công nhâ, nó trang bị cho giai cấp cơng nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sắc
bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức bóc lột trên
tồn thế giới, thốt khỏi ác nơ dịch, bóc lột, xây dựng một xã hội tốt đẹp. Vì vậy, chỉ nghĩa
15


Mác - Lênin là hệ thống ưu việt nhất, là con đường, sách lược tốt nhất cho sự phát triển xã
hội loài người.
2.1.2. Tư tưởng triết học tác động trở lại đời sống xã hội
PH.Ăngghen viết:"Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triêt học, tơn giáo, văn
học, nghệ thuật…. đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng có ảnh hưởng lẫn

nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế ".
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng nói chung và tư tưởng triết học nói riêng đến sự
phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sự cụ thể, vào tính chất của các mối
quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn
cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắng của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển
của xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng quần chúng, cũng do đó, ở đây cần phân biệt
vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của
xã hội.
C.Mác khẳng định: "Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật
chất" và một hệ tư tưởng tác động được tới quần chúng hay khi có những điều kiện để biến
thành lực lượng vật chất" (C.Mác) thì nó mới trở thành động lực cho sự phát triển của xã
hội.
2.2. Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội.
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đựơc thể hiện qua chức năng của triết học.
Triết học có nhiều chức năng như: Chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng
giáo dục… Nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp
luận.
2.2.1. Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận của triết
học
- Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đền
thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của
con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới dù muốn hay không con người cũng
phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành
16


nên thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng, thế giới quan nên thế giới quan. Khi đã
hình thành, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục
nhận thức thế giới.
Như vậy, thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và

trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá
nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quán trình tự giác dựa trên sự tổng kế kinh nghiệm thực tiễn và tri
thức do các khoa học đưa lại.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc
tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là một bộ
phận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét phạm vi tác dụng của
nó, phương pháp luân ngành; phương pháp luận chứng và phương pháp luận chung nhất.
+ Phương pháp luận ngành là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào
đó.
+ Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho 1 số ngành khoa
học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất phát
cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp hoạt động khác của con
người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của
con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất khẳng định
điều này, Ph.Ăngghen viết - khi phê phán những nhà khoa học tự nhiên siêu hình khơng
thấy được mối quan hệ biện chứng các ngành khoa học, không thấy được sự khác nhau giữa
tư duy lý luận với tư duy thực nghiệm.
17


"Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rảng họ thoát khỏi triết học bằng cách khơng
để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì khơng có tư duy thì họ không thể tiến lên được
một bước nào và muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù lơgíc, mà những phạm trù ấy
thì họ lấy một cách khơng phê phán, hoặc lấy trong cái ý thức chung, thông thường của

những người gọi là có học thức, cái ý thức bị thống trị bởi những tàn tích của những hệ
thống triết học lỗi thời hoặc lấy trong những mảnh vụ của các giáo trình triết học bắt buộc
trong các trường đại học (đó khơng chỉ là những quan điểm rời rạc mà còn là một mớ hổ
lớn những ý kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và thường là
những trường phái tồi tệ nhất) Hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ loại mà họ đọc
một cách khơng có hệ thống và khơng có phê phán. - Cho nên, dù sao, rút cục lại, họ vẫn
bị lệ thuộc vào triết học và đáng tiếc thường là thứ triết học tồi tệ nhất. Những kẻ nơ lệ của
những tàn tích thơng tục hố, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất.
Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi
phối, vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thức triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ
muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư
tưởng và những thành tự của nó ""
(PH.Ăngghen; "Biện chứng của tự nhiên")
Vì vậy, mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc
xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.
Những chức năng nói trên được thực hiện ở các học thuyết triết học khoa học tạo
nên khả năng cải tạo thế giới của học thuyết triết học đó, trở thành một công cụ hữu hiệu
trong hoạt động chế ngự giới tự nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực
lượng sản xuất.
2.2.2. Chức năng phản ánh hiện thực của đời sống xã hội và chức năng
động lực cho sự phát triển xã hội.
- Mỗi hệ thống triết học đều ra đời trong những hoàn cảnh xã hội nhất định, phản
ánh tư tưởng, địa vị, mong muốn của giai cấp mà nó phục vụ; mối hệ tư tưởng Triết học đó
đều là "tinh hoa của thời đại" đó.
18


C.Mác viết rằng: "Các Triết ra không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm
của thời đại, của dân tộc mình, mà dịng sữa tinh tế nhất q giá và vơ hình được tập trung
lại trong những tư tưởng Triết học".

Hay như G.V. Hegel, ông coi sự ra đời của các học thuyết Triết học là "sự tất yếu",
coi "triết học là tinh hoa của thời đại mình,và do đó nó thực hiện chức năng được xã hội
phó thác trong phạm vi của thời đại và chỉ khi đó tính tích cực của tư duy triết học mới
được phát huy.
- Cùng với tư cách là một hình thái ý thức xã hội nhưng là hình thái ý thức xã hội
đặc biệt, chung nhất, Triết học, nếu phản ánh đúng xu thế của thời đại thì nó sẽ là cơ sở lý
luận cho giai cấp tiến bộ thực hiện sự nghiệp của mình, chỉ đạo thực tiễn hoạt động trên tất
cả các lĩnh vực của đới sống xã hội, từ đó nó trở thành động lực về mặt tinh thần cho sự
phát triển xã hội.

19


KẾT LUẬN
Qua sự khảo sát sơ lược về vai trò của triết học trong đời sống xã hội, em rút ra một
số nhận xét sau:
- Khi bàn về vai trò của Triết học trong đời sống xã hội, tác động của nó đến hiện
thực xã hội thì trước tiên phải quán triệt rằng: Triết học là môn khoa học chân chính, chứ
khơng phải là tập hợp những tư tưởng giải thích thế giới của những Triết gia, những nhà
tư tưởng, Những tư tưởng của họ không phải là xuất phát từ hảo tâm hay thành ý của họ.
Tuy nhiên, Triết học cũng là một hình thái ý thức xã hội, Về tính chất này của nó,
nó phủ định tính chất là một khoa học chuyên nghành ( là một bộ phận của hình thái ý thức
xã hội khoa học) vì vậy nó là một khoa học đặc biệt mang tính chung nhất trừu tượng nhất
về thế giới.
- Sự tác động của tư tượng triết học, vai trị của nó đối với đời sốnglà:"khơng phải
là giải thích thế giới mà vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới" ( C.Mác ), triết học phải là khoa
học "giải thích thế giới thế tục chứ khơng phải là thốt ly thế giới thế tục "(C Mác; "Lời nói
đầu trang phê phán Nhà nước pháp quyền của Hêghel ").
Triết học tác động đến đời sống hiện thực trên vị trí, tư cách đặc biệt. Nó là hạt nhân
cơ bản của thế giới quan.


20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PH.Ăngghen: "Biện chứng của tự nhiên" - NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2005
2. V.I. Lênin: "Lênin toàn tập" - Tập 23 - NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2003
3. C. Mác : "Lời nói đầu trong phên phán triết học pháp quyền của Hêghen" - "C.Mác
- PH.Ăngghen tuyển tập"
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin. - NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2003
6. PH.Ăngghen "Chống Đuy-rinh".

21



×