Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN THCS nghiên cứu về khả năng cảm thụ tác phẩm truyện thơ trung đại việt nam – ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.76 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài :...................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu................................................................1
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.........................................2
4. Giả thuyết nghiên cứu:............................................................2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................2
6. Phạm vi và giới hạn đề tài.......................................................3
7. Phương pháp nghiên cứu.........................................................3
B. NỘI DUNG................................................................................3
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.........................3
1. Cơ sở khoa học:.......................................................................3
2. Cơ sở thực tiễn:.......................................................................4
Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.............................4
I. Đặc điểm tình hình...................................................................4
1. Thuận lợi..................................................................................4
2. Khó khăn..................................................................................4
II.Thực trạng vấn đề nghiên cứu..................................................5
1.Mục tiêu của giải pháp.............................................................6
2. Mô tả bản chất của giải pháp..................................................7
Chương 4: Kết quả hoặc hiệu quả sáng kiến:............................24
1. Hiệu quả của sáng kiến:........................................................24
2.Kết quả cụ thể như sau:.........................................................24
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..................................................24
1.Kết luận:.................................................................................24
2 . Khuyến nghị:........................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................26

1



A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Văn học là bộ phận tinh tế nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng vươn tới các giá trị “chân, thiện, mỹ” của con người. Nhiệm vụ hàng đầu của sự
nghiệp văn học là sáng tạo những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng nội dung
và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ sâu sắc, có ý thức giáo
dục, bồi dưỡng tinh thần, tình cảm, nhân cách và bản lĩnh cho các thế hệ công
dân của đất nước.
Trong hệ thống giáo dục phổ thông, môn văn có một vị trí quan trọng cả
về hai mặt: “Bồi dưỡng văn hóa, khoa học, kỹ thuật”. Và “Giáo dục lý tưởng
cách mạng, đạo đức xã hội”. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật thì phương pháp luận của khoa học căn bản có những đổi mới. Việc đổi
mới sách giáo khoa ngữ văn THCS nhằm giúp học sinh hình thành, phát triển
năng lực chủ yếu: năng lực hành động, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp,
năng lực tự khẳng định. Đồng thời phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh.
Ở bộ môn Ngữ văn thời lượng giành cho việc giảng dạy tác phẩm văn
chương là tương đối lớn. Trong số thời lượng ấy, số tiết dạy văn học Trung đại
cũng chiếm một phần khơng nhỏ, được tìm hiểu ở tồn cấp học. Do đó việc nắm
được mối quan hệ giữa giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học
trung đại là vô cùng cần thiết.
Trong q trình dạy học tơi nhận thấy: số đơng học sinh không mấy hứng
thú học văn. Đặc biệt là văn học trung đại. Không chỉ bởi rào cản ngôn ngữ, văn
tự, khoảng cách về văn hóa giữa quá khứ và hiện tại mà cịn khó khăn trong việc
tìm kiếm tài liệu tham khảo, đặc biệt là sách tuyển chọn những tác phẩm ngun
gốc. Đứng trước tình hình nền văn hóa dân tộc có nguy cơ mai một, là một giáo
viên, nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp học sinh có được hứng thú trong giờ
học văn, giúp các em đồng cảm với nhân vật với tác giả, từ đó cảm thông và yêu
quý họ. Xây dựng hứng thú, thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học văn; có
ý thức và biết cách ứng xử trong gia đình, trong trường học và ngồi xã hội một
cách có văn hóa; khinh ghét những cái xấu xa, độc ác, giả dối được phản ánh

trong các tác phẩm văn học. Đồng thời giúp các em giữ gìn được nền văn hóa
dân tộc mà người nghệ sĩ đã gửi gắm lại qua nhiều thế hệ.
Đó là lí do tơi chọn đề tài này làm nội dung nghiên cứu và thực hiện trong
suốt những năm giảng dạy lớp 9.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc dạy và học văn học Trung đại Việt Nam đến nay vẫn cịn là nỗi khốn
khổ, gây nhiều khó khăn, phiền toái cho người dạy lẫn người học. Hiểu được
1


những tác phẩm đó chẳng phải là chuyện dễ dàng gì; truyền thụ cái hay, cái đẹp
của nó cho người học hiểu được lại càng khó khăn gấp bội phần.
Vấn đề có nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là rào cản
ngôn ngữ, bởi những tác phẩm ấy đều viết bằng ngôn ngữ Hán văn cổ hay chữ
Nôm có phần xa lạ với ngơn ngữ Tiếng Việt hiện đại hơm nay. Thêm vào đó là
người tiếp nhận văn bản dù muốn hay khơng phải có kiến thức chắc chắn, ít
nhiều phải hiểu rõ mơi trường văn hố trung đại, tư tưởng ý thức hệ chính thống
thời trung đại, điển cố điển tích, thể loại văn học v.v…VËy mµ đối tượng
tiếp nhận ở đõy lại là học sinh THCS, vốn sống ít ỏi. khả năng ngơn ngữ chưa
hồn thiện, vậy làm sao để cảm được hết cái hay cái đẹp của văn học trung đại
mang tính bác học? Chỉ bấy nhiêu thứ cũng đủ làm cho người dạy lẫn người
học đau đầu, mệt trí thì thử hỏi làm sao mà lắng lịng, mà bình tâm để cảm nhận
cho được cái tinh hoa cùng vẻ đẹp của văn chương qua cách biểu đạt “ngôn tại ý
ngoại” của các bậc thi nhân tiền bối đã gởi gắm trong từng câu chữ.
Những trăn trở này xin được mạo muội ghi lại đây để đồng nghiệp cùng
suy nghĩ và góp ý, với thiện tâm là làm sao giúp cho việc dạy và học các tác
phẩm Văn học Trung đại Việt Nam tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu về khả năng cảm thụ tác phẩm truyện thơ trung đại Việt

Nam – Ngữ Văn 9, Trường THCS Nguyễn Trung Trực .
3.2. Khách thể nghiên cứu:
- HS lớp 9 Trường THCS Nguyễn Trung Trực.
4. Giả thuyết nghiên cứu:
Việc nguyên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả về khả năng cảm thụ tác phẩm truyện thơ trung đại Việt Nam – Ngữ Văn 9,
cho học sinh trong trường THCS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận được thể hiện trong mục tiêu và nhiệm vụ
của bộ môn Ngữ Văn, trong thực tế dạy và học của giáo viên và học sinh, được
ấn hành qua các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5.2. Nghiên cứu thực trạng chất lượng về khả năng cảm thụ, phân tích và
vận dụng kĩ năng để viết bài nghị luận về tác phẩm văn học trung đại của học
sinh trường THCS Nguyễn Trung Trực còn hạn chế và nguyên nhân dẫn đến
thực trạng đó.
2


5.3. Đề xuất giải pháp:
Nhằm đạt được kết quả cao trong q trình giảng dạy mơn Ngữ Văn cho
học sinh nói chung và nâng cao khả năng cảm thụ tác phẩm truyện thơ trung đại
Việt Nam cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nguyễn Trung Trực nói riêng, mỗi
giáo viên chúng ta phải có nhiƯm vơ giúp học sinh có được hứng thú trong giờ
học văn, giúp các em đồng cảm với nhân vật với tác giả, từ đó cảm thông và yêu
quý họ. Xây dựng hứng thú, thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học văn; có
ý thức và biết cách ứng xử trong gia đình, trong trường học và ngồi xã hội một
cách có văn hóa; khinh ghét những cái xấu xa, độc ác, giả dối được phản ánh
trong các tác phẩm văn học. Đồng thời giúp các em giữ gìn được nền văn hóa
dân tộc mà người nghệ sĩ đã gửi gắm lại qua nhiều thế hệ.
6. Phạm vi và giới hạn đề tài

Cả một giai đoạn lịch sử được phản ánh trong văn học suốt 400 năm (Từ
TK XVI - TK XIX) với bao thăng trầm được học trong nửa học kì I lớp 9. Từ
tình u nước, ý chí dân tộc cho đến ý thức về thân phận con người, đặc biệt là
thân phận người phụ nữ được Văn học đề cập. Vậy phải dạy như thế nào cho
đúng để các em hiểu và hiểu đúng về thời đại và con người cùng giá trị đích
thực của các tác phẩm giai đoạn này? Phạm vi nghiên cứu của đề tài này tập
trung vào học sinh và các nội dung đó trong tác phẩm được dạy ở lớp 9.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu nắm bắt tình hình thực tiễn, vận dụng các phương
pháp dạy học phù hợp và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy hàng năm. Cụ
thể:
- Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về phương pháp giảng dạy
tác phẩm văn học trung đại.
- Tham khảo ý kiến cũng như phương pháp giảng dạy các tác phẩm của
đồng nghiệp thông qua các buổi họp chuyên đề, dự giờ thăm lớp.
- Lấy thực nghiệm việc giảng dạy Văn học Trung đại
B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1. Cơ sở khoa học:
Trong chương trình Ngữ Văn THCS, các văn bản truyện thơ Trung đại
được đưa vào chiếm một tỉ lệ tương đối đáng kể so với chương trình dạy học.
Học các tác phẩm văn học của Trung đại không chỉ là giúp học sinh bước đầu
làm quen và tìm hiểu tác giả, tác phẩm thời kì Trung đại, hiểu được nội dung tư
tưởng, hiểu được giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học mà còn giúp học sinh
3


hiểu được đây là một bộ phận quan trọng tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn
học Việt Nam và giúp các em hiểu thêm về lịch sử của dân tộc.
2. Cơ sở thực tiễn:

Văn học trung đại (còn gọi là văn học viết thời phong kiến hoặc văn học
cổ), là phần chương trình mơn văn lớp 9 suốt học kì I.
Đây là phần khó đối với cả học sinh và giáo viên . Giáo viên ít kiến thức
thì dễ hiểu sai , dạy sai . Với học sinh , mọi kiến thức đều xa lạ , từ quan hệ xã
hội đến quan điểm nghệ thuật , tư tưởng tỏc giả , phong cách nghệ thuật ,ngôn
ngữ ....Tất cả hầu như lần đầu tiên các em mới biết đến . Đã thế, mười thế kỷ
văn chương phong phú, mỗi thế kỷ chỉ chọn lọc một, hai bài . Những bước nhảy
cóc từ bài nọ sang bài kia cách xa hàng trăm năm khiến cho các em khó mà cảm
nhận từng bài cũng như quá trình phát triển của văn chương.
Những tác phẩm được chọn dạy ở đây là những tác phẩm đặc sắc nhất của
Văn học trung đại giai đoạn này. Nội dung khá gần gũi với các em và chủ yếu là
thơ nên các em dễ học thuộc. Nhưng để tiếp nhận lại chẳng dễ chút nào bởi cách
diễn đạt, quan niệm, cách giải quyết lại khác hẳn so với thời đại các em đang
sống.
Chớnh vỡ điều này đó làm cho tụi suy nghĩ, nung nấu và chọn viết về đề
tài này.
Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
I. Đặc điểm tình hình
1. Thuận lợi
- Trong năm học này được sự phân công giảng dạy môn Ngữ Văn 9, tôi
thấy khả năng tiếp thu bài của học sinh tốt hơn so với những năm học trước.
- Việc chuẩn bị bài của học sinh trước khi đến lớp cũng tương đối tốt,
nhiều em hăng hái phát biểu ý kiến.
- Bản thân tôi luôn được sự giúp đỡ tận tình từ đồng nghiệp về chun
mơn. Nhà trường thường xun tổ chức thao giảng dự giờ tạo điều kiện thuận lợi
để giáo viên được học tập và rút kinh nghiệm lẫn nhau.
- Hiện nay tài liệu tham khảo nhiều giúp ích trong cơng tác giảng dạy của
giáo viên.
- Phịng giáo dục đã triển khai các lớp tập huấn chuyên đề, chúng tơi có
điều kiện được tiếp cận với những điểm mới trong q giảng dạy bộ mơn.

2. Khó khăn
4


- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương
pháp trực quan vào tiết học còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài
của học sinh.
- Số lượng học sinh nam nhiều, ý thức học chưa tốt ảnh hưởng đến các
bạn xung quanh.
- Tài liệu tham khảo cịn hạn chế, các em ít được tiếp xúc với sách, báo để
mở rộng kiến thức.
- Một số hiện tượng học sinh còn bỏ học chạy theo một số nhu cầu giải trí
dẫn đến sao nhãng việc học.
- Một số học sinh tiếp thu kiến thức chậm, ghi bài chậm, chưa soạn bài
dẫn đến chất lượng giờ học chưa cao.
II.Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Sau nhiều năm giảng dạy ở Ngữ văn 9, tôi thấy thực tế xảy ra là:
- Học sinh khó cảm thụ và phân tích tác phẩm Văn học trung đại
- Khả năng vận dụng kiến thức về tác giả , tác phẩm vào kỹ năng làm bài
văn nghị luận còn hạn chế .
- Sách tham khảo, điều kiện tìm đọc trọn vẹn các tác phẩm là rất ít. Mà
hầu như các em chỉ được học trích đoạn nên đơi khi hiểu thiếu trọn vẹn, mơ hồ.
- Bố mẹ, người thân đa phần là nông dân, vốn hiểu biết về văn học học cổ
rất hạn chế. Học sinh có thắc mắc khó có thể được chia sẻ tỉ mỉ.
Từ đó học sinh ngại học , ngại đọc các tác phẩm văn học dẫn đến chất
lượng bài viết chưa cao. Hơn nữa đứng trước tình hình nền văn hóa dân tộc có
nguy cơ mai một, là một giáo viên, nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp học sinh
có được hứng thú trong giờ học văn, giúp các em đồng cảm với nhân vật với tác
giả, từ đó cảm thơng và u q họ. Xây dựng hứng thú, thái độ nghiêm túc,
khoa học trong việc học văn; có ý thức và biết cách ứng xử trong gia đình, trong

trường học và ngồi xã hội một cách có văn hóa; khinh ghét những cái xấu xa,
độc ác, giả dối được phản ánh trong các tác phẩm văn học. Đồng thời giúp các
em giữ gìn được nền văn hóa dân tộc mà người nghệ sĩ đã gửi gắm lại qua nhiều
thế hệ.
Số liệu điều tra trước khi thực hiện :
Sau khi học sinh học xong văn bản " Chuyện người con gái Nam
Xương", tôi cho các em làm bài kiểm tra.

5


Đề bài : Cảm nghĩ của em về vẻ đẹp và số phận oan nghiệt của nhân vật
Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ ?
Kết quả cụ thể như sau:
Lớp
9/2
9/3

Sĩ số
45
45

Giỏi
4
6

Khá
10
12


Trung bình
21
19

Yếu
10
8

Đa số các em nêu được cảm nghĩ của mình về nhân vật nhưng lí giải chưa
thực sự thấu đáo và thiếu tính thuyết phục. Tất cả những nhận xét chỉ dừng lại
theo hướng cảm tính, đơi bài cịn lí giải mang khuynh hướng xã hội học hiện
đại. Từ thực tế đó, tơi suy nghĩ và mạnh dạn áp dụng một số giải pháp sau.

Chương 3: Giải pháp nghiên cứu
1.Mục tiêu của giải pháp
Trong sáng kiến này tôi sẽ đi sâu vào những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng chất lượng về khả năng cảm thụ, phân tích và vận dụng kĩ năng để viết bài
nghị luận về tác phẩm văn học Trung đại cho học sinh tại đơn vị mình cơng tác.
Trả lời câu hỏi: Giải pháp nhằm giải quyết vấn đề gì (giải quyết
những nhược điểm, khó khăn, hạn chế nào của hiện trạng vấn đề đã mơ
tả?)
Trước những khó khăn và thách thức trên, trong nhiều năm giảng dạy, làm
công tác tại trường, tôi đưa ra giải pháp: “Giúp học sinh nâng cao khả năng
6


cảm thụ tác phẩm truyện thơ trung đại Việt Nam – Ngữ Văn 9, Trường
THCS Nguyễn Trung Trực” nhằm giải quyết các vấn đề sau:
+ Khắc phục được tình trạng học sinh ngại học, ngại đọc các tác
phẩm văn học Trung đại vì khả năng hiểu biết và cảm thụ của các em còn

hạn chế.
+ Cho các em thấy được tầm quan trọng của bộ môn Văn trong cuộc sống
con người vì đó là văn hóa dân tộc mà người nghệ sĩ đã gửi gắm lại qua nhiều
thế hệ.
+ Xây dựng hứng thú, thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học văn;
có ý thức và biết cách ứng xử trong gia đình, trong trường học và ngồi xã hội
một cách có văn hóa; khinh ghét những cái xấu xa, độc ác, giả dối được phản
ánh trong các tác phẩm văn học.
+ Học sinh có thái độ u thích,quan tâm hơn đến việc học Văn học Trung
đại.
+ Giúp học sinh có được hứng thú trong giờ học văn, giúp các em đồng
cảm với nhân vật với tác giả, từ đó cảm thông và yêu quý họ.
+ Nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh.
2. Mô tả bản chất của giải pháp
- Xác định giải pháp thuộc loại giải pháp nào?
Giải pháp tôi đưa ra và lựa chọn thuộc nhóm giải pháp quản lý, giải pháp
tác nghiệp và giải pháp kĩ thuật.
Trong hệ thống giáo dục phổ thơng, mơn văn có một vị trí quan trọng cả
về hai mặt: “Bồi dưỡng văn hóa, khoa học, kỹ thuật”. Và “Giáo dục lý tưởng
cách mạng, đạo đức xã hội”. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật thì phương pháp luận của khoa học căn bản có những đổi mới. Việc đổi
mới sách giáo khoa ngữ văn THCS nhằm giúp học sinh hình thành, phát triển
năng lực chủ yếu: năng lực hành động, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp,
năng lực tự khẳng định. Đồng thời phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh.
Vì vậy để nâng cao chất lượng về khả năng cảm thụ, phân tích và vận
dụng kĩ năng để viết bài nghị luận về tác phẩm văn học trung đại của học sinh
lớp 9 trường THCS Nguyễn Trung Trực, bản thân tôi đã xây dựng những giải
pháp sau:
2.1. Muốn dạy tốt, bản thân người giáo viên phải hiểu kĩ đặc trưng

của văn học trung đại.
7


a. Về cỏc giai đoạn phát triển:
Chặng 1: (TK X - hết TK XIV)
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở
ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc: đất nước độc lập, nhà nước phong kiến Việt
Nam hình thành và phát triển. Từ đây bắt đầu một giai đoạn hào hùng với những
chiến công vô cùng hiển hách của các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lí, Trần. Văn học
viết Việt Nam hình thành, TK X có sự xuất hiện của văn học viết chữ Hán và
đến TK XIII đấnh dấu sự ra đời của văn học viết bằng chữ Nơm. Bên cạnh đó
văn học dân gian vẫn tồn tại và phát triển song song với văn học viết. Cảm hứng
chủ đạo là cảm hứng yêu nước với âm hưởng hào hùng, đặc biệt là giai đoạn nhà
Trần với hào khí Đơng A sục sơi. Thời kì này có sự xuất hiện của nhiều thể loại
văn học như văn nghị luận (chiếu, hịch), văn xuôi lịch sử (Đại Việt sử kí của Lê
Văn Hưu) và thơ. Do tư duy nguyên hợp nên văn học giai đoạn này có hiện
tượng văn-sử-triết bất phân. Văn học viết bằng chữ Hán là chủ đạo, văn học viết
bằng chữ Nơm chưa có thành tựu gì.
Chặng 2: (TK XV - hết TK XVII)
TK XV văn học viết còn kế thừa được cảm hứng u nước và âm hưởng
cịn sót lại của hào khí Đơng A. Dần dần văn học Việt Nam chuyển sang cảm
hứng thế sự, đi vào chuyện đời, chuyện người, phê phán các tệ nạn xã hội, sự
suy thoái về mặt đạo đức. Văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ
Nôm đều đạt được nhiều thành tựu. Thơ Nơm, văn chính luận có sự phát triển
tột bậc với nhiều thành tựu lớn qua sáng tác của Nguyễn Trãi. Bên cạnh đó là sự
xuất hiện của văn xi tự sự (Truyền kì mạn lục – Nguyễn Dữ)…
Chặng 3: (đầu TK XVIII - hết nửa đầu TK XIX)
Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Các cuộc khởi
nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà đỉnh cao là khởi nghia Tây Sơn. Vua Quang

Trung lên ngôi. Rồi triều đại Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh khôi phục lại
vương triều phong kiến chuyên chế (1802-1945). Đây được xem là giai đoạn
phát triển tột bậc, rực rỡ nhất của văn học phong kiến Việt Nam. Cảm hứng
xuyên suốt thời kì này là cảm hứng nhân đạo. Văn học giai đoạn này là tiếng nói
địi quyền sống, quyền hạnh phúc, đấu tranh địi giải phóng con người cá nhân.
Thời kì này có sự phát triển mạnh mẽ của những sáng tác văn học viết bằng chữ
Nôm, và sự xuất hiện của nhiều thể loại văn học như tùy bút, tiểu thuyết chương
hồi kí.

8


Chặng 4: (cuối TK XIX): Từ chế độ phong kiến, Việt Nam chuyển sang
chế độ thực dân nửa phong kiến và văn hóa phương Tây bắt đầu ảnh hưởng đến
xã hội Việt Nam. Cảm hứng xuyên suốt của văn học cuối TK XIX là cảm hứng
yêu nước chống giặc ngoại xâm và mang một âm hưởng bi tráng bởi nó ghi lại
một thời khổ nhục nhưng vĩ đại, thất bại nhưng vẫn hiên ngang của dân tộc Việt
Nam. Đặc biệt trong thời kì này có sự xuất hiện của một số tác phẩm văn xuôi
viết bằng chữ Quốc ngữ của Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của đem đến những
đổi mới bước đầu theo hướng hiện đại hóa. Văn thơ chữ Hán và chữ Nơm của
các tác giả Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương đều có những bước
phát triển mạnh mẽ.
b. VỊ ®ặc điểm của văn học trung đại Việt Nam:
b.1 Nội dung: Văn học trung đại còn được gọi bằng những cái tên khác
nhau như văn học thành văn, văn học phong kiến, văn học cổ điển. Phát triển
trong một môi trường xã hội phong kiến với ý thức hệ nho giáo, lực lượng sáng
tác chủ yếu là tầng lớp trí thức, những người có trình độ cao, được đào tạo từ
''cửa Khổng sân Trình'' , chịu ảnh hưởng bởi thi pháp văn chương cổ điển. Văn
học trung đại tồn tại và phát triển trong suốt mười thế kỉ nhưng không bao giờ
tách rời khỏi cảm hứng yêu nước; cảm hứng nhân đạo, thế sự. Tư tưởng nhân

đạo trong văn học trung đại Việt Nam là sự kế thừa của truyền thống tư tưởng
lớn của con người Việt Nam. Điều này được thể hiện một cách đa dạng qua việc
ca ngợi vẻ đẹp con người, đồng cảm với bi kịch con người, đồng tình với ước
mơ, khát vọng của con người, lên án các thế lực bạo tàn. Tư tưởng nhân đạo
được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong nội dung của tác phẩm Truyện Kiều,
đỉnh cao của tư tưởng nhân văn chủ nghĩa.
9


b.2. Đặc điểm nghệ thuật:
+Tính quy phạm và bất quy phạm:
Tính quy phạm là những quy định chặt chẽ trong những phạm vi giới hạn
đã được định sẵn. Biểu hiện ở nhiều đặc điểm. Mục đích sáng tác là phải hướng
tới việc giáo huấn đạo đức. Sáng tác có lúc để tiêu khiển, thù tạc nhưng mục
đích chung của các vị thánh hiền là giáo hóa cuộc đời.''Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ
ngơn trí''.
Ngơn ngữ sáng tác gồm chữ Hán và chữ Nơm nhưng chữ Hán được xem
là chính thống.Tư duy nghệ thuật thì ln cho rằng cái đẹp thuộc vào những
khuôn mẫu định sẵn (xuân hạ thu đông, tùng trúc cúc mai, long li quy phượng,
ngư tiều canh mục). Tuy vậy nhưng chúng ta một mặt tiếp thu những tinh hoa
của văn học Trung Quốc nhưng mặt khác lại cũng khơng ngừng phát triển văn
học của đất nước mình theo xu hướng dân chủ hóa, dân tộc hóa. Do vậy người
Việt Nam đã cố gắng phá vỡ tính quy phạm.
+Tính trang nhã:Văn học trung đại có đề tài hướng tới cái cao cả, trang
trọng, hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ với ngôn ngữ cao quý,
diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ. Dần dần, văn học Việt Nam cũng đã có những nỗ
lực khơng nhỏ để tiếp cận với xu hướng bình dân, gần gũi với đời sống của con
người Việt Nam.
+Yếu tố Hán, văn hóa Hán: Hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc,
chuyện văn chương Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán là không thể

tránh khỏi. Tuy nhiên văn học Việt Nam cũng có ý thức để phá bỏ sự ảnh hưởng
này bằng cách viết bằng chữ Nôm, sử dụng nhiều thể thơ dân tộc (như truyện
thơ ngâm khúc hát nói, lục bát, song thất lục bát) và đưa vào trong thơ văn các
hình ảnh đậm chất Việt.
c. VỊ hình ảnh con người trong văn học:
+. Mối quan hệ với thiên nhiên:
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng bất tận của văn chương. Mây sớm, trăng
khuya, núi non, cỏ cây hoa lá đều in đậm dấu ấn của mình trong văn chương.
10


Con người và thiên nhiên ln có mối quan hệ biện chứng, qua lại tác động lẫn
nhau. Với các tao nhân mặc khách, thiên nhiên là người bạn tri âm. Khơng ít
người đã lánh đời phàm tục, hịa mình vào thiên nhiên, sống thanh đạm để chiêm
nghiệm về vũ trụ, triết lí nhân sinh. Hình ảnh thiên nhiên đã đi vào trong thơ
văn, còn là chuẩn mực của cái đẹp, là thước đo mọi giá trị của tạo vật. Nên văn
học cổ điển tả người cũng phải so sánh với cái chuẩn mực là vũ trụ, thiên nhiên,
đồng thời thiên nhiên thường gắn với lí tưởng, đạo đức thẩm mỹ. Chẳng hạn
nhân cách của người quân tử xưa được ví như tùng, bách, vẻ đẹp của người giai
nhân được ví với liễu mai.
+. Mối quan hệ với quốc gia dân tộc.
Trong văn học trung đại, chủ nghĩa yêu nước thể hiện chủ yếu qua ý thức
sâu sắc về quốc gia dân tộc, truyền thống văn hiến lâu đời. Văn học Việt Nam
ghi lại quá trình lựa chọn, đấu tranh để khẳng định một đạo lí làm người của dân
tộc.Trong những thời điểm lịch sử khác nhau thì con người có những biểu hiện
khác nhau trong ý thức về bản thân. Khi đất nước có chiến tranh hay những cuộc
cải tạo thiên nhiên thì con người thường đề cao ý thức cộng đồng hơn là ý thức
cá nhân. Họ hi sinh cái tơi cá nhân vì cộng đồng, vì Tổ quốc. Cịn trong thời
bình, con người cá nhân được đề cao, họ có ý thức sâu sắc về quyền sống của cá
nhân.

Tóm lại: Nền văn học trung đại tuy có nhiều chuyển biến qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau gắn liền với quá trình dựng nước, giữ nước và đổi thay
về ý thức của con người nhng dù có biến chuyển thế nào, văn học thời kì này
vẫn bị chi phối bởi một quan niệm thẩm mĩ chung thể hiện qua một hệ thống thi
pháp tương ứng (nằm trong vùng ảnh hởng của tư tưởng Nho, Phật, Đạo và văn
học Trung Hoa). Văn học Việt Nam thời trung đại đã kết tinh nghệ thuật ở phạm
vi văn vần hơn văn xuôi. Bút pháp thiên vào lối chấm phá, điểm nhãn, gợi nhiều
hơn tả trong nghệ thuật. Các tác giả văn học trung đại, đặc biệt là các tác giả tài
năng, vừa tuân thủ vừa phá vỡ tính qui phạm, phát huy cá tính sáng tạo trong
sáng tác.
Văn học trung đại có đặc thù riêng như vậy nên khi tìm hiểu về nền văn
học này là chúng ta giúp học sinh tìm về thế giới của người xưa, giúp các em
bồi dưỡng nhân cách, biết yêu quý các giá trị phi vật thể, yêu quê hương, yêu đất
nước, yêu gia đình và tự hào dân tộc, có lý tưởng XHCN, lịng khoan dung, ý
thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, trí tiến thủ lập nghiệp khơng cam
chịu nghèo nàn. Dạy văn học trung đại, giúp học sinh nắm được các giá trị nhân
văn và nghệ thuật của tác phẩm văn học.
Nắm vững những đặc trưng cơ bản này của văn học trung đại Việt Nam là
chìa khố quan trọng để mỗi giáo viên chủ động trong giảng dạy phần chương
trình quan trọng này.
2.2. Chuẩn bị tâm thế cho học sinh
11


Nhân đà phấn khởi vào năm học mới, lên lớp cuối cấp, tôi động viên các
em sẵn sàng, náo nức bước vào một thế giới văn chương đầy bí ẩn và hấp dẫn,
nhưng cũng đầy khó khăn thử thách địi hỏi các "anh cả, chị cả " không sợ mỏi
gối chùn chân. Việc làm này thuộc phạm trù công tác tư tưởng vừa phải làm
trước và trong suốt quá trình giảng dạy. Đây là việc rất cần thiết, không làm cho
học sinh quyết tâm và hứng khởi như trước khi vào một trận đánh gian nan thì sẽ

hạn chế thắng lợi.
Làm thế nào để học sinh hăm hở và biết cách học ? Đó
là nghệ thuật của mỗi giáo viên trước đối tượng cụ thể của mình. Riêng tơi, đối
tượng chủ yếu là học sinh nông thôn, sách tham khảo ít, cha mẹ không giàu tri
thức văn học cổ. Trước khi dạy một bài cụ thể, giáo viên cần yêu cầu học sinh
chuẩn bị bài đầy đủ. Điều này tạo tâm thế giúp các em tự tin trước bài học. Ví
dụ, khi dạy những trích đoạn trong Truyện Kiều, giáo viên u cầu cụ thể như
sau:
Bíc 1: Củng cố ơn tập kiến thức đã học và kiền thức trước đó qua các
đoạn trích; Chị em Thúy Kiều…. ơn lại tóm tắt tác phẩm…. Kiều trải qua nhiều
đoạn trường, tình huống éo le, Kiều có tâm trạng khác biệt.
Bíc 2: Tìm hiểu xuất xứ đoạn trích đã học. Chủ yếu tìm hiểu đoạn đời
và tâm trạng trước đó.Trước khi phân tích mỗi đoạn cần giúp cho học sinh nắm
được vị trí đoạn thơ trích trong tác phẩm. Việc này chẳng những cần thiết cho sự
tìm hiểu đoạn trích mà cịn giúp cho học sinh nắm vững cốt truyện. Các đoạn
giảng dược sắp xếp theo trình tự trước sau trong tác phẩm, riêng đoạn “ Mã
Giám Sinh mua Kiều” trước đây xếp vào loại bài độc thêm nên có sự đảo , có
liên quan trực tiếp đến đoạn trích, cũng cần nhắc lại để học sinh nắm được. Từ
đó mới có thể hiểu đúng các chi tiết của đoạn trích ( ví dụ: Tình cảm của Kiều ở
nhà bà Tú Bà trước khi đưa ra lầu Ngưng Bích, những sự kiện về mối quan hệ
giữa Thúc Sinh, Thúy Kiều, Hoạn Thư liên quan đến màn báo ân, báo ốn ).
Bíc 3: Rèn luyện phương pháp đọc hiĨu văn b¶n cho học sinh.
Vấn đề này liên quan đến nhiệm vụ giảng dạy môn Văn trong nhà trường.
Để đạt được mục tiêu giảng dạy, nhiệm vụ của môn Văn, cụ thể là của người
giáo viên văn học, ngoài việc cung cấp những tri thức cơ bản cần phải giúp học
sinh có được kỹ năng, năng lực và phương pháp tự học tốt nhất. Muốn vậy,
trước hết, cần hướng dẫn để học sinh nắm được phương pháp đọc hiểu và sử
dụng nó một cách hiệu quả trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đọc văn chương là quá trình thâm nhập và tháo gỡ mã của các kí hiệu văn
chương trong văn bản, là việc tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thơng qua các cấu

trúc của văn bản, là quá trình phát hiện và sáng tạo …
Yêu cầu học sinh đọc diễn cảm đoạn trích hoặc diễn xi đoạn trích. Đọc
diễn cảm là một trong những kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh. Nhưng nếu xét
về đặc trưng của bộ mơn Văn thì đọc diễn cảm được coi là một phương pháp
phân tích bài văn. Đọc đúng, đọc diễn cảm là công việc để học sinh bước đầu
12


càm thụ bài văn về mặt cảm tính, làm chiếc cầu nối cho việc ®i sâu vào bản
chất của hình tượng văn học. Ví dụ như : Kiều ở lầu Ngưng Bích yêu cầu cách
đäc như sau: Đây là đoạn truyện thơ đậm màu sắc trữ tình, đọc với giọng đọc
biểu lộ nội tâm của nàng Kiều, lúc thì buồn bã đau xót, lúc thì nhớ nhung da
diết, lúc thì buồn cơ đơn đến rợn ngợp, lúc thì hoảng hốt sợ hải, vô vọng…Đối
với giáo viên, hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm rồi đọc mẫu chính là bước đầu
cảm thụ bài văn ở giai đoạn trực quan sinh động, gây dạng khêu gợi tưởng
tượng, óc liên tưởng, cảm xúc, rt cn thit cho vic cm th v sau.

2.3. Định hớng của giáo viên
a. V phng phỏp
Trong nh trng, tỏc phẩm văn học đến với học sinh không phải bằng
con đường tự do lựa chọn như đối với bạn đọc ngoài đời. Do đặc điểm tâm lý
lứa tuổi, học sinh là những bạn đọc còn hạn chế vể vốn sống, kinh nghiệm thực
tiễn nhưng lại có khả năng rung động và có xúc cảm đặc biệt với tác phẩm văn
học. Vì vậy, vai trị của người giáo viên văn học là phải bổ sung, bồi dưỡng vốn
sống, phát triển các năng lực cảm thụ cho học sinh và hướng dẫn họ đến với tác
phẩm văn học một cách đúng nhất, gần nhất. Để làm được nhiệm vụ cao quí và
nặng nề này, người giáo viên cần có những phương pháp thích hợp, đồng thời
phải biết cách sử dụng, phối hợp các phương pháp phân tích tác phẩm một cách
nhuần nhuyễn nhất, nhằm giúp học sinh vừa nắm bắt tri thức, vừa nắm bắt
phương pháp học tập, nghiên cứu.

b. X©y dùng hệ thống câu hỏi trong giảng dạy

13


Xây dựng một hệ thống cõu hỏi phù hợp để tỡm hiểu tỏc phẩm theo đặc
trưng thể loại của văn học trung đại (phần chuẩn bị bài của học sinh và quỏ
trỡnh định hướng phõn tớch tỏc phẩm của giáo viên) cũng là một giải phỏp tốt .
c. ChuÈn bÞ bài giảng
Chun b bi ging chu ỏo theo tụi ú là một khâu vô cùng quan trọng
quyết định rất lớn đến thành công của một bài dạy. Một giáo viên dù giỏi đến
mấy thì khi dạy một bài cũng cần phải chuẩn bị bài chu đáo. Như vậy khi dạy
giáo viên sẽ làm chủ được kiến thức, làm chủ được bài dạy khơng bị cuống, hay
bị “bí” khi giảng, khơng bị cuốn theo học sinh để làm ảnh hưởng đến kết quả
giờ dạy.
Vậy thế nào là một bài dạy được xem là chuẩn bị chu đáo? Theo tơi đó là
một giờ dạy mà người giáo viên đầu tư thời gian trí tuệ vào việc soạn bài. Từ hệ
thống câu hỏi phải hợp lí đến việc chuẩn bị những lời bình, lời chuyển ý, lựa
chọn phương pháp dạy phù hợp, những thông tin liên quan đến giờ dạy…điều
này đã được chứng minh qua thực tế giảng dạy của chính bản thân t«i cũng như
khi dự giờ của đồng nghiệp. Chuẩn bị bài dạy chu đáo là giáo viên đã tôn trọng
người học cũng như tơn trọng chính bản thân mình.

14


Một tác phẩm văn học sống mãi với thời gian và hấp dẫn với người đọc
qua nhiều thế hệ là một tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật Như vậy
tác phẩm văn học bao giờ cũng có hai giá trị (giá trị nội dung tư tưởng và giá trị
hình thức). Hình thức nghệ thuật chuyển tải những giá trị nội dung tác phẩm.

15


Hình thức nghệ thuật càng sinh động, độc đáo, hấp dẫn càng làm tăng giá trị nội
dung.
Hiểu và nắm được những yêu cầu trên đây thì việc thực hiện tìm hiểu
khám phá tác phẩm mới đầy đủ, sâu sắc và tồn diện.
Cụ thể: Một trong những đặc điểm của ngơn ngữ Truyện Kiều là sử dụng
rộng rãi cách nói ước lệ, sử dụng nhiều ẩn dụ, tượng trưng, nhiều điển cố, điển
tích. Trong quan niệm của thêi Trung đại thì đĩều đó chứng tỏ sự uyên bác, điêu
luyện của tác giả. Nhưng với người đọc ngày nay thì đây là một khó khăn, thậm
chí là một rào cản khi tiếp nhận tác phẩm cổ điển - sự ngăn cách không chỉ ở
phạm vi ngơn từ mà cịn là cơ tầng văn hóa. Khai thác các chi tiết nghệ thuật
miêu tả tâm trạng nhân vật Thuý Kiều thể hiện tài năng của Nguyễn Du. Đó là
giảng từ ngữ, phân tích sắc thái ý nghĩa tính biểu cảm của từ ngữ, đưa đến cảm
hiểu được tâm trạng của nhân vật. VÝ dô:
+ Đoạn trích " Chị em Thuý Kiều". Đặt vấn đề: Em hiểu "hai ả tố nga" là
gỡ?
Tố nga: người con gái đẹp (điển tích của Trung Quốc). Chị Hằng Nga (tên
nôm là Thường Nga- vợ của Hậu Nghệ, lấy trộm thuốc trường sinh trốn lên cung
trăng làm 1 tiên nữ. Vì mặt trăng sắc trắng nên gọi là Tố Nga (tố là trắng, nga là
người con gái đẹp)

Hỏi: Câu thơ "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" cho ta biết gì về cách tả của
tác giả?
- Mai cốt cách: cốt cách của mai là hình thì mảnh mai, sắc thì rực rỡ,
hương thì tao nhã => gợi tả vẻ đẹp cốt cách thanh cao như mai (mai là một loài
hoa đẹp và quý).
16



- Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết là trắng trong, tinh khiết, thanh sạch
=> gợi tả vẻ đẹp tâm hồn trinh trắng như tuyết.
Hai câu sau vừa là nhận xét khái quát vẻ đẹp của mỗi người vừa là cách tả
cốt chỉ biểu hiện cho được cái hồn, cái tinh thần của vẻ đẹp chứ không đi sâu
vào tỉ mỉ. một cái nhìn phát hiện đầy trân trọng cđa Nguyễn Du.
Hỏi: Trong bốn câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ
thuật gì?
BiƯn ph¸p ước lệ quen thuộc trong văn học cổ: Sử dụng những quy ước
trong biểu hiện như dùng hình tượng thiên nhiên đẹp: trăng, hoa, ngọc, tuyết…
để nói về vẻ đẹp của con người.
Hỏi : Qua những chi tiết miêu tả đó, ta hiểu gì về thái độ của tác giả đối
với hai nhân vật này?
- Đọc 4 câu thơ gợi tả vẻ đẹp của Thuý Vân
? Ở câu thơ đầu, tác giả vừa giới thiệu vừa khái quát vẻ đẹp của Vân, em
hiểu từ "trang trọng"gợi tả vẻ đẹp ntn?
? Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được tác giả ngầm so
sánh với những hình ảnh thiên nhiên nào ở 3 câu thơ tiếp theo?
? Những từ ngữ nào đáng chú ý trong bức chân dung này? (các từ "đầy
đặn, nở nang, đoan trang"gợi tả vẻ đẹp Vân ntn?
(Theo "cổ thư tướng"thì những người "diện như mãn nguyệt, thanh tú
thần thái xạ"tức là mặt như trăng rằm, tinh thần rực rỡ thì trai là tướng cơng hầu,
gái tướng hậu phi, phu nhân)
- Vẻ đẹp trên kết hợp với những từ "thua, nhường"trong câu thơ "Mây
thua nước tóc, tuyết nhường màu da"là những tín hiệu nghƯ tht có tác
dụng gợi tả số phận Thúy Vân? (Thiên nhiên phải thua nhường, tạo hoá cũng
phải nhường bước cho nàng đi trong cuộc đời... )
? Ngun Du đã sử dụng thủ pháp nghƯ tht gì trong khi miêu tả
V©n? Qua đó em hình dung vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của Thúy Vân như thế
nào?

* NT: Vẫn là bút pháp ước lệ tượng trưng với những hình ản so sánh, ẩn
dụ quen thuộc, nhưng khi tả Vân, ngịi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể
hơn lúc tả Kiều.
? Hai câu đầu có tác dụng gì? Nếu dùng 4 tiếng khái qt để so sắc đẹp
của hai chị em thì là những từ gì?
17


- Hai câu đầu, tác giả không chỉ chuyển tranh từ cơ em sang cơ chị mà đã
có ý so sánh rất rõ. Nếu vẻ đẹp của Vân là "đoan trang hiền hậu" thì vẻ đẹp của
Kiều lại là: "Kiều càng sắc sảo, mặn mà". Nàng khơng chỉ có sắc mà cịn có tài,
tài sắc vẹn tồn, hơn hẳn Thúy Vân .
? 4 câu tiếp là tả nhan sắc Thúy Kiều. So với cách tả Thúy Vân, có điểm
gì giống, khác? Em có thể hình dung cụ thể từng bộ phận khuôn mặt nàng Kiều
như đối với nàng Vân không?
+ Để làm nổi bật vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà, tác giả đã miêu tả Kiều như thế
nào? Tập trung đặc tả những chi tiết nào?
+ Tại sao khi hoạ bức chân dung Kiều, tác giả lại tập trung gợi tả vẻ đẹp
của đôi mắt?
- Bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc
sảo của trí tuệ, cái "mặn mà"của tâm hồn đều liên quan tới đôi mắt...
? Nhận xét về ngh thut miờu t v p Thuý Kiu? Vẻ đẹp ấy gợi dự
cảm về một tơng lai nh thế nào sÏ ®Õn víi KiỊu?
- So với chân dung cơ em gái Thúy Vân, chân dung Thuý Kiều càng trở
nên trìu tượng hơn. Người đọc tha hồ tưởng tượng vẻ đẹp ấy theo ý mình khi
nhà thơ chỉ vờn lên ánh mắt, dáng mày vẻ tươi thắm của mái tóc, làn da hay
dáng người. Đẹp như Kiều là phi thường, là tuyệt thế giai nhân, là độc nhất vô
nhị trên đời không ai sánh bằng. Vẻ đẹp của Kiều không tạo sự hài hòa êm đềm
giữa con người với tự nhiên mà đến mức làm thiên nhiên, tạo hóa đố kị, ghen
ghét: hoa ghen, liễu hờn. Và vì thế hồng nhan đa truân, hồng nhan bạc mệnh,

như người xưa đã tổng kết. Cuộc đời Kiều chắc hẳn sẽ phải chịu nhiều bất hạnh,
khốn khổ.
- Khác với Thuý V©n, tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc mà không thể hiện
cái tài, cái tình của nàng. Thế nhưng khi tả KiỊu, nhà thơ tả sắc một phần, còn
dành đến hai phần để tả tài năng.
? Kiều có những tài gì? Tài năng ca ấy đợc miêu tả bng nhng t
ng no?
+ Cung thương lầu bậc ngũ âm ( Thuý Kiều biết đủ mùi, thuộc lầu 5 cung
bậc nhạc cổ : cung, thương, giốc, chuỷ, vũ -> Tinh thông âm nhạc-> Chơi đàn hồ
cầm trở thành ngón nghề. Tiếng đàn khiến người tri kỉ Kim Träng ngồi đó mà
"ngơ ngẩn lịng", khiến "kẻ mặt sắt"cũng phải "nhăn mày, rơi châu")
- Tài thơ: "pha nghề thi hoạ"tức là chỉ là tài thêm, không phải là sở
trường chính vậy mà sau này nằm mộng làm thơ được Đạm Tiên khen:
"Ví đem vào tập đoạn trường
18


Thì đem giải nhất chi nhường cho ai"
- Từ ngữ mang giá trị tuyệt đối hết lời ngợi ca nhân vật. Ca ngợi tài năng
của Kiều toàn vẹn, tột bậc. Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm
thẩm mĩ phong kiến. Lời thơ không đơn giản là lời giới thiệu mà cịn là lời tung
hơ, đề cao nhân vật. Chứng tỏ Ngun Duđã dành một tình cảm ưu ái đặc biệt
cho nhân vật.
- Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hoá phải ghét, ghen, các vẻ đẹp khác phải
đố kị, "hoa ghen, liễu hờn". Tài năng tột bậc của Kiều cũng khiến người ta
chạnh lòng..(tài đành hoạ hai). Và chính tâm hồn đa sầu đa cảm của nàng được
thể hiện trong cung đàn bạc mệnh cũng là một dự cảm về đoạn trường của Thuý
Kiều sau này.
? Như vậy từ những tìm hiểu về hai nhân vật, ta thấy trong hai bức chân
dung Thuý Kiều và Thúy Vân, em thấy bức chân dung nào nổi bật hơn?

? Tại sao tác giả lại tả Thúy Vân trước, tả Thuý Kiều sau?
+ Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích: Tồn bộ đoạn trích là tâm trạng, tâm
trạng đó mở ra từ xa đến gần ,từ ngoại cảnh đến nợi tâm diễn ra hợp lơ-gic .Trời
đất càng bao la thì con người càng cô đơn, bẽ bàng; Cảnh đẹp nhưng lịng người
buồn vơ hạn. Để cho nhân vật đối diện với thời gian, với không gian “ Chân
mây, cửa biển, thuyền, ngọn cỏ, ngọn nước, hoa trôi, bèo dạt…” Tất cả các chi
tiết ấy vừa thực vừa ảo ảnh, là sắp tàn; Mỗi cảnh là một nỗi buồn thê lương. …
Sau đó giáo viên chốt lại mạch cảm xúc: Tồn bộ đoạn thơ là bức tranh tâm
trạng nhiều vẻ của nàng Kiều trong những tháng ngày sống ở lầu Ngưng Bíchkhi thì cơ đơn, buồn tủi, lúc thì nhớ nhung đau xót, lúc thì buồn bả lo sợ, hãi
hùng… được Nguyễn Du miêu tả hết sức tinh tế, chính xác. Nguyễn Du - một
tấm lịng thương đời, thương người vơ hạn. Ông như nhập vào nhân vật cho nên
mới miêu tả những vần thơ thống thiết; Nêu được suy nghĩ trăn trở, những cảm
xúc, tâm trạng trước hoàn cảnh éo le này. Tài năng của Nguyễn Du trong việc
diễn tả tâm trạng nhân vật phong phú,đa dạng chứng tỏ Nguyễn Du biết đặt nhân
vật vào tình huống mới; khơng có tâm trạng nào giống tâm trạng nào.
Bên cạnh đó tác giả làm sống dậy hình tượng nghệ thuật giúp người học
như được chứng kiến được nhập thân trong đó , có thể cảm và hiểu được cuộc
sống, con người trong tác phẩm cung vui, cùng buồn với con người, cảnh vt
trong tỏc phm. Từ đó, khơi gợi trong tâm hồn học sinh những
tình cảm yêu thơng và biết đồng cảm.
Mt tác phẩm văn học sống mãi với thời gian và hấp dẫn với người đọc
qua nhiều thế hệ là một tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật. Như vậy
tác phẩm văn học bao giờ cũng có hai giá trị (giá trị nội dung tư tưởng và giá trị
hình thức). Hình thức nghệ thuật chuyển tải những giá trị nội dung tác phẩm.

19


Hình thức nghệ thuật càng sinh động, độc đáo, hấp dẫn càng làm tăng giá trị nội
dung.

Tóm lại: Văn học cổ giống như một tảng băng trơi , có phần nổi , có phần
chìm . Phần nổi học sinh có thể tự cảm nhận được , phần chìm rất lớn kia tuỳ
theo tình hình mà giáo viên hướng dẫn để các em hiểu được một cách trọn vẹn
nhất.Trong quá trình tìm hiểu văn bản, phải hướng học sinh đặt tác phẩm vào
hoàn cảnh xã hội, bám sát đặc trưng giai đoạn văn học cùng kế hợp nhuần
nhuyễn các phương pháp dạy học tích cực là mấu chốt của thành cơng.Tuy nhiên
cần lưu ý "bệnh" tham kiến thức văn chương của giáo viên. Kiềm chế được
"lịng tham"này khơng dễ , nó đòi hỏi người thầy phải rất bản lĩnh, biết chọn
điểm giảng , biết định điểm dừng .

2.4. Tổ chức hoạt động ngoại khố văn học
Các hình thức của hoạt động ngoại khóa và khả năng giáo dục của nó là
điều khơng ai phủ nhận. Do đó, cần sớm có kế hoạch áp dụng hình thức này vào
quá trình dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông. Thông qua
hoạt động ngoại khóa văn học, học sinh được phát triển cân đối về trí tuệ, đạo
đức, thể dục và thm m.
Vi cỏc tỏc phm thuộc văn học trung đại, có thể tổ chức thuyết
trình, đọc và giới thiệu các tác phẩm của cùng một tác giả hoặc của một số tác
giả khác cùng giai đoạn văn học. Cũng có thể tổ chức cho học sinh làm báo
tường, tham quan, xem phim tài liệu, …
Tôi thường dành một buổi ngoại khố để nói chuyện cho các em thấy ý
nghĩa của việc học văn học cổ và cách học nói chung. Đương nhiên đã là cơng
tác tư tưởng thì khơng chỉ làm một lần mà phải thường xuyên đắp bồi , cuốn hút
qua từng bài giảng thành cơng của mình .

20


Tuỳ theo kết cả ngoai khố mà trình độ học sinh mà xác định một kế
hoạch ngoại khoá phù hợp . Không nhất thiết phải mời học giả này, nhà văn nọ .

Tôi thường tổ chức các cuộc thảo luận nho nhỏ ở một khơng gian thích hợp ở
địa phương giữa thầy và trò. Thầy nêu vấn đề , học trị trả lời hoặc một học sinh
trình bày , bạn bè cùng trao đổi. ..
Vấn đề tuy nhỏ nhưng phần chuẩn bị của thầy lại không nhỏ . Trước hết
giáo viên cần xây dựng một đội ngũ các em nhiệt tình , tin cậy và có năng lực ,
các em này sẽ là người đọc trước những tài liệu tham khảo mà thầy cung cấp
hoặc hướng dẫn sưu tầm , cán sự bộ môn vừa là hạt nhân vừa là cầu nối . Đội
ngũ này không cần nhiều , chỉ cần độ 4-5 em cho một lớp là đủ .
Giờ ngoại khố của tơi khơng có gì là to tát , nhưng đạt được 2 yêu cầu :
+ Bổ sung kiến thức
+ Gây hứng thú cho học sinh .
Đương nhiên nơi nào có điều kiện tổ chức rộng lớn hơn , nội dung phong
phú hơn thì cịn gì bằng. Có thể cho học sinh viết bài thu hoạch tuỳ theo nội
dung để nắm bắt lượng kiến thức các em đã thu nhận cùng kĩ năng làm bài.
Ngoại khố khơng nhất thiết phải là đồ sộ , cầu kỳ , trông chờ ở bên ngoài , bên
trên...

21


2.5. Tích hợp kiến thức.
Tích hợp kiến thức một cách hợp lí để khắc sâu và khái quát kiến thức cho
học sinh sau khi học xong các bài. Hệ thống câu hỏi để tích hợp có thể dùng để
kiểm tra 15 phút, kiểm tra miệng, hoặc làm bài thu hoạch sau giờ ngoại khóa.
Đây khơng chỉ đơn thuần là tích hợp về nội dung mà là về cả kĩ năng làm bài
của học sinh.
Ví dụ:
? So sánh số phận của Vũ Nương và Thuý Kiều?
? Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, chi tiết cái bóng có ý nghĩa
gì trong cách kể chuyện?.

" Cái bóng" trong câu chuyện có ý nghĩa đặc biệt vì đây là chi tiết tạo nên
cách thắt nút, mở nút hết sức bất ngờ.
• Đối với Vũ Nương: Trong những ngày chồng đi xa, vì thương nhớ
chồng, vì khơng muốn con nhỏ thiếu vắng bóng người cha nên hàng đêm, Vũ
Nương đã chỉ bóng mình trên tường, nói dối con đó là cha nó. Lời nói dối của
Vũ Nương với mục đích hồn tồn tốt đẹp.
• Đối với bé Đản: Mới 3 tuổi, còn ngây thơ, chưa hiểu hết những điều
phức tạp nên đã tin là có một người cha đêm nào cũng đến, mẹ đi cũng đi, mẹ
ngồi cũng ngồi, nhưng nín thin thít và khơng bao giờ bế nó.

22


• Đối với Trương Sinh: Lời nói của bé Đản về người cha khác (chính là
cái bóng) đã làm nảy sinh sự nghi ngờ vợ không thuỷ chung, nảy sinh thái độ
ghen tng và lấy đó làm bằng chứng để về nhà mắng nhiếc, đánh đuổi
Vũ Nương đi để Vũ Nương phải tìm đến cái chết đầy oan ức.
Cái bóng cũng là chi tiết mở nút câu chuyện. Chàng Trương sau này hiểu
ra nỗi oan của vợ cũng chính là nhờ cái bóng của chàng trên tường được bé Đản
gọi là cha. Bao nhiêu nghi ngờ, oan ức của Vũ Nương đều được hố giải nhờ cái
bóng.
- Chính cách thắt, mở nút câu chuyện bằng chi tiết cái bóng đã làm cho
cái chết của Vũ Nương thêm oan ức, giá trị tố cáo đối với xã hội phong kiến
nam quyền đầy bất công với người phụ nữ càng thêm sâu sắc hơn.
? Bằng những hiểu biết của em về “Truyện Kiều”, hãy trình bày về nghệ
thuật miêu tả và khắc hoạ tính cách nhân vật của Nguyễn Du?
? Thế nào là tả cảnh ngụ tình? Hãy phân tích một đoạn thơ tả cảnh ngụ
tình mà em thích nhất trong Truyện Kiều?
? Thế nào là bút pháp ước lệ? Thành công của Nguyễn Du khi dùng
những hình ảnh ước lệ để miêu tả nhân vật chính diện?

? So sánh cách kể của Truyện Kiều với Lục Vân Tiên ?
? Em hiểu gì về xã hội phong kiến và giai cấp thống trị Việt Nam qua
những văn bản đã học?...
Việc tích hợp khơng chỉ hệ thống hố kiến thức mà cịn giúp các em hiểu
biết có hệ thống về con người, xã hội và quan điểm, ứng xử thời đó. Từ đó, tạo
nền tảng để các em có thể hiểu và cảm thụ sâu sắc hơn để có thể tiếp tục học tốt
hơn phần văn học trung đại được giảng dạy ở cấp THCS.
2.6. Tiếp cận văn học trung đại gắn với bối cảnh
Để tiếp cận và phân tích tác phẩm văn học trung đại đạt hiệu quả tương
đối, khi giảng dạy các tác phẩm văn chương trung đại, giáo viên phải dựng lại
được khơng khí văn hóa, lịch sử của thời đại, phải tạo được sự đồng cảm về văn
hóa, văn học.
Giáo viên phải giúp cho học sinh tái hiện cách cảm, cách nghĩ của người
xưa. Đặc biệt tác phẩm phải được đặt trong hoàn cảnh lịch sử ra đời của nó, bởi
lẽ sáng tạo văn học thường bắt nguồn từ một yếu tố có thực nào đó trong lịch sử
ở một thời kỳ, một giai đoạn, một biến cố nào đó.
Do đó, việc tiếp nhận văn học trung đại Việt Nam trung đại nói riêng và
văn học Việt Nam nói chung phải gắn với hoàn cảnh lịch sử của sự ra đời, bởi
23


bất kì một sáng tác nào cũng đều có nguồn gốc sâu xa từ bối cảnh văn hóa, lịch
sử của thời đại.
Việc dạy và học văn học trung đại phải dựa trên thi pháp văn chương
trung đại. Đây sẽ là điều kiện tốt nhất để giúp giáo viên và học sinh có thể tiếp
cận, hiểu và phân tích tác phẩm văn chương một cách thấu đáo nhất.
Do đó, trong quá trình hướng dẫn học sinh giỏi học, giáo viên cần hướng
cho các em bám sát đặc trưng thi pháp để chiếm lĩnh tác phẩm.
Bên cạnh đó vấn đề đặt ra trong việc dạy học văn không chỉ là cung cấp
cho học sinh những tri thức về con người và cuộc sống trong tác phẩm trung đại

trong quá khứ mà phải đưa tác phẩm ấy trở về với thực tiễn hôm nay, với những
vấn đề nhân sinh mà con người hôm nay đang băn khoăn, trăn trở.
Đối với học sinh giỏi, việc đặt tác phẩm trung đại trong bối cảnh xã hội
hơm nay càng có ý nghĩa quan trọng để các em có thể chủ động tiếp cận nhiều
tác phẩm cùng loại, cùng chủ đề, cùng một phạm trù văn học.
Từ đó các em có thể đối chiếu, so sánh với các tác giả, tác phẩm trong văn
học hiện đại làm phong phú kiến thức văn học cho riêng mình.
Chương 4: Kết quả hoặc hiệu quả sáng kiến:
1. Hiệu quả của sáng kiến:
Với những suy nghĩ và định hướng , tôi đã áp dụng vào cơng tác giảng
dạy của mình. Sau khi học sinh đã tìm hiểu hết các tác phẩm được chọn học, tôi
kiểm tra 1 tiết phần văn học trung đại.
? Em có cảm nhận gì về thân phận người phụ nữ xưa qua nhân vật Vũ
nương và Thuý Kiều?
? Đặc sắc về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu cuối
đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích?
2.Kết quả cụ thể như sau:
Lớp
9/2
9/3

Sĩ số
45
45

Giỏi
6
10

Khá

16
18

Trung bình
19
14

Yếu
4
3

Với kết quả như trên, tơi thấy mình bước đầu đã thành công với định
hướng trong công tác giảng dạy phần văn học trung đại- phần nội dung vốn
không dễ dàng với học sinh THCS.
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận:
24


×