Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Tiểu luận vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.6 KB, 49 trang )

Tiểu luận triết học

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 2
1. Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................................3
2. Tổng quan đề tài....................................................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài...........................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................6
CHƯƠNG 1:LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC – CƠNG NGHỆ......................3
1.1 Khái niệm khoa học.............................................................................................3
1.2. Khái niệm cơng nghệ..........................................................................................7
CHƯƠNG 2: KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................9
2.1 Vai trị của khoa học - cơng nghệ trong việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt
Nam......................................................................................................................9
2.2. Những thành tựu đạt được về khoa học – công nghệ của Việt Nam................12
2.3. Những yếu điểm còn tồn tại và nguyên nhân chủ yếu......................................14
2.4. Chiến lược phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam....................................15
2.5. Giải pháp thực hiện chiến lược phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam....17
KẾT LUẬN.............................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................24

1


Tiểu luận triết học

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới đã bước vào thế kỷ 21 với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ (KH - CN). Ngày nay KH - CN được ứng dụng rất nhiều vào cuộc
sống của con người. Đặc biệt, ứng dụng tri thức KH - CN trong phát triển kinh
tế xã hội là một hướng đi đúng.


Ở các nước phát triển hiện nay, nền kinh tế phát triển có ứng dụng tri thức
KH - CN. Đối với Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế theo
định hướng XHCN, mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong 30 năm
đổi mới vừa qua, song nền kinh tế vẫn còn kém phát triển so với các nước khu
vực và thế giới, đồng thời đang gặp phải những thách thức khơng nhỏ: đó là
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực do xuất phát
của Việt Nam quá thấp, lại phải phát triển trong môi trường cạnh tranh quyết
liệt. Sự khác biêt về trình độ cơng nghệ của Việt Nam so với các nước phát triển
là rất lớn, nhìn chung cơng nghệ nước ta tục hậu so với trình độ chung của thế
giới khoảng 3, 4 thập kỷ.
Quá trình CNH - HĐH dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động giữa các ngành, đặc biệt là sự chuyển lao động từ nông nghiệp sang các
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 là đẩy mạnh nhanh q trình đổi mới kỹ thuật cơng nghệ
trong sản xuất, mở rộng các khu công nghiệp, khu chế suất đưa Việt Nam trở
thành một nước có trình độ KTCN ở trung bình tiên tiến so với các nước trong
khu vực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng công nghiệp và
dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP.
Hội nhập nền kinh tế thế giới đang là một xu thế tất yếu của thời đại. Vì
vậy bên cạnh sử dụng năng lực nội sinh, các nước đang phát triển như Việt Nam,
khơng có con đường nào khác phải biết vận dụng những thành tựu của khoa học
công nghệ và phải bắt kịp tri thức mới để phát triển nhanh nền kinh tế. Vì vậy

2


Tiểu luận triết học

vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay là phát triển nguồn nhân lực có tri thức,
trình độ, tay nghề cho sự phát triển nền kinh tế.
Do đó KH - CN được coi là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH HĐH ở Việt Nam. Nhiệm vụ phát triển tri thức KH - CN là một nhiệm vụ cấp

thiết hiện nay, và gắn chặt hơn nữa KH - CN với phát triển kinh tế xã hội.
Việc nghiên cứu đề tài “vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát
triển kinh tế xã hội ở Việt Nam” sẽ giúp ta tìm hiểu, đánh giá đúng được vai
trị của khoa học cơng nghệ để từ đó có những giải pháp tận dụng khoa học cơng
nghệ để phát triển đất nước.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu của đề tài
Ngày nay khoa học cơng nghệ đã trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển,
là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu. Điều này được phản ánh
rõ trong việc hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển khoa học, công
nghệ và kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ
sự phát triển cụ thể của từng nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển
khoa học cụng nghệ mang tính đa dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát
triển cụ thể phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia.
Trong quá trình hội nhập thế giới, nước ta ngày càng được tiếp cận với
nhiều nguồn khoa học công nghệ hiện đại. Nhận thức được vai trị quan trọng
của khoa học cơng nghệ, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng
về khoa học công nghệ và khẳng định: "Cùng với giáo dục, đào tạo khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế -xã hội, là điều
kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Cơng nghiệp hố- hiên đại hố đất nước bằng cách dựa vào khoa học, cơng
nghệ "
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Tìm hiểu khái niệm khoa học - công nghệ.

3


Tiểu luận triết học

- Vai trò của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội Việt

Nam hiện nay.

- Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ ở Việt Nam. Đề xuất các giải
pháp để áp dụng khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế xã hội
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khoa học – Công nghệ
- Phạm vi nghiên cứu: sự phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Tìm hiểu, thu thập, phân tích và tổng hợp các thơng tin về khoa học
cơng nghệ và tình hình phát triển KT – XH ở Việt Nam.
+ Thu thập tài liệu liên quan đến đề tài.
+ Tham khảo giáo trình, sách, báo, tạp chí chun ngành, khố luận tốt
nghiệp của khố trước, qua mạng internet và các nguồn tài liệu khác.

4


Tiểu luận triết học

CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ
1.1. Khái niệm về khoa học
Trong lịch sử phát triển tư duy của nhân loại có rất nhiều các quan niệm
khác nhau về khoa học, một mặt nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội;
mặt khác phụ thuộc vào trình độ nhận thức. Xét về phương diện xã hội, khoa
học là một hiện tượng xã hội có nhiều mặt, trong đó biểu hiện sự thống nhất
giữa những yếu tố vật chất và những yếu tố tinh thần. Về phương diện triết học,
khoa học là một hình thái ý thức xã hội đặc biêt. Đặc biệt, bởi vì khoa học khơng
chỉ phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, những chân lý của nó
được thực tiễn xã hội kiểm nghiệm mà khoa học cịn là kết quả của q trình

sáng tạo logic, của trực giác thiên tài. Cịn bởi vì, khoa học (cùng với công nghệ)
là những yếu tố ngày càng có vai trị đặc biệt quan trọng của lực lượng sản xuất,
quyết định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng, của phương thức
sản xuất và của xã hội nói chung. Về phương diện nhận thức luận, khoa học là
giai đoạn cao của nhận thức - giai đoạn nhận thức lý luận.
Ngày nay, quan niệm về khoa học được phổ biến với những đặc trưng cơ
bản sau dây:
- Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người
và về tư duy của con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ nội
tại, bản chất của các sự vật, hiện tượng, q trình, từ đó chỉ ra những quy luật
khách quan của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.

5


Tiểu luận triết học

- Hệ thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận thức
của con người từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn, dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, lý thuyết,... Như
vậy, tri thức khoa học không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực, mà còn được
kiểm nghiệm qua thực tiễn.
- Hệ thống tri thức khoa học cịn có thể được hình thành nhờ trực giác
hoặc tuân theo những quy luật của logic học. Loại tri thức khoa học này, xét cho
đến cùng cũng là sự phản ánh thế giới hiện thực và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Do đó, một hệ thống tri thức được coi là tri thức khoa học phải bảo đảm tính
đúng đắn, tính chân thực.
- Nhờ giáo dục, đào tạo, hệ thống tri thức khoa học có sức sống mãnh liệt,
được phổ biến rộng rãi và lan truyền rất nhanh chóng. Tốc độ lan truyền đó đã
tăng lên rất nhiều lần nhờ vào q trình tồn cầu hóa và cơng nghệ thơng tin. Nó

khơng chỉ là sức mạnh, là sự biến đổi mau lẹ, mà còn là biểu hiện sự giàu có,
thịnh vượng của mọi quốc gia, dân tộc và cá nhân.
- Hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài,
liên tục của tư duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay nó đang
trở thành tài sản chung của xã hội loài người.
Như vậy, qua một số những đặc trưng cơ bản trên đây về quan niệm khoa
học, ta thấy nổi lên cái cốt lõi của khoa học - đó là hệ thống tri thức chân thực về
tự nhiên, xã hội và tư duy. Khoa học là hệ thống tri thức chân thực, nhưng có
phải mọi tri thức chân thực đều là khoa học hay không? Để hiểu rõ điều này,
chúng ta phải đi tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của tri thức, con đường từ tri thức
đến khoa học.
1.2. Khái niệm về công nghệ
Công nghệ theo nghĩa chung nhất có thể coi đó là tập hợp tất cả những sự
hiểu biết của con người vào việc biến đổi, cải tạo thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu
sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Công nghệ trong sản

6


Tiểu luận triết học

xuất là một tập hợp các phương tiện vật chất, các phương pháp, các quy tắc, các
kỹ năng được con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo
ra một sản phẩm nào đó cần thiết cho xã hội.
Có ba nghĩa chủ yếu về công nghệ được sử dụng phổ biến nhất hiện nay:
Một là, công nghệ được coi như một bộ môn khoa học ứng dụng, triển
khai (trong tương quan với khoa học cơ bản), trong việc vận dụng các quy luật
tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh
thần ngày càng cao của con người.
Hai là, công nghệ được hiểu với tư cách như là các phương tiện vật chất kỹ thuật, hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa học đã được vật thể hóa

thành các cơng cụ, các phương tiện kỹ thuật cần cho sản xuất và đời sống.
Ba là, công nghệ bao gồm các cách thức, các phương pháp, các thủ thuật,
các kỹ năng có được nhờ dựa trên cơ sở tri thức khoa học và được sử dụng vào
sản xuất trong các ngành khác nhau để tạo ra các sản phẩm.
Ngày nay, trong thời địa của cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới,
hay cách mạng thông tin công nghệ lần thứ năm, khi mà khoa học đang trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trí tuệ con người đang giữ vai trị động lực
trực tiế và quyết định sự phát triển của công nghệ nói riêng, và xã hội nói chung
thì quan niệm về cơng nghệ, các thành phần cấu trúc của nó lại một lần nữa có
sự mở rộng và phát triển rất cơ bản.
.......

7


Tiểu luận triết học

CHƯƠNG 2:
KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vai trò của khoa học - công nghệ trong việc phát triển kinh tế xã
hội ở Việt Nam
Cơng nghiệp hóa là con đường phát triển tất yếu của tất cả các nước trên
thế giới. Bởi vì, mục đích quan trọng nhất của cơng nghiệp hóa là phát triển sản
xuất xã hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất, nhằm thỏa mãn các nhu
cầu ngày càng tăng của con người và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Ngày nay, cơng nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Sự gắn kết chặt
chẽ giữa cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa hiện nay là sự đổi mới về chất, là nhu
cầu mới của sự phát triển xã hội và cũng là quy định mới của thời đại. Điều này,
trước tiên, được quyết định bởi sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của khoa
học và cơng nghệ và vai trị ngày càng tăng của chúng đối với nền sản xuất xã

hội nói riêng, đối với tồn bộ đời sống xã hội nói chung. Trong những giai đoạn
phát triển trước đây của xã hội loài người, sản xuất cịn tách rời khoa học và
cơng nghệ và thường là vượt trước sự phát triển của khoa học và cơng nghệ. Mói
quan hệ giữa khoa học và cơng nghệ với sản xuất lúc ấy tuân theo quy luật: sản
xuất đi trước công nghệ và công nghệ lại đi trước khoa học.
Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của khoa học và cơng nghệ đối với
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, đối với sự phát triển kinh tế
xã hội Việt Nam nói chung, được biểu hiện trên những mặt cụ thể sau đây:
Một là, khoa học và cơng nghệ có vai trị quyết định trong việc trang bị
và trang bị lại các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, cơng nghệ hiện đại, tiên tiến

8


Tiểu luận triết học

cho nền sản xuất xã hội nói riêng, cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân nói
chung, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng cường sức
cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới, v.v...
với mục tiêu không ngừng cải thiện và nâng cao mức sóng của người dân, sự
phồn vinh và sức mạnh của xã hội Việt Nam. Đó là nhiệm vụ đầu tiên, quan
trọng nhất của sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay. Trên thực tế, nước ta đã tiến hành cơng nghiệp hóa từ đầu những năm 60
của thế kỷ XX. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, đặc
biệt là chưa gắn kết được cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa, mà cho đến nay, lực
lượng sản xuất của nước ta chủ yếu vẫn ở trong tình trạng lạc hậu, các trang thiết
bị, máy móc phần lớn là thủ cơng, thủ cơng bán cơ giới. Nhìn chung, trình độ
phát triển cơng nghệ nước ta, về cơ bản, chỉ mới đạt ở giai đoạn 1 và 2 trong 7
giai đoạn phát triển công nghệ mà các nước công nghiệp phát triển đã trải qua đó là nhập cơng nghệ để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu (nhập toàn bộ hoặc nhập
phụ tùng các trang thiết bị và cả dây chuyền lắp ráp), và mới chỉ có tổ chức hạ

tầng kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu công nghệ nhập. Do vậy, cả năng suất lao
động và chất lượng các sản phẩm do nền sản xuất xã hội tạo ra vẫn còn rất thấp
so với mặt bằng chung của thế giới, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu
vực và tồn cầu.
Việc trang bị và trang bị lại cơng nghệ từ lạc hậu sang hiện đại, tiên tiến,
còn nhằm một mục đích và nhiệm vụ quan trọng nữa là làm thay đổi cơ cấu
chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ
sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Bước chuyển dịch cơ cấu này sẽ tạo
tiền đề và nền tảng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, để đến
năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một ưnứoc công nghiệp theo hướng
hiện đại. Để đạt được mục tiêu chiến lược này, nhất thiết chúng ta phải tiếp cận
được nền khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến của thế giới, đặc biệt là các

9


Tiểu luận triết học

ngành công nghệ mũi nhọn: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu mới và công nghệ năng lượng mới...
Hai là, khoa học và cơng nghệ đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong
việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người,
đặc biệt là nguồn lực trí tuệ - một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định đối
với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Có nhiều cách thức để
chúng ta thực hiện việc trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại, tiên tiến cho
các ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, dù bằng cách thức nào đi chăng nữa,
điều quan trọng và có tính chất quyết định nhất ở đây là cần phải có những con
người có đủ tri thức và năng lực để có thể khai thác, sử dụng một cách hiệu quả
các trang thiết bị hiện đại. Điều này chỉ có khoa học và cơng nghệ tiên tiến mới
làm được.

Con người là chủ thể sáng tạo ra khoa học và cơng nghệ. Đến lượt mình,
khoa học và công nghệ trở thành phương tiện, công cụ và đồng thời là cơ sở để
con người vươn lên tự toàn thiện về mọi mặt, đặc biệt là về năng lực trí tuệ.
Trước hết, thơng qua q trình giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ sẽ trang
bị cho con người những tri thức khoa học và công nghệ cần thiết để một mặt,
giúp họ có thể am hiểu, sử dụng và khai thác một cách tích cực, có hiệu quả
những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, và mặt khác, có thể sáng tạo ra cơng nghệ
mới.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, tuy đã qua hơn 40 năm cơng nghiệp
hóa, nhưng nhìn chung, nền sản xuất, đặc biệt là lực lượng sản xuất vẫn còn rất
lạc hậu. Với gần 80% dân số là nông dân, 70% lao động là lao động nông
nghiệp, với cơ cấu nền kinh tế quốc dân đang hiện hành “nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ”, với một truyền thống xã hội ít “trọng nông”, “trọng thương”,
v.v. đã và đang là những rào cản rất lớn đối với con người Việt Nam trong việc
tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại. Hơn nữa, tư duy kinh
nghiệm - một lối tư duy truyền thống phổ biến - đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam

10


Tiểu luận triết học

từ bao đời nay. Không ai phủ nhận vai trò của tư duy kinh nghiệm trong đời
sống. Tuy nhiên, trên bình diện phát triển khoa học và cơng nghệ hiện nay thì tư
duy kinh nghiệm là khơng thể đủ, mà nhất thiết phải trang bị tư duy lý luận, tư
duy khoa học - công nghệ. Ph. Ăngghen đã từng viết: “Một dân tốc muốn đứng
vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận”. Sự hạn
chế về mặt tư duy lý luận là một điểm yếu trong truyền thống dân tộc, mà ngày
nay, chúng ta phải phấn đấu vượt qua mới có thể tiếp thu và sáng tạo ra những
tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của thời

đại.
Kho tri thức khoa học và công nghệ là vô tận và luôn đổi mới. Do đó, để
có thể nắm bắt kịp thời những thành tựu của khoa học và cơng nghệ hiện đại, địi
hỏi đội ngũ những người nghiên cứu, triển khai và ứng dụng khoa học công
nghệ không những phải được đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống, mà cịn
phải thường xuyên được đào tạo bổ sung và đào tạo chuyên sâu.
Ba là, khoa học và công nghệ giữ vai trị động lực trong việc tạo ra mơi
trường thơng tin và thị trường thông tin - huyết mạch của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và của cả nền kinh tế. So với giai đoạn phát triển trước đây, thì ngày nay,
thơng tin có một vị trí cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định đối với hoạt
động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cả những hoạt động tinh thần. Có trang
thiết bị, máy móc hiện đại, có những con người đã được đào tạo tay nghề và có
kỹ năng, kỹ xảo cao, nhưng nếu thiếu thơng tin thì sẽ dẫn đến chỗ không biết
đâu tư chúng vào đâu cho đúng để kịp thời sinh lợi nhanh, và vì vậy, rất dễ sa
vào chỗ mất phương hướng phát triển. Bởi vì, thơng tin trong lĩnh vực khoa học
và cơng nghệ có liên quan rất chặt chẽ đến việc nắm bắt các bí quyết, bí mật
cơng nghệ nằm trong các phương pháp, thiết bị, các dữ liệu khoa học và công
nghệ mới nhất. Thông tin như một người hướng dẫn nắm trong tay chiếc chìa
khóa vàng kỳ diệu, giúp cho người ta có thể mở ra những cánh cửa làm ăn đúng
lúc và đúng cách, tìm kiếm những cơ hội, những lĩnh vứ làm ăn còn tiềm năng

11


Tiểu luận triết học

và triển vọng, đồng thời biết khép cửa lại, rút lui đúng lúc khi tiềm năng trong
lĩnh vực đó đã cạn kiệt v.v...
Cơng nghệ thơng tin đã chính thức đi vào nước ta khoảng hơn chục năm
nay và hệ thống thông tin khoa học - công nghệ quốc gia trải qua hơn 30 năm

hoạt động đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển khoa học và cơng
nghệ nói riêng, vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung. Tuy
nhiên, đối với nước ta, đây là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, còn rất nhiều vấn
đề phức tạp, nan giải và bất cập. Đặc điểm nổi bật của sự phát triển công nghệ
thông tin trong thời gian qua ở nước ta là chưa gắn kết được các giải pháp công
nghệ (việc trang bị các máy móc kỹ thuật cơng nghệ thơng tin) với các giải pháp
về tổ chức quản lý, chuẩn hóa thông tin và với công tác đào tạo, huấn luyện
chuyên viên kỹ thuật, những người sử dụng, quản lý thông tin. Vì vậy mà trong
nhiều trường hợp, hệ thống cơng nghệ thông tin hiện đại đã được thiết lập đầy
đủ, nhưng không vận hành được do thiếu thông tin, thiếu nhân viên kỹ thuật.
Cho đến năm 2000, nguồn nhân lực thơng tin khoa học - cơng nghệ nước ta vẫn
cịn quá mỏng và yếu kém, chưa đủ sức đáp ứng so với nhu cầu thực tế. Số
người làm công tác thông tin khoa học - công nghệ chuyên nghiệp mới chỉ có
3000 người, trong đó, số người có trình độ đại học chiếm 66,3%, trên đại học
chiếm 6,45%.
Bốn là, khoa học và cơng nghệ có vai trị quan trọng trong việc hoàn
thiện cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và xã hội. Nhiệm vụ
quan trọng của công tác tổ chức, quản lý là liên kết các yếu tố trang thiết bị, máy
móc kỹ thuật, con người và thông tin lại với nhau thành một tổ hợp vận hành
hợp lý, đồng điều nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định, mà ở đây là mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu chung của cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta là khơng ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện
mục tiêu này, phải tiến hành đồng thời nhiều hoạt động xã hội với những chức

12


Tiểu luận triết học


năng rất khác nhau, như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, giáo dục, đào tạo, chăm
sóc y tế, v.v... Sự phối hợp điều hành các hoạt động đó, sự xếp đặt các mối quan
hệ giữa chúng, cũng như sự phân bổ hợp lý các chức năng của chúng sao cho
đều hướng về các mục tiêu mà công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đề ra, chính là
nhiệm vụ của công tác tổ chức, quản lý trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi
vậy, cơng tác tổ chức, quản lý có một vai trị cực kỳ quan trọng trong q trình
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những công việc vừa rộng lớn, phức tạp, vừa tỉ mỉ, chi tiết của công tác tổ
chức quản lý ngày nay đang được thực hiện một cách nhanh chóng hơn, chính
xác hơn và hiệu quả hơn nhờ có sự phát triển của khoa học và công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thơng tin. Nhờ có sự trợ giúp của cơng nghệ thơng tin, thơng
qua hệ thống máy vi tính, mạng Internet, ngườ ta có thể tiến hành cơng tác tổ
chức và quản lý một cách sâu sắc, toàn diện ở tầm vi mô, cũng như vĩ mô.
Năm là, khoa học và cơng nghệ đóng góp phần quan trọng vào chiến
lược phát triển bền vững của xã hội. Qua những điều đã trình bày trên đây, hồn
tồn có thể khẳng định được vai trò cơ sở và động lực của khoa học và cơng
nghệ đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với bất cứ giá nào. Ngày
nay, phát triển bền vững đang là mối quan tâm sâu sắc của tồn nhân loại.
Có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển bền vững, nhưng cách
hiểu chung nhất là, làm sao cho sự phát triển, trước hết là sự phát triển về kinh
tế, của các thế hệ hôm nay không cản trợ cơ hội phát triển của các thế hệ mai
sau. Phát triển bền vững là “sự cải thiện chất lượng cuộc sống của con người đi
đôi với nhiệm vụ bảo vệ các hệ sinh thái”, nghĩa là phải hướng đến ba mục tiêu
cơ bản: 1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và an toàn; 2. Mục tiêu xã hội nhân văn; 3. Mục tiêu bảo vệ và không ngừng cải thiện chất lượng môi trường
sống, hay mục tiêu sinh thái. Do vậy, để có thể phát triển xã hội một cách bền
vững, phải kết hợp một cách hài hòa, đầy đủ 4 yếu tố cơ bản: yếu tố kinh tế, yếu
tố con người (dân số), yếu tố môi trường, sinh thái và yếu tố công nghệ.

13



Tiểu luận triết học

Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học và công nghệ là cung cấp những trang
thiết bị kỹ thuật hiện đại thông qua các công nghệ cao, công nghệ sạch để con
người khắc phục được những hậu quả tiêu cực cdo chính những phương tiện kỹ
thuật chưa hồn thiện trước đây gây ra (xử lý các chất thải độc hại, phục hồi các
hệ sinh thái tự nhiên...); xây dựng những quy trình cơng nghệ mới khơng có chất
thải, những khu sản xuất liên hợp mà những chất thải cuối cùng của chúng có
thể được các sinh vật khác sử dụng để đưa vào chu trình sinh học, v.v.
Là động lực và là cơ sở của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
riêng, của sự phát triển xã hội nói chung, khoa học và cơng nghệ đang đóng góp
phần quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt
là mục tiêu kinh tế - xã hội.
2.2. Những thành tựu đạt được về khoa học – công nghệ của Việt
Nam:
- Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ
qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao
đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến
sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu cơng nhân kỹ thuật; trong đó, có
khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ thuộc khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động
khoa học và công nghệ của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng
tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong một
số ngành và lĩnh vực.
Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức khoa học và
công nghệ với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần
kinh tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao
đẳng, trong đó có 30 trường ngồi cơng lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện,


14


Tiểu luận triết học

trung tâm nghiên cứu, các phịng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học
và công nghệ, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số
loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản
xuất - kinh doanh.
- Khoa học và cơng nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã
hội.
Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lý giải và khẳng
định giá trị khoa học và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa
học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước; góp phần vào thành cơng của cơng cuộc đổi mới nói chung và vào q
trình đổi mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho các phương án
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Khoa học và cơng nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm
chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các cơng nghệ nhập từ nước ngồi. Nhờ
đó, trình độ cơng nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên
đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hố có sức cạnh tranh cao hơn. Đặc biệt, trong
lĩnh vực nông nghiệp khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật
ni có chất lượng và năng suất cao, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
thôn, đưa nước ta từ chỗ là nước nhập khẩu lương thực trở thành một trong
những nước xuất khẩu gạo, cà phê, v.v... hàng đầu trên thế giới.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về cơng nghệ thông tin, công

nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hố, cơng nghệ cơ khí - chế tạo máy,
đã góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên
tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.

15


Tiểu luận triết học

Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào tạo và
nâng cao trình độ nhân lực, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo vệ mơi trường, giữ
gìn bản sắc và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
- Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được tổ chức từ
trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ, góp
phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương.
Thực hiện Luật Khoa học và cơng nghệ, các chương trình, đề tài, dự án
khoa học và công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Cơ
chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã
bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ đã mở rộng từ nghiên
cứu - phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công nghệ. Quyền tự chủ
của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH&CN bước đầu được tăng cường.
Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và
công nghệ được mở rộng.
Vốn huy động cho khoa học và công nghệ từ các nguồn hợp đồng với khu
vực sản xuất - kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn
khác, tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hố nguồn vốn đầu tư cho khoa học
và công nghệ. Đã cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học
theo hướng giảm bớt các khâu trung gian .

Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ từng bước được hồn thiện thơng qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ
và trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương.

16


Tiểu luận triết học

- Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân
ngày càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động
tích cực của các tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức khuyến nông, lâm,
ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học và
công nghệ đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng
tri thức khoa học và công nghệ của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ
rệt. Hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi
cả nước.
2.3. Hạn chế và nguyên nhân:
2.3.1. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung khoa
học và cơng nghệ nước ta cịn nhiều mặt yếu kém, cịn có khoảng cách khá xa so
với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực phát
triển kinh tế - xã hội.
- Năng lực khoa học và cơng nghệ cịn nhiều yếu kém:
Đội ngũ cán bộ khoa học và cơng nghệ cịn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, đặc
biệt là thiếu cán bộ khoa học và cơng nghệ trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu
nhân lực khoa học và công nghệ theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp
lý.

Đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ còn rất thấp, đặc biệt là đầu
tư từ khu vực doanh nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại
học nhìn chung cịn rất thiếu, khơng đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản
xuất tiên tiến cùng ngành. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao, đặc biệt đối với
những lĩnh vực khoa học và công nghệ tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển

17


Tiểu luận triết học

khoa học và công nghệ cũng như sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Hệ thống dịch vụ khoa học và công nghệ, bao gồm thông tin khoa học và
công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp
ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế.
Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu khoa học và công nghệ, giáo
dục - đào tạo và sản xuất - kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ
chức nghiên cứu - phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp.
So với các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta cịn có khoảng
cách rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động khoa học và công nghệ: tỷ lệ cán
bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ trong dân số và mức đầu tư cho nghiên
cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết quả nghiên cứu - phát triển theo
chuẩn mực quốc tế cịn rất ít. Nhìn chung, năng lực khoa học và cơng nghệ nước
ta cịn yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới,
chưa gắn kết chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội.
- Trình độ cơng nghệ của nhiều ngành sản xuất cịn thấp và lạc hậu:
Ngồi những cơng nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành,
lĩnh vực như bưu chính - viễn thơng, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất

điện, xi măng, nhìn chung trình độ cơng nghệ của các ngành sản xuất nước ta
hiện lạc hậu khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Tình
trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Cơ chế quản lý khoa học và công
nghệ chậm được đổi mới, cịn mang nặng tính hành chính: Quản lý hoạt động
khoa học và cơng nghệ cịn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chưa chú
trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng kết quả
nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự

18


Tiểu luận triết học

gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đánh giá
nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế.
- Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ không phù hợp với
đặc thù của lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Các tổ chức khoa học và cơng nghệ chưa có được đầy đủ quyền tự
chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng
động, sáng tạo. Việc quản lý cán bộ khoa học và công nghệ theo chế độ công
chức không phù hợp với hoạt động khoa học và công nghệ, làm hạn chế khả
năng lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế đảm bảo để cán bộ khoa học
và công nghệ được tự do chính kiến, phát huy khả năng sáng tạo, tự chịu trách
nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu tạo động
lực đối với cán bộ khoa học và cơng nghệ và chính sách thu hút, trọng dụng
nhân tài, chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, khơng khuyến khích cán bộ
khoa học và cơng nghệ tồn tâm với sự nghiệp khoa học và cơng nghệ. Cơ chế
quản lý tài chính trong hoạt động khoa học và công nghệ chưa tạo thuận lợi cho
nhà khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước;

cơ chế tự chủ về tài chính của các tổ chức khoa học và cơng nghệ chưa đi liền
với tự chủ về quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn chế.
Thị trường khoa học và công nghệ chậm phát triển. Hoạt động mua, bán
công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu khoa học và cơng nghệ cịn bị hạn
chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định pháp lý cần thiết, đặc
biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.
Tóm lại, cơng tác quản lý nhà nước về khoa học và cơng nghệ cịn chưa
đổi mới kịp so với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường.
2.3.2. Nguyên nhân:
Đường lối chính sách phát triển khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà
nước chưa được quán triệt đầy đủ và chậm được triển khai trong thực tiễn:

19


Tiểu luận triết học

Quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước
đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng nhưng trên thực tế chưa
được các cấp, các ngành, các địa phương quán triệt đầy đủ và triển khai trong
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội.
Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa
học và cơng nghệ chậm được thể chế hố bằng các văn bản quy phạm pháp luật;
việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách thiếu kiên quyết nên kết quả còn hạn
chế. Năng lực của các cơ quan tham mưu, quản lý khoa học và cơng nghệ các
cấp cịn yếu kém: Cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp ăn sâu vào tiềm thức
và thói quen của khơng ít cán bộ khoa học và công nghệ và quản lý khoa học và
công nghệ đã tạo ra sức ỳ không dễ khắc phục trong cơ chế mới, không đáp ứng
được yêu cầu về đổi mới quản lý khoa học và công nghệ trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế.

Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với những hoạt động khoa học
và công nghệ mà Nhà nước cần đầu tư phát triển như: các lĩnh vực khoa học và
công nghệ trọng điểm, ưu tiên; nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển;
nghiên cứu cơ bản; nghiên cứu mang tính cơng ích, v.v...; cũng như chưa có cơ
chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động khoa học và cơng nghệ cần và có
thể vận dụng cơ chế thị trường, như nghiên cứu ứng dụng và phát triển công
nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ.
Quản lý nhà nước đối với khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong
hệ thống khoa học và công nghệ chưa được tách biệt rõ ràng, làm cho công tác
quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ cịn mang nặng tính hành chính.
Chậm tổng kết thực tiễn để nhân rộng các điển hình tiên tiến về gắn kết
giữa nghiên cứu khoa học và công nghệ với giáo dục - đào tạo và sản xuất - kinh
doanh.

20


Tiểu luận triết học

Đầu tư cho phát triển khoa học và cơng nghệ cịn hạn hẹp: Đầu tư xây
dựng tiềm lực khoa học và công nghệ trong thời gian dài còn chưa được chú
trọng đúng mức, thiếu tập trung vào lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, dẫn đến cơ sở
hạ tầng khoa học và công nghệ lạc hậu, hiệu quả đầu tư thấp.
Thiếu quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao ở các lĩnh
vực khoa học và công nghệ ưu tiên, đặc biệt là cán bộ khoa học và công nghệ
đầu ngành, các "tổng công trình sư".
Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo mơi trường thuận lợi cho phát triển khoa
học và công nghệ:
Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay cịn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà
nước, độc quyền của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh,

làm cho các doanh nghiệp nhà nước có tư tưởng ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng
dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ và đổi mới công nghệ.
Thiếu cơ chế, chính sách hữu hiệu để gắn kết giữa khoa học và công nghệ với
sản xuất - kinh doanh và khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên
cứu khoa học và cơng nghệ. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát triển cũng
không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động được nguồn vốn để đầu tư
cho khoa học và công nghệ.
2.4. Chiến lược phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam:
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020 là một
nội dung qua trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm của Việt
Nam; được phê duyệt theo Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/04/2012 của
Thủ tướng Chính phủ. Chiến lược là một bộ phận quan trọng, được coi là một
giải pháp tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Nội dung chính của chiến lược là:
2.4.1. Mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ:
Mục tiêu tổng quát

21


Tiểu luận triết học

Phát triển đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa
học kỹ thuật và công nghệ; đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành động
lực then chốt, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam có một số lĩnh
vực đạt trình độ tiên tiến, hiện đại của khu vực ASEAN và thế giới.
Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2020, khoa học và công nghệ góp phần đáng kể vào tăng trưởng
kinh tế và tái cấu trúc nền kinh tế, giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm

ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% GDP. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết
bị đạt 10 - 15%/năm giai đoạn 2011 - 2015 và trên 20%/năm giai đoạn 2016 2020. Giá trị giao dịch của thị trường khoa học và công nghệ tăng trung bình 15
- 17%/năm.
Số lượng cơng bố quốc tế từ các đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà
nước tăng trung bình 15 - 20%/năm. Số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ giai
đoạn 2011 - 2015 tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2006 - 2010, giai đoạn 2016 2020 tăng 2 lần so với giai đoạn 2011 - 2015, trong đó đặc biệt tăng nhanh số
lượng sáng chế được tạo ra từ các chương trình khoa học và công nghệ trọng
điểm cấp Nhà nước.
Phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ đạt 1,5%
GDP vào năm 2015 và trên 2% GDP vào năm 2020. Bảo đảm mức đầu tư từ
ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ không dưới 2% tổng chi ngân
sách nhà nước hàng năm.
Đến năm 2015, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
đạt 9 - 10 người trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc tế 5.000
kỹ sư đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất công nghệ
cao trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước.

22


Tiểu luận triết học

Đến năm 2020, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
đạt 11 - 12 người trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc tế
10.000 kỹ sư đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất công
nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước.
Đến năm 2015, hình thành 30 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt
trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng yếu
quốc gia đặt ra đối với khoa học và công nghệ; 3.000 doanh nghiệp khoa học và
công nghệ; 30 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp cơng nghệ

cao.
Đến năm 2020, hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt
trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng yếu
quốc gia đặt ra đối với khoa học và công nghệ; 5.000 doanh nghiệp khoa học và
công nghệ; 60 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ
cao.
2.4.2. Định hướng nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ
Tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ
chế hoạt động khoa học và công nghệ
- Về tổ chức khoa học và công nghệ
Tái cấu trúc và quy hoạch lại hệ thống tổ chức khoa học và cơng nghệ
quốc gia theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, trùng lặp và phù
hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các ngành, lĩnh vực
và vùng kinh tế.
Tập trung đầu tư phát triển Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam trở thành hai tổ chức khoa học và công nghệ hàng
đầu quốc gia và ASEAN. Nâng cao năng lực của các trường đại học về nghiên
cứu cơ bản. Xây dựng tại mỗi vùng kinh tế trọng điểm ít nhất một tổ chức khoa
học và công nghệ mạnh gắn với tiềm năng, lợi thế của vùng, liên kết chặt chẽ

23


Tiểu luận triết học

với các trường đại học để đào tạo nhân lực, thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ.
Khuyến khích, hỗ trợ hình thành, phát triển các tổ chức nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ trong doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế.
Phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và

công nghệ. Phát triển mạnh doanh nghiệp khoa học và công nghệ, chủ yếu từ các
trường đại học, viện nghiên cứu.
- Về cơ chế quản lý khoa học và công nghệ
Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc thù của hoạt động khoa
học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, nhanh chóng nâng cao
hiệu quả đầu tư và đóng góp thiết thực của khoa học và công nghệ cho các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới phương thức xây dựng nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp,
bao gồm đề xuất, lựa chọn và xác định nhiệm vụ khoa học và cơng nghệ, bảo
đảm tính thực tiễn, khoa học và liên ngành. Quy định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương trong việc xác định và chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ khoa học và
công nghệ trọng điểm thuộc phạm vi quản lý. Tăng tỷ lệ nhiệm vụ khoa học và
cơng nghệ có khả năng thương mại hóa.
Đổi mới phương thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
các cấp theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch và cạnh tranh trong tuyển
chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Khuyến khích
các tổ chức khoa học và cơng nghệ liên kết, phối hợp để thực hiện các nghiên
cứu khoa học có ý nghĩa quốc gia và trình độ quốc tế. Thực hiện thẩm định,

24


Tiểu luận triết học

đánh giá theo chuẩn mực quốc tế trong việc giao, thực hiện nhiệm vụ khoa học
và công nghệ.
Đổi mới cơ chế tài chính thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phù

hợp với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ. Tăng cường hoạt động
thanh tra, kiểm tra, giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa
học và công nghệ ở các Bộ, ngành, địa phương.
Đổi mới cơ chế, chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ khoa học và
cơng nghệ theo hướng tạo động lực và lợi ích thiết thực để giải phóng và phát
huy sức sáng tạo của cán bộ khoa học. Áp dụng cơ chế, chính sách đãi ngộ đặc
biệt đối với cán bộ khoa học và cơng nghệ chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học
và cơng nghệ cấp quốc gia. Bảo đảm lợi ích chính đáng của các tác giả có phát
minh, sáng chế.
Đổi mới hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo hướng
tinh giản, tập trung cho xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách; tăng cường
năng lực điều phối liên ngành, liên vùng, bảo đảm phân công, phân cấp; giảm
bớt chức năng tác nghiệp cụ thể.
- Về cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ
Triển khai mơ hình hợp tác cơng - tư trong lĩnh vực khoa học và cơng
nghệ; phát triển các hình thức hợp tác nghiên cứu, đổi mới công nghệ, đào tạo
phát triển nguồn nhân lực giữa khu vực công và tư.
Chuyển cơ chế cấp phát tài chính để thực hiện các nhiệm vụ khoa học và
công nghệ sang cơ chế quỹ. Triển khai nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các
quỹ khoa học và công nghệ bao gồm các quỹ quốc gia, Bộ, ngành, địa phương
và doanh nghiệp.
Chuyển các tổ chức khoa học và công nghệ công lập sang cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thực hiện nghiên cứu ứng

25


×