Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.91 KB, 30 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO
KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC
1.1 Trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu” là một tính từ để chỉ sự quan trọng
thiết yếu. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu lại có một ý nghĩa cụ thể.
Trong Kế toán, trọng yếu là một trong những nguyên tắc kế toán chung
được chấp nhận rộng rãi. Kế toán chỉ nên quan tâm, chú trọng đến những vấn đề
có ảnh hưởng đến tính chính xác của báo cáo tài chính, ảnh hưởng đến quyết
định kinh tế của người sử dụng BCTC, còn những khoản mục không quan
trọng, không ảnh hưởng trọng yếu đến tính chính xác của báo cáo tài chính thì
kế toán có thể toàn quyền xử lý theo cách thức tiện nhất cho công tác kế toán.
Trong lĩnh vực kiểm toán BCTC, trọng yếu là một khái niệm thường
xuyên nhắc tới. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) về “Tính
trọng yếu trong kiểm toán” thì “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai
sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng
BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay
sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì
thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thông
tin hữu ích cần phải có”
Theo Văn bản chỉ đạo Kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) do Liên đoàn kế toán
quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố thì: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất
của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc đơn lẻ, hoặc từng nhóm, mà trong
bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc
là sẽ rút ra kết luận sai lầm.”
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm
toán” thì trọng yếu được định nghĩa như sau: “Thông tin được coi là trọng yếu
có nghĩa là nếu thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết
định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm
quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn
cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là


nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu phải xét trên cả phương diện
định lượng và định tính”
Như vậy, trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay độ lớn) và bản chất của
các sai phạm kể cả bỏ sót của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là từng
nhóm nếu xét trong một bối cảnh cụ thể, những sai phạm đó làm cho người sử
dụng BCTC đưa ra các quyết định sai lầm hoặc hiểu sai bản chất vấn đề.
1.1.2 Vai trò của trọng yếu
Tính trọng yếu có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán, thực hiện kiểm toán (thiết kế phương pháp kiểm toán) và giai đoạn
kết thúc kiểm toán
 Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:
Kiểm toán viên đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót có
thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh
hưởng của các sai sót lên BCTC từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi
các thử nghiệm kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 300 (VSA 300) quy định: trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, kiểm toán viên phải “Xác định mức độ
trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán”
Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) quy định: “Khi lập kế
hoạch kiểm toán, chuyên gia kiểm toán phải cân nhắc xem những nhân tố có thể
làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của chuyên gia
kiểm toán về mức độ trọng yếu, liên quan đến các số dư tài khoản cụ thể và các
loại nghiệp vụ giúp họ xác định được khoản mục nào cần kiểm tra và nên sử
dụng phương pháp chọn mẫu hay áp dụng các thủ tục phân tích. Điều này giúp
chuyên gia kiểm toán lựa chọn những thủ tục kiểm toán; kết hợp những thủ tục
kiểm toán đó lại với nhau có thể sẽ giảm được rủi ro kiểm toán tới một mức độ
có thể chấp nhận được”
 Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán
Dựa vào đánh giá mức trọng yếu và mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro,
kiểm toán viên sẽ lựa chọn các phương pháp kiểm toán thích hợp (tăng cường

thử nghiệm cơ bản hay thử nghiệm kiểm soát…) đồng thời cũng có thể thay đổi
phương pháp kiểm toán nếu có sự thay đổi trong đánh giá mức trọng yếu.
 Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán
Kiểm toán viên dựa vào mức trọng yếu để xác định mức độ trung thực,
hợp lý của các thông tin trên BCTC và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót đến
BCTC để đưa ra ý kiến cho phù hợp. Nếu kiểm toán viên phát hiện thấy một sai
phạm trọng yếu thì phải đề nghị khách hàng điều chỉnh. Nếu kiểm toán viên cho
là cần thiết mà khách hàng từ chối điều chỉnh thì kiểm toán viên sẽ đưa ra ý
kiến chấp nhận từng phần, ý kiến ngoại trừ hoặc ý kiến trái ngược tuỳ theo mức
độ trọng yếu của sai phạm. Vì vậy, kiểm toán viên cần phải có sự hiểu biết về
tính trọng yếu và thực hiện đánh giá trọng yếu một cách đầy đủ.
1.1.3 Quy mô và bản chất của khoản mục nghiệp vụ trong mối quan hệ với
trọng yếu
Việc đánh giá trọng yếu là một công việc mang tính xét đoán nghề nghiệp
của kiểm toán viên. Hơn nữa, trọng yếu là một khái niệm tương đối và gắn liền
quy mô của khách hàng. Một sai phạm là trọng yếu với công ty này nhưng có
thể là không trọng yếu với công ty khác. Do đó, để đánh giá một khoản mục,
nghiệp vụ là trọng yếu hay không, kiểm toán viên cần xem xét trên cả hai mặt
định tính và định lượng của những sai phạm hay nói cách khác, cần xem xét cả
quy mô và bản chất nghiệp vụ trong quan hệ với tính trọng yếu
1.1.3.1 Quy mô trong mối quan hệ với trọng yếu
Quy mô của sai phạm đối với một khoản mục hay nghiệp vụ là một nhân
tố quan trọng để xem xét sai phạm đó có trọng yếu hay không. Các chỉ tiêu
thường được dùng làm cơ sở đánh giá tính trọng yếu như: thu nhập trước thuế,
tổng tài sản, doanh thu, tài sản lưu động, nợ ngắn hạn… Trong các chỉ tiêu đó
thì chỉ tiêu thu nhập trước thuế thường là quan trọng nhất vì nó được xem như
một khoản mục thông tin then chốt nhất đối với người sử dụng BCTC.
Ta xem xét hai mức độ khác nhau về quy mô của khoản mục, nghiệp vụ
là quy mô nhỏ và quy mô lớn để thấy được mối quan hệ giữa quy mô và tính
trọng yếu.

a. Quy mô nhỏ
Một khoản mục, nghiệp vụ sai phạm với quy mô nhỏ trong báo cáo tài
chính thì thường được coi là không trọng yếu bởi vì việc phản ánh đúng hay sai
khoản mục, nghiệp vụ này cũng không ảnh hưởng đến quy mô chung trên
BCTC và không ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng.
Tuy nhiên, khi xem xét các sai phạm không nên xem xét nó một cách cô
lập vì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ nhưng nếu kiểm toán viên cộng
dồn các sai phạm thì sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của các sai
phạm từ đó phát hiện ra tính trọng yếu của chúng.
Xét trên phương diện quy mô của nghiệp vụ, khoản mục để đánh giá tính
trọng yếu cần phải liên hệ với quy mô của doanh nghiệp. Ví dụ một khoản mục
có quy mô 5.000.000 VND có thể được đánh giá là không trọng yếu khi tổng tài
sản là 10.000.000.000 VND nhưng có thể được đánh giá là trọng yếu khi tổng
tài sản là 10.000.000 VND. Hoặc khoản mục nguyên vật liệu phụ có thể không
trọng yếu trong sản xuất dầu nhưng lại là trọng yếu trong sản xuất thuỷ tinh,
gốm sứ,…
b. Quy mô lớn
Các khoản mục có quy mô lớn thường được đánh giá là trọng yếu vì nó
ảnh hưởng đến nhận thức về thực trạng hoạt động tài chính và từ đó ảnh hưởng
đến các quyết định quản lý kinh tế và các kết luận kiểm toán. Ví dụ khoản mục
tài sản cố định thường có quy mô lớn trong bảng cân đối kế toán do đó chúng
thường được đánh giá là trọng yếu.
Tuy nhiên không phải khoản mục nào có quy mô lớn cũng sẽ ảnh hưởng
trọng yếu tới báo cáo tài chính vì còn phải xem xét mối quan hệ của khoản mục
với đối tượng kiểm toán cũng như mục tiêu kiểm toán. Vì vậy, việc đánh giá
trọng yếu chỉ dựa vào quy mô là không dễ dàng. Trong thực tế để đánh giá
trọng yếu, kiểm toán viên xem xét đánh giá cả về bản chất của khoản mục,
nghiệp vụ
1.1.3.2 Bản chất của khoản mục, nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu
Các khoản mục, nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các

khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các
khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng
a. Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian
lận
Với cùng một quy mô tiền tệ, các gian lận thường được chú trọng hơn sai
sót bởi vì các gian lận thường ảnh hưởng đến tính trung thực và độ tin cậy cảu
Ban Giám đốc và những người có liên quan. Vì vậy, một hành vi gian lận luôn
được coi là trọng yếu bất kể quy mô là lớn hay nhỏ.
Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian
lận bao gồm:
 Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp. Các nghiệp vụ
này chứa đựng gian lận vì trong đấu thầu, việc lựa chọn chủ thầu nhiều khi có
sự móc nối, phối hợp giữa bên giao thầu và bên nhận thầu để thu lợi cho một số
cá nhân..
 Các nghiệp vụ thanh lý tài sản khi tài sản khấu hao hết hoặc chưa khấu hao hết
nhưng không còn sử dụng. Các nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì trong nhiều
trường hợp tài sản vẫn còn tốt và sử dụng được nhưng vẫn đem đi thanh lý với
giá rẻ do ban giám đốc không quản lý chặt chẽ và có sự liên kết giữa người tiến
hành thanh lý và người mua tài sản thanh lý.
 Các nghiệp vụ về tiền mặt: tiền mặt có đặc điểm gọn nhẹ, dễ di chuyển, cất trữ
và có biên độ dao động lớn do đó rất dễ có gian lận phát sinh
 Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: dễ có sự liên kết giữa người mua và
người bán để kiếm lợi cho bản thân
 Các nghiệp vụ bất thường: Đây là các nghiệp vụ xảy ra không thường xuyên,
không có dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít khi xảy ra. Các nghiệp vụ lại có
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, kiểm toán
viên cần xem xét mức độ nghiêm trọng của các nghiệp vụ đó ảnh hưởng đến kết
quả chung của doanh nghiệp
 Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như
bất cứ ai cũng muốn thu lợi cho mình.

 Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách
 Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ mới
sinh. Các nghiệp vụ vào cuối kỳ kế toán thường để điều chỉnh một số chênh
lệch thừa thiếu để kết quả hoạt động kinh doanh được như kế hoạch đã đề ra.
Các nghiệp vụ mới phát sinh thì kiểm toán viên cần đặt câu hỏi tại sao không
phát sinh từ trước đến giờ và liệu kế toán có xử lý đúng chưa và từ đó đi tìm
bằng chứng chứng minh
 Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa
 Các khoản mục vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý chung
b. Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng
 Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch lớn với
các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin liên quan.
 Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán nhưng không cố ý tuy nhiên có thể
dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin
 Các nghiệp vụ, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần
 Các khoản mục nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau: Đối với các
khoản mục, nghiệp vụ có sai sót trong kỳ là nhỏ nhưng nếu không điều chỉnh sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau thì được coi là trọng yếu.
 Các sai sót ảnh hưởng đến lợi nhuận thường được coi là trọng yếu như một
khoản lỗ được báo cáo như là một khoản lãi hoặc ngược lại.
 Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót sẽ gây ra hậu quả liên quan đến nhiều
khảon mục, nghiệp vụ khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến BCTC. Ví dụ hàng
tồn kho bị tính giá sai sẽ ảnh hưởng đến giá vốn hàng bán, lợi nhuận…
 Sự mô tả không đúng đắn, không xác đáng về chính sách kế toán của doanh
nghiệp làm cho người sử dụng BCTC sẽ hiểu sai về bản chất thông tin
1.1.4 Đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính được thực
hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán. Quá trình
này được khái quát qua năm bước và được thể hiện qua sơ đồ 1.1
Bước 1: Ước lượng ban đầu về trọng yếu

Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
Bước 3: Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục
Bước 4: Ước tính sai số kết hợp
- Bước 5: So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về trọng
yếu
Sơ đồ 1.1: Các bước xác định và vận dụng tính trọng yếu
Bước 1 Ước lượng ban đầu về trọng yếu
Bước 2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các
khoản mục
Bước 3 Ước lượng tổng số sai sót trong các khoản mục
Bước 4 Ước tính sai số kết hợp
Bước 5 So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban
đầu về trọng yếu
Trong 5 bước trên, bước 1 và 2 được thực hiện trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán. Bước 3, 4, 5 được tiến hành trong giai đoạn thực hiện kiểm
toán
1.1.4.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán
viên tin rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng
đến các quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin tài chính. Hay nói cách
khác, đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ báo cáo
tài chính
Việc ước lượng ban đầu về trọng yếu giúp kiểm toán viên lập kế hoạch để
thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Nếu các kiểm toán viên ước
lượng mức trọng yếu càng thấp nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên BCTC
càng cao thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu mang tính chất xét đoán nghề
nghiệp của kiểm toán viên. Do đó, ước lượng ban đầu về trọng yếu không cố
định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán viên thấy ước
lượng ban đầu là không phù hợp vì một trong các nhân tố xác định mức ước

lượng này thay đổi.
Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm
toán” đã quy định: “Việc đánh giá của chuyên gia kiểm toán về vấn đề trọng yếu
và rủi ro kiểm toán ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể khác với
thời điểm đánh giá kết quả cuối cùng của các thủ tục kiểm toán. Nguyên nhân
của sự khác nhau này là sự thay đổi tình hình thực tế hoặc sự thay đổi về nhận
biết của chuyên gia sau một thời gian làm kiểm toán”
Mặc dù ước lượng ban đầu về trọng yếu là một xét đoán nghề nghiệp
mang tính chủ quan của kiểm toán viên song trên thực tế, để hỗ trợ cho kiểm
toán viên trong quá trình kiểm toán, các công ty thường có đường lối chỉ đạo
ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thông qua việc hướng dẫn các chỉ tiêu
được chọn làm gốc trong từng trường hợp cụ thể, tỷ lệ tính mức trọng yếu với
từng chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này phải là các chỉ tiêu có tính ổn định qua các năm.
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thường được áp dụng tại các công ty
kiểm toán quốc tế như sau:
 Từ 5% - 10% đối với lợi nhuận trước thuế
 Từ 0.5% - 1% đối với doanh thu
 Từ 2% - 4% hoặc từ 3% - 6% đối với tài sản lưu động hoặc nợ ngắn hạn
 Từ 1% - 2% đối với tổng tài sản
 ….
1.1.4.2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC
Sau khi kiểm toán viên đã có ước lượng ban đầu về trọng yếu cho toàn bộ
báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phân bổ ước lượng này cho từng khoản
mục trên báo cáo tài chính. Đây chính là sai số có thể chấp nhận được đối với
từng khoản mục
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục nhằm
mục đích giúp kiểm toán viên xác định số lượng bằng chứng kiểm toán thích
hợp cần phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất mà vẫn
đảm bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC không vượt quá mức ước lượng ban
đầu về trọng yếu

Hầu hết các sai sót trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đều có ảnh
hưởng tương tự như trên bảng cân đối kế toán do hệ thống bút toán ghi sổ kép. Vì
thế trong phần lớn các cuộc kiểm toán và hầu hết các thủ tục kiểm toán, việc phân
bổ này chủ yếu cho các khoản mục trên bảng cân đối kế toán.
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục được
thực hiện theo cả hai hướng: khai khống (báo cáo thừa) và khai thiếu (báo cáo
thiếu)
Cơ sở để tiến hành phân bổ là bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục, chi phí kiểm toán. Tuy nhiên trên
thực tế rất khó biết trước được những tài khoản nào có khả năng sai số, chi phí
liên quan đến kiểm toán khó có thể xác định vì vậy công việc này thường do các
kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm thực hiện. Ví dụ
như chi phí thu thập bằng chứng về hàng tồn kho cao hơn chi phí thu thập về
công nợ nên sai số có thể chấp nhận được của hàng tồn kho cao hơn sai số có
thể chấp nhận được đối với công nợ. Hoặc không có sai số có thể chấp nhận
được với lãi chưa phân phối vì chỉ tiêu này chỉ sinh ra từ sai số các tài khoản
khác.
1.1.4.3 Ước tính tổng số sai sót cho từng khoản mục
Bằng các thủ tục kiểm toán được áp dụng, kiểm toán viên phát hiện ra các
sai sót đối với từng khoản mục. Dựa vào các sai sót này để ước tính tổng số các
sai sót đối với từng khoản mục. Đây là sai sót dự kiến, kiểm toán viên sẽ so
sánh nó với sai sót có thể chấp nhận được nhằm quyết định xem khoản mục đó
có thể chấp nhận hay không hay phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán thích
hợp khác.
1.1.4.4 Ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được
Sau khi ước tính sai sót cho từng khoản mục, kiểm toán viên tiến hành
ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được. Tổng số sai sót có thể chấp nhận
được chính là tổng số sai sót dự kiến cho tất cả các khoản mục trên báo cáo tài
chính
1.1.4.5 So sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu hoặc

ước lượng ban đầu về trọng yếu đã có sự điều chỉnh
Việc so sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu
cho phép kiểm toán viên đánh giá toàn bộ các sai sót trong các khoản mục có
vượt quá giới hạn về mức trọng yếu chung cho toàn bộ báo cáo tài chính không.
Nếu sai số kết hợp lớn hơn mức ước tính về trọng yếu thì BCTC không được
chấp nhận toàn phần. Trong trường hợp sai số kết hợp lớn hơn mức ước tính
ban đầu về trọng yếu chủ yếu do một số tài khoản có ước tính cao thì kiểm toán
viên tiến hành so sánh ước tính sai số kết hợp sau khi trừ đi sai sót do các khoản
mục trên gây ra với ước tính ban đầu về trọng yếu sau khi trừ đi mức trọng yếu
phân bổ cho các khoản mục trên. Nếu mức sai sót kết hợp thấp hơn thì kiểm
toán viên sẽ tập trung tăng cường thủ tục kiểm toán đối với các khoản mục có
sai sót trọng yếu và mở rộng quy mô mẫu hoặc yêu cầu khách hàng điều chỉnh
theo ý kiến của kiểm toán viên. Lúc này, kiểm toán viên không cần phải tiến
hành thêm các thử nghiệm kiểm toán chung trên toàn bộ BCTC nữa. Nếu khách
hàng không điều chỉnh và các thủ tục kiểm toán bổ sung vẫn khẳng định có sai
sót trọng yếu thì kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
Trong quá trình kiểm toán, nếu kiểm toán viên phát hiện ra một số yếu tố
ảnh hưởng đến việc ước lượng ban đầu về trọng yếu thì kiểm toán viên có thể
ước lượng lại. Kiểm toán viên sẽ tiến hành so sánh ước tính sai số kết hợp với
ước lượng về trọng yếu đã được điều chỉnh.
Nếu mức sai số kết hợp gần bằng ước lượng ban đầu về trọng yếu hoặc
ước lượng về trọng yếu đã được điều chỉnh thì đảm bảo nguyên tắc thận trọng,
kiểm toán viên thường yêu cầu Ban Giám Đốc điều chỉnh lại các sai sót có quy
mô lớn hoặc mở rộng quy mô mẫu và tiến hành các thủ tục kiểm toán bổ sung
với các khoản mục này.
1.2 Rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1 Khái niệm rủi ro kiểm toán
Để hiểu được rủi ro kiểm toán trước hết ta cần hiểu rủi ro là gì và phân
biệt một số loại rủi ro được đề cập trong lĩnh vực kiểm toán.
Theo từ điển Tiếng Việt, rủi ro là tính từ để chỉ việc không may xảy ra.

Trong lĩnh vực kiểm toán, ta cần phân biệt rủi ro kiểm toán và rủi ro kinh
doanh. Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro mà công ty kiểm toán thường gặp phải
khi nhấp nhận kiểm toán. Đây là loại rủi ro công ty kiểm toán sẽ phải chịu thiệt
hại vì mối quan hệ với khách hàng. Rủi ro kinh doanh liên quan đến trách nhiệm
pháp lý của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính cho khách
hàng.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) “ Trọng yếu và
rủi ro kiểm toán” do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố:
“Rủi ro kiểm toán là những rủi ro ma kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra
nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là sai sót nghiêm
trọng”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ” (VSA 400) và Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 400, khái niệm rủi ro
kiểm toán được định nghĩa như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán
viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài
chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”.
Rủi ro kiểm toán chủ yếu được kiểm toán viên xác định trong giai đoạn
lập kế hoạch kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 đã quy định:
“Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và trước khi
thực hiện kiểm toán”. Rủi ro kiểm toán được xác định sẽ giúp kiểm toán viên có
chiến lược chung với hợp đồng kiểm toán, bố trí nhân sự, thời gian cho cuộc
kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp cho các khoản mục trên
báo cáo tài chính.
1.2.2 Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng ( Inherrent Risk –
IR), rủi ro kiểm soát ( Control Risk - CR) và rủi ro phát hiện ( Detection Risk –
DR ).
1.2.2.1 Rủi ro tiềm tàng
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro kiểm
toán”: “ Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc của một

loại nghiệp vụ đối với những sai sót có thể là nghiêm trọng, những sai sót này có

×