Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận môn tâm lý học SP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.01 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TIỂU LUẬN HẾT MÔN
TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC

Giảng viên hướng dẫn:
Họ và tên học viên:
Ngày sinh:
Lớp:

Hà Nội, Tháng 10 năm 2020


2

LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến ………………………. đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo cho lớp chúng tơi trong suốt q trình giảng dạy mơn Tâm lý học
dạy học. Qua thời gian học tập bộ môn, tôi thấy bản thân được học hỏi thêm nhiều
điều bổ ích, có thể áp dụng nhiều vào thực tiễn giảng dạy của mình.
Xin trân trọng cảm ơn Thầy!


3

NỘI DUNG TIỂU LUẬN
1. Anh/chị hãy phân tích nội dung cơ bản của Trường phái Tâm lý học nhân
văn và vận dụng vào việc dạy học ?
Tâm lý học nhân văn là một trong những trường phái tâm lý phổ biến được sử
dụng rộng rãi với nhiều ứng dụng trong cuộc sống. Giống như tên gọi của chính


mình, trường phái tâm lý học nhân văn tập trung các yếu tố vào con người. Lấy con
người làm trung tâm và chủ đạo để xử lý các vấn đề liên quan
Điểm chính của tâm lý học nhân văn là nó tập trung vào tính biệt loại của con
người, vào cái phân biệt con người với các lồi khác. Nó khác các loại tâm lý học
khác bởi vì nó coi con người khơng chỉ như là một sinh vật được biến đổi bởi văn
hóa và kinh nghiệm, nhưng như là một nhân vị, một thực thể biểu tượng có khả năng
suy tư về hiện hữu mình, và có khả năng cho hiện hữu mình một ý nghĩa, một hướng
đi. (Kinget, 1975, p.v)
Lịch sử hình thành tâm lý học nhân văn
Vào đầu thập niên 1960, một nhóm nhà triết học do Abraham Maslow cầm
đầu đã khởi xướng một phong trào được mệnh danh là tâm lý học lực lượng thứ ba.
Các nhà triết học này cho rằng trường phái hành vi và trường phái phân tâm học, đã
bỏ quên một số thuộc tính quan trọng của con người. Cái thiếu sót ở đây là những
thơng tin có thể giúp ta làm cho những người bình thường trở nên mạnh khỏe hơn,
nghĩa là giúp họ đạt hết mức tiềm năng của họ.
Điều cần thiết có một mơ hình về con người nhấn mạnh tính độc đáo của họ
và các khía cạnh tích cực hơn là tiêu cực của họ, và kiểu mơ hình này chính là cái mà
tâm lý học lực lượng thứ ba nhằm cung cấp.
Mặc dù tâm lý học lực lượng thứ ba phổ biến trong các thập niên 1970 và
1980, nhưng lại bắt đầu mờ nhạt trong thập niên 1980. Tuy nhiên, giống như thuyết
hành vi và phân tâm học, tâm lý học lực lượng thứ ba vẫn tiếp tục có ảnh hưởng lớn
trong tâm lý học hiện đại.
Theo Maslow các nhà tâm lý học hoạt động trong mẫu tâm lý học nhân văn
có các niềm tin cơ bản sau:


Khơng có nhiều điều gía trị có thể học hỏi được từ việc nghiên cứu loài vật.


4




Thực tại chủ quan là hướng dẫn hàng đầu cho việc nghiên cứu hành vi con người.
Nghiên cứu các cá nhân mang lại nhiều thông tin hơn nghiên cứu những điểm



chung của các tập thể.
Cần có cố gắng đặc biệt để khám phá những điều làm mở mang hay làm giàu cho




kinh nghiệm con người.
Nghiên cứu phải tìm các thơng tin giúp giải quyết các vấn đề con người.
Mục tiêu của tâm lý học phải là hình thành một mơ tả đầy đủ về ý nghĩa của hiện



hữu con người là gì. Mơ tả này phải bao gồm tầm quan trọng của ngơn ngữ, quy
trình đánh giá, phạm vi đầy đủ các cảm xúc, và cách thức mà con người tìm kiếm
và đạt đến ý nghĩa cuộc đời của họ.
Nội dung cơ bản thứ nhất của trường phải tâm lý học nhân văn đó là
Thứ bậc các nhu cầu của con người
Theo Maslow, các nhu cầu con người được sắp đặt theo một thứ bậc. Các nhu
cầu càng thấp trong thứ bậc, chúng càng cơ bản và càng giống với các nhu cầu của
loài vật. Các nhu cầu càng cao trong thứ bậc, chúng càng đặc trưng cho con người.

Tháp nhu cầu của Maslow

Các nhu cầu được sắp đặt sao cho khi người ta thỏa mãn một nhu cầu thấp hơn,
người ta có thể xử lý một nhu cầu cao hơn. Thứ bậc các nhu cầu của Maslow có thể
tóm tắt trong biểu đồ dưới đây:
Tự thể hiện mình


5

Maslow hiểu sự tự thể hiện mình có nghĩa là đạt đầy đủ tiềm năng con người:
“Các nhạc sĩ phải làm nhạc, các họa sĩ phải vẽ, các thi sĩ phải viết nếu họ muốn cảm
thấy hài long với chính mình. Con người có thể là gì thì họ phải là như thế. Họ phải
là đúng với bản tính họ. Nhu cầu này chúng ta có thể gọi là nhu cầu tự thể hiện
mình.”
Khái niệm về sự tự thể hiện mình đã bắt nguồn ít là từ thời Aristotle, nhưng
Aristotle hiểu sự tự thể hiện mình là khuynh hướng bẩm sinh biểu hiện các tính chất
hay yếu tính của một loài. Với khái niệm tự thể hiện, cả Jung, Maslow và Rogers có
ý nói tới sự thể hiện tiềm năng của một cá nhân, khơng phải tiềm năng của lồi như
lối hiểu của Aristotle. Vì khơng ai có thể đạt tới đầy đủ tiềm năng của mình, nên
Maslow cho rằng người tự thể hiện mình là người đã thỏa mãn thích đáng bậc thang
các nhu cầu. Và ơng đã liệt kê các tính chất của những người được xem là đã tự thể
hiện mình như sau:














Họ nhận thức thực tại chính xác và đầy đủ.
Họ rất biết chấp nhận mình và người khác.
Tỏ ra có sự tự nhiên và tự phát.
Có nhu cầu riêng tư.
Có khuynh hướng độc lập với mơi trường và văn hóa.
Có sự đánh giá liên tục đổi mới.
Định kỳ có các kinh nghiệm thần bí hay tột đỉnh.
Quan tâm tới mọi người thay vì chỉ quan tâm tới bạn bè hay người thân của họ.
Thường chỉ có ít bạn thân.
Có một tinh thần đạo đức mạnh nhưng khơng nhất thiết chấp nhận đạo đức
truyền thống.
Có óc khơi hài rất phát triển nhưng khơng mang tính thù nghịch.
Có óc sáng tạo.

Tuy Maslow kết luận rằng loại người này là những con người xuất chúng, ông cũng
cho thấy khơng phải họ khơng có khuyết điểm.
Nội dung cơ bản tiếp theo của trường phải tâm lý học nhân văn đó là Lý
thuyết của Rogers về nhân cách
Theo yêu cầu của nhiều người, Rogers đã triển khai một lý thuyết về nhân
cách để cắt nghĩa các hiện tượng ông đã quan sát trong tiến trình điều trị. Các yếu tố


6

cơ bản của lý thuyết của ơng được trình bày lần đầu tiên trong bài diễn thuyết ông
đọc khi nhận chức chủ tịch APA (1947) và sau này được mở rộng trong cuốn Trị liệu

dựa vào khách hàng (1951).
Giống như Maslow, Roger giả thuyết có một động cơ bẩm sinh nơi con người
hướng tới sự tự thể hiện mình. Và nếu người ta lấy khuynh hướng tự thể hiện này
làm tiêu chuẩn sống, có nhiều khả năng họ sẽ thể hiện đời sống một cách sung mãn
và cuối cùng đạt hết tiềm năng của họ.
Ta gọi những người như thế là những người sống theo quá trình đánh giá hữu
cơ. Sử dụng quy trình này, người ta đạt tới và duy trì được các kinh nghiệm phù hợp
với khuynh hướng tự thể hiện nhưng ngăn chặn và tránh được các kinh nghiệm
không phù hợp với khuynh hướng ấy.
Những người như thế được thúc đẩy bởi các tình cảm chân chính của họ và
sống một đời sống trung thực theo kiểu nói của các nhà hiện sinh – nghĩa là một đời
sống được thúc đẩy bởi các tình cảm nội tâm chân chính chứ khơng phải bởi tập tục,
niềm tin, truyền thống, giá trị hay các quy ước do người khác áp đặt.
Tiếc thay, theo Rogers, nhiều người không sống theo các tình cảm sâu xa nhất
của nội tâm họ. Một vấn đề phát sinh là vì tuổi thơ chúng ta có nhu cầu được nhìn
nhận tích cực. Sự nhìn nhận tích cực bao gồm việc đón nhận các thứ như tình yêu, sự
âu yếm, thiện cảm, và sự chấp nhận của những người có liên quan đến đời sống của
một đứa trẻ. Nếu người ta dành cho đứa trẻ sự nhìn nhận một cách vơ điều kiện, thì
khơng có vấn đề gì xảy ra. Nhưng thường người ta khơng làm một cách vô điều kiện.
Thường các cha mẹ hay những người có liên quan chỉ dành sự kính trọng cho
đứa trẻ nếu nó hành động hay suy nghĩ theo một lối nhất định nào đó. Điều này đặt
ra các điều kiện về giá trị.
Trẻ em sẽ sớm nhận ra rằng để được yêu thương, chúng phải hành động và
suy nghĩ phù hợp với các giá trị của những người có liên quan đến cuộc sống của
chúng. Dần dần, khi đứa trẻ ngày càng nội tâm hóa các giá trị, các giá trị ấy sẽ trở
thành tiêu chuẩn cho đời sống của chúng. Nghĩa là chúng sẽ sống theo các điều kiện
về giá trị do người khác áp đặt.


7


Theo Rogers, chỉ có một cách để tránh áp đặt các điều kiện về giá trị trên
người khác, đó là dành cho họ sự nhìn nhận tích cực và vơ điều kiện về giá trị. Với
sự nhìn nhận tích cực vơ điều kiện, người ta được u mến và kính trọng vì bản chất
thực sự của nhân cách họ. Và chỉ những ai kinh nghiệm được sự nhìn nhận tích cực
vơ điều kiện thì mới có thể trở thành một con người thể hiện sung mãn đời mình.
Các phê bình
Người ta không ngạc nhiên khi tâm lý học nhân văn bị phê bình. Các phê bình
có thể được tập trung vào điểm sau:
Tâm lý học nhân văn đồng hóa tâm lý học hành vi với cơng trình của Watson
và Skinner. Cả hai tác giả này nhấn mạnh các sự kiện môi trường như là nguyên
nhân của hành vi con người, đồng thời phủ nhận hay giảm thiểu tầm quan trọng của
các sự kiện tinh thần. Tuy nhiên, cũng có các nhà hành vi khác nhấn mạnh các sự
kiện tinh thần và mục đích trong các phân tích của họ về hành vi – ví dụ Tolman.
Tâm lý học nhân văn khơng xét đến bản chất tích lũy của khoa học bằng cách
nhấn mạnh rằng tâm lý học khoa học không quan tâm đến các thuộc tính siêu vật của
con người.
Mơ tả về con người như các nhà nhân văn đề nghị thì giống với các mơ tả
được ưa thích trong quá khứ trong lĩnh vực văn học, thi ca hay tơn giáo. Nó diễn tả
một kiểu tư duy ao ước mà không được sự hỗ trợ của các sự kiện mà khoa tâm lý
học khách quan đã tích lũy được.
Tâm lý học nhân văn phê bình thuyết hành vi, tâm phân học và tâm lý học
khoa học nói chung, nhưng cả ba loại này đều đã có những cống hiến quan trọng cho
sự cải thiện số phận con người, là mục tiêu chính mà tâm lý học nhân văn theo đuổi.
Nhiều thuật ngữ và khái niệm mà các nhà tâm lý học nhân văn sử dụng thì
q mơ hồ khơng thể có một định nghĩa rõ ràng và có thể kiểm chứng. Thậm chí
người ta cịn có sự lẫn lộn về chính định nghĩa của tâm lý học nhân văn.
Cống hiến



8

Đóng góp chính của tâm lý học nhân văn cho khoa tâm lý học là việc nó mở
rộng lĩnh vực của tâm lý học. Trong tâm lý học ngày nay, có một khuynh hướng
ngày càng tang muốn nghiên cứu tồn thể con người.
Chúng ta khơng chỉ muốn tìm hiểu con người học tập, suy nghĩ và phát triển
thế nào về phương diện sinh vật và tri thức. Nhưng chúng ta cịn muốn biết con
người hình thành thế nào các kế hoạch để đạt các mục tiêu tương lai và tại sao người
ta cười, khóc và tạo ý nghĩa trong cuộc đời họ.
Theo đánh giá của nhiều người, tâm lý học nhân văn đã thổi một sức sống
mới vào tâm lý học. Tâm lý học nhân văn đã nhìn thấy bản chất tốt đẹp trong con
người, đề cao hoài bão và nỗ lực vươn lên của con người. Vì cho rằng bản chất con
người vốn là tốt đẹp, có lịng vị tha, có tiềm năng sáng tạo. Nên tâm lý học nhân văn
hướng đến mục tiêu giúp con người tìm được bản ngã đích thực của mình. Con
người cần đối xử với nhau một cách tế nhị, cởi mở lẫn nhau.
Trường phái Tâm lý học nhân văn vận dụng vào việc dạy học.
Theo tháp nhu cầu Maslow, học sinh cần được tạo điều kiện để theo đuổi
những vấn đề được quan tâm. Tại các trường học vùng cao, trẻ thiếu ăn, thiếu mặc.
Để vận động trẻ tới trường, thầy cô cần cung cấp cho học sinh những bữa ăn, vận
động ủng hộ quần áo ấm, sách vở, những vật dụng thiết yếu giúp cho thang bậc nhu
cầu đầu tiên của học sinh được đảm bảo. Hay tại các trường học đồng bằng, để đảm
bảo cho học sinh không phải đi lại quá nhiều, lo cơm ăn, chỗ nghỉ ngơi, tập trung
chính vào hoạt động học tập, các trường học có tổ chức ăn trưa và trông bán trú, …
Các nhà trường xây dựng mơ hình trường học hạnh phúc, lớp học xanh – sạch
– đẹp, … để học sinh có cảm giác an toàn, yên tâm đi học, coi trường học như ngôi
nhà thứ hai; tổ chức khám sức khỏe định kì cho học sinh, …, tổ chức tốt các câu lạc
bộ âm nhạc, thể thao, toán học ứng dụng, … để học sinh có thêm một nơi để giao lưu
tinh thần, học hỏi lẫn nhau, tổ chức tốt các cuộc thi sáng tạo nhằm phát hiện các tài
năng của trẻ.
Trong các tiết học, dạy theo quan điểm của thuyết nhân văn là lấy học sinh

làm trung tâm. Giáo viên là người tổ chức các hoạt động dạy học nhằm phát huy khả
năng tích cực, chủ động sáng tạo cho học sinh, tổ chức các hoạt động nhóm, dạy học


9

hợp tác, phát triển năng lực, …và học sinh là người thực hiện chuỗi các hoạt động
nhằm phát hiện tri thức và giải quyết vấn đề
Giáo viên cần tổ chức nhiều hoạt động trải nghiệm để học sinh tăng tình đồn
kết, ý thức trách nhiệm khi làm việc nhóm, …
Giáo viên cần động viên, khen ngợi học sinh để học sinh cảm nhận được yêu
thương, sự tin tưởng, tôn trọng và ghi nhận. Từ đó, học sinh sẽ hăng hái, tích cực hơn
khi được học cái mà mình thích.
Giáo viên không được khiển trách học sinh trước tập thể lớp, trường, cần kiềm
chế cảm xúc khi đang bực bội, ức chế, khơng làm cảm xúc ảnh hưởng đến q trình
dạy học.
Giáo viên cần kết hợp với phụ huynh tìm hiểu về tâm sinh lý của học sinh,
những điểm mạnh, điểm hạn chế của học sinh để từ đó phối kết hợp gia đình và nhà
trường để có biện pháp giáo dục tốt nhất.
Dựa vào tháp nhu cầu Maslow chúng ta có thể thấy lựa chọn nghề nghiệp của
mỗi người chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những nhu cầu mà họ cần được thỏa mãn.
Bởi vậy, giáo viên cần kết hợp với gia đình hướng nghiệp cho học sinh càng sớm
càng tốt để có thể giúp học sinh định hướng cho tương lai, tìm ra cơng việc mà có thể
thỏa mãn cả 5 thang bậc Maslow.


10

2. Anh/chị hãy phân tích mối quan hệ giữa dạy học và phát triển năng lực học
sinh? Cần tập trung phát triển năng lực nào cho học sinh hiện nay? Tại sao?

*) Dạy học là gì?
Các nhà nghiên cứu giáo dục cho rằng: “Dạy học là toàn bộ các thao tác có
mục đích nhằm chuyển các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các giá trị văn hóa mà
nhân loại đã đạt được hoặc cộng đồng đã đạt được vào bên trong một con người”,
một số khác dựa trên quan điểm phát triển, nhất là phát triển về khoa học và cơng
nghệ cho rằng “Dạy học là một q trình gồm tồn bộ các thao tác có tổ chức và có
định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động
với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị
văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các
bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học”.
*) Hoạt động dạy học
Dạy học tiếp cận theo quan điểm hoạt động bao gồm hai hoạt động: hoạt
động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh.
Hoạt động dạy: Hoạt động dạy với vai trò chủ đạo của giáo viên là sự tổ
chức, điều khiển tối ưu quá trình truyền đạt nội dung hệ thống tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo một cách khoa học cho học sinh tiếp thu (lĩnh hội). Hoạt động dạy do
giáo viên làm chủ thể và tác động vào đối tượng là học sinh và hoạt động nhận
thức của học sinh.
Hoạt động học: Hoạt động học với vai trò chủ động của học sinh là sự tự
điều khiển tối ưu quá trình tiếp thu (lĩnh hội) một cách tự giác, tích cực, tự lực
nội dung hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà giáo viên truyền đạt nhằm phát
triển và hình thành nhân cách học sinh. Hoạt động học do học sinh làm chủ thể
và tác động vào đối tượng là nội dung kiến thức mới chứa đựng trong tài liệu
học tập.
*) Năng lực là gì?


11

Khái niệm năng lực (competency) có nguồn gốc tiếng La tinh

„competentia“. Ngày nay khái niệm năng lực được hiểu nhiều nghĩa khác nhau.
Năng lực được hiểu như sự thành thạo, khả năng thực hiện của cá nhân đối với
một công việc. Khái niệm năng lực được dùng ở đây là đối tượng của tâm lý,
giáo dục học. Có nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực. Năng lực là một
thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm.
Khái niệm năng lực gắn liền với khả năng hành động. Năng lực hành
động là một loại năng lực, nhưng khi nói phát triển năng lực người ta cũng hiểu
đồng thời là phát triển năng lực hành động. chính vì vậy trong lĩnh vực sư phạm
nghề, năng lực còn được hiểu là: khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu
quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong những tình huống
khác nhau thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ sở
hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động.
*) Nội dung và Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực
Nội dung dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ giới hạn
trong tri thức và kỹ năng chuyên môn mà gồm những nhóm nội dung nhằm phát
triển các lĩnh vực năng lực:


12

Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực khơng chỉ chú ý
tích cực hố HS về hoạt động trí tuệ mà cịn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết
vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn
hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập
trong nhóm, đổi mới quan hệ GV- HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan
trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và
kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập
phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không

lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh
giá. Đánh giá kết quả học tập cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức
trong những tình huống ứng dụng khác nhau.
*) Các năng lực cần phát triển cho học sinh hiện nay:
Theo chương trình chính thức được Bộ Giáo dục và Đào tạo cơng bố,
chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể được chia thành hai giai đoạn: giai
đoạn giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng
nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12). Theo đó, chương trình giáo dục phổ thơng


13

tổng thể nêu lên 5 phẩm chất , 10 năng lực chủ yếu cần hình thành, phát triển ở
học sinh là:
* Phẩm chất:
- Yêu nước.
- Nhân ái: Yêu quý mọi người; Tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người.
- Chăm chỉ: Ham học; Chăm làm.
- Trung thực.
- Trách nhiệm: Có trách nhiệm với bản thân; Có trách nhiệm với gia đình; Có
trách nhiệm với nhà trường và xã hội; Có trách nhiệm với môi trường sống.
* Về năng lực, chương trình hướng đến 10 năng lực cốt lõi gồm:
Những năng lực chung được tất cả các môn học và hoạt động giáo
dục góp phần hình thành, phát triển:
Năng lực tự chủ và tự học: Tự lực; Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu
cầu chính đáng; Tự kiểm sốt tình cảm, thái độ, hành vi của mình; Tự định
hướng; Tự học, tự hoàn thiện.
Năng lực giao tiếp và hợp tác: Xác định mục đích, nội dung, phương tiện
và thái độ giao tiếp; Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội, điều chỉnh và hóa
giải các mâu thuẫn; Xác định mục đích và phương thức hợp tác; Xác định trách

nhiệm và hoạt động của bản thân; Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp
tác; Tổ chức và thuyết phục người khác; Đánh giá hoạt động hợp tác; Hội nhập
quốc tế.
Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Nhận ra ý tưởng mới; Phát hiện
và làm rõ vấn đề; Hình thành và triển khai ý tưởng mới; Đề xuất, lựa chọn giải
pháp; Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề; Tư duy độc lập.
Những năng lực chun mơn được hình thành, phát triển chủ yếu
thơng qua một số môn học, hoạt động giáo dục nhất định. Đó là:
Năng lực ngơn ngữ: Sử dụng Tiếng Việt; Sử dụng ngoại ngữ.
Năng lực tính tốn: Hiểu biết kiến thức tốn học phổ thơng cơ bản; Biết
cách vận dụng các thao tác tư duy, suy luận, tính tốn, ước lượng, sử dụng các


14

cơng cụ tính tốn và dụng cụ đo,…; đọc hiểu, diễn giải, phân tích, đánh giá tình
huống có ý nghĩa tốn học.
Năng lực tìm hiểu tự nhiên: Hiểu biết kiến thức khoa học; Tìm tịi và
khám phá thế giới tự nhiên; Vận dụng kiến thức vào thực tiễn, ứng xử với tự
nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ mơi trường.
Năng lực tìm hiểu xã hội: Nắm được những tri thức cơ bản về đối tượng của
các khoa học xã hội; Hiểu và vận dụng được những cách tiếp cận và phương pháp
nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội; Nắm được những tri thức cơ bản về xã hội
loài người; Vận dụng được những tri thức về xã hội và văn hóa vào cuộc sống.
Năng lực Công nghệ: Thiết kế; Sử dụng; Giao tiếp; Đánh giá.
Năng lực Tin học: Sử dụng và quản lý các phương tiện, công cụ, các hệ
thống tự động hóa của cơng nghệ thơng tin và truyền thơng; Hiểu biết và ứng xử
phù hợp chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật trong xã hội thơng tin và nền
kinh tế tri thức; Nhận biết và giải quyết vấn đề trong môi trường xã hội và nền
kinh tế tri thức; Học tập, tự học với sự hỗ trợ của các hệ thống ứng dụng công

nghệ thông tin và truyền thơng; Giao tiếp, hịa nhập, hợp tác phù hợp với thời
đại xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức.
Năng lực thẩm mỹ: Nhận biết các yếu tố thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài,
cái chân, cái thiện, cái cao cả); Phân tích, đánh giá các yếu tố thẩm mỹ; Tái
hiện, sáng tạo và ứng dụng các yếu tố thẩm mỹ.
Năng lực thể chất: Sống thích ứng và hài hịa với mơi trường; Nhận biết
và có các kỹ năng vận động cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và hình thành các
tố chất thể lực cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và tham gia hoạt động thể dục
thể thao; Đánh giá hoạt động vận động.
Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình
giáo dục phổ thơng cịn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực đặc biệt (năng
khiếu) của học sinh.


15

Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực
thể hiện qua bốn đặc trưng cơ bản sau:
Một, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học
sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri
thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành
các hoạt động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã
biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn...
Hai, chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các
tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tịi và
phát hiện kiến thức mới... Định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích,
tổng hợp, đặc biệt hố, khái quát hoá, tương tự, quy lạ về quen… để dần hình
thành và phát triển tiềm năng sáng tạo.
Ba, tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở
thành môi trường giao tiếp GV - HS và HS - HS nhằm vận dụng sự hiểu biết và

kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập
chung.


16

Bốn, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt
tiến trình dạy học thơng qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú
trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều
hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu
chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.
Theo em , cần tập trung phát triển năng lực tự học của học sinh. Lí
do cần phải tập trung năng lực tự học của học sinh là: Học sinh trong thời
đại cơng nghệ có rất nhiều cách tiếp cận kiến thức ngồi việc được truyền
thụ từ thầy cơ giáo, như thông qua các phương tiện sách , internet...
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn đưa ra quan niệm về năng lực tự học như sau:
“Năng lực tự học được hiểu là một thuộc tính kỹ năng rất phức hợp. Nó bao gồm
kỹ năng và kĩ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho
người học có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra” [Nguyễn
Cảnh Toàn (2002), Học và dạy cách học; Nguyễn Cảnh Toàn (2009), Tự học như
thế nào cho tốt). Năng lực tự học là sự bao hàm cả cách học, kỹ năng học và nội
dung học: “Năng lực tự học là sự tích hợp tổng thể cách học và kỹ năng tác động
đến nội dung trong hàng loạt tình huống – vấn đề khác nhau” [Nguyễn Cảnh
Toàn (2009), Tự học như thế nào cho tốt]
Năng lực tự học là những thuộc tính tâm lí mà nhờ đó chúng ta giải quyết
được các vấn đề đặt ra một cách hiệu quả nhất, nhằm biến kiến thức của nhân
loại thành sở hữu của riêng mình. Năng lực tự học là một khái niệm trừu tượng
và bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố. Trong nghiên cứu khoa học, để xác định được
sự thay đổi các yếu tố của năng lực tự học sau một quá trình học tập, các nhà
nghiên cứu đã tập trung mô phỏng, xác định những dấu hiệu của năng lực tự học

được bộc lộ ra ngoài. Đều này đã được thể hiện trong một số nghiên cứu dưới
đây:
Candy [Philip Candy (1991), Self-direction for lifelong Learning: A
comprehensive guide to theory and practice] đã liệt kê 12 biểu hiện của người có
năng lực tự học. Ơng chia thành 2 nhóm để xác định nhóm yếu tố nào sẽ chịu tác
động mạnh từ mơi trường học tập. Nhóm đặc biệt bên ngồi: chính là phương


17

pháp học nó chứa đựng các kỹ năng học tập cần phải có của người học, chủ yếu
được hình thành và phát triển trong q trình học, do đó phương pháp dạy của
giáo viên sẽ có tác động rất lớn đến phương pháp học của học trò, tạo điều kiện
để hình thành, phát triển và duy trì năng lực tự học. Nhóm đặc điểm bên trong
(tính cách) được hình thành và phát triển chủ yếu thông qua các hoạt động sống,
trải nghiệm của bản thân và bị chi phối bới yếu tố tâm lý. Chính vì điều đó mà
giáo viên nên tạo môi trường để học sinh được thử nghiệm và kiểm chứng bản
thân, đôi khi chỉ cần phản ứng đúng sai trong nhận thức hoặc nhận được lời
động viên, khích lệ cũng tạo ra được động lực để người học phấn đấu, cố gắng
tự học.
Tác giả Taylor [Tay lor, B (1995), Self- directed Learning: Revisiting an
idea most appropriare for middle school students] khi nghiên cứu về vấn đề tự
học của học sinh trong trường phổ thông đã xác định năng lực tự học có những
biểu hiện sau: Taylor đã xác nhận người tự học là người có động cơ học tập và
bền bỉ, có tính độc lập, kỉ luật, tự tin và biết định hướng mục tiêu, có kỹ năng
hoạt động phù hợp. Thơng qua mơ hình trên tác giả đã phân tích ra có ba yếu tố
cơ bản của người tự học, đó là thái độ, tính cách và kỹ năng. Có thể nhận thấy,
sự phân định đó để nhằm xác định rõ ràng những biểu hiện tư duy của bản thân
và khả năng hoạt động trong thực tế chứ khơng đơn thuần chỉ đề cập đến khía
cạnh tâm lí của người học. Năng lực tự học cũng là một khả năng, một phẩm

chất “vốn có” của mỗi cá nhân. Tuy nhiên nó ln ln biến đổi tùy thuộc vào
hoạt động của cá nhân trong môi trường văn hóa – xã hội. năng lực tự học là khả
năng bẩm sinh của mỗi người nhưng phải được đào tạo, rèn luyện trong hoạt
động thực tiễn thì nó mới bộc lộ được những ưu điểm giúp cho cá nhân phát
triển, nếu không sẽ mãi là khả năng tiềm ẩn. Thời gian mỗi chúng ta ngồi trên
ghế nhà trường là rất ngắn ngủi so với cuộc đời vì vậy tự học và năng lực tự học
của học sinh sẽ là nền tảng cơ bản đóng vai trị quyết định đến sự thành cơng của
các em trên con đường phía trước và đó cũng chính là nền tảng để các em tự học
suốt đời.


18

Như vậy “Năng lực tự học là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập
một cách tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để đòi hỏi sự nỗ lực
phấn đấu thực hiện; thực hiện các phương pháp học tập hiệu quả; điều chỉnh
những sai sót, hạn chế của bản thân khi thực hiện các nhiệm vụ học tập thơng
qua tự đánh giá hoặc lời góp ý của giáo viên, bạn bè; chủ động tìm kiếm sự hỗ
trợ khi gặp khó khăn trong học tập”.


19

KẾT LUẬN
Qua q trình học tập mơn Tâm lý học dạy học và quá trình nghiên cứu làm
tiểu luận này, tôi cảm thấy đã học hỏi thêm được nhiều kiến thức về tâm lý, đó là cơ
sở khoa học cho các phương pháp và kĩ thuật dạy học. Điều đó là nền tảng để tôi tiếp
tục nghiên cứu thêm về nội dung này, giúp tơi có những thay đổi trong tư duy dạy
học của mình.
Sau một thời gian tơi nghiên cứu và tìm hiểu thì tiểu luận đã hồn thành. Tuy

nhiên khơng tránh khỏi những thiếu sót do khả năng cịn hạn chế. Tơi rất mong có sự
góp ý của các thầy cơ để tiểu luận được hồn thiện hơn.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thị Mỹ Lộc – Đinh Thị Kim Thoa – Trần Văn Tính, Tâm lý học giáo
dục, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2009
[2] “Lịch Sử và Khái Niệm Tâm Lý Học Nhân Văn” 23/09/2019 Tác giả: Selena
Thanh Bình Kiến thức Tâm Lý học
[3] Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Tốn (Ban hành kèm theo Thông tư số
32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo)
[4] Tài liệu học tập về phương pháp dạy học theo hướng tích hợp. Ts. Nguyễn
Văn Tuấn, Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh



×