Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TẠI CÔNG TY TNHH THÁI VINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.75 KB, 14 trang )

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ
XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TẠI CÔNG TY TNHH THÁI VINH
3.1/ Đánh giá thực trạng kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại
Công ty TNHH Thái Vinh:
3.1.1/ Những thành tựu đạt được:
Đơn vị nào tổ chức tốt được công tác kế toán thì đơn vị đó luôn đảm bảo
được sự thành công trong thương trường. Vì vậy, cùng với sự tồn tại và phát
triển của Công ty , công tác kế toán cũng không ngừng được nâng cao và hoàn
thiện hơn nữa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn cho công tác quản lý. Tình hình
thực tế công tác hạch toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty
TNHH Thái Vinh như sau:
Công ty có được đội ngũ nhân viên kế toán năng động và nhiệt tình với
công việc. Công ty TNHH Thái Vinh là một Công ty trẻ được thành lập từ năm
2004 với đội ngũ nhân viên kế toán trẻ và rất năng động, họ thực sự đã góp một
phần quan trọng trong thành công của Công ty trong những năm qua.
Bộ máy kế toán tổ chức khá hợp lý: hệ thống kế toán của Công ty rất gọn
nhẹ và vẫn đảm bảo hoàn thành tốt khối lượng công việc được giao. Công tác kế
toán được phân công phù hợp với năng lực và trình độ của từng người, phát huy
thế mạnh của mỗi nhân viên làm cho công việc đạt hiệu quả tốt. Đội ngũ nhân
viên kế toán bao gồm những người dày dặn kinh nghiệm cũng như đội ngũ trẻ,
năng động, mỗi người đều được phân công nhiệm vụ rõ ràng và đều có lòng say
mê nghề nghiệp. Phòng kế toán đã quản lý tốt tiền hàng, bảo toàn và phát triển
vốn Công ty, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của các phòng nghiệp vụ.
Việc mã hoá, vận dụng hệ thống tài khoản kế toán công ty đã thực hiện
mã hoá cho tất cả các khách hàng thuộc nhóm công nợ, các loại hàng hoá thuộc
nhóm hàng hoá vật tư được phân theo từng loại rất cụ thể, rõ ràng. Việc mã hoá
này giúp cho công việc kế toán được nhanh, thông tin cập nhật,không bị trùng
lặp. Việc mở chi tiết cho hệ thống tài khoản sử dụng tại công ty hiện nay đã đáp
ứng được phần nào yêu cầu kế toán quản trị.
Công ty áp dụng sổ kế toán và hình thức ghi sổ rất phù hợp: áp dụng hình
thức ghi sổ Nhật ký chung. Hình thức này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm kinh


doanh và bộ máy kế toán của Công ty, dễ dàng trong việc sử dụng máy vi tính
để hạch toán. Chứng từ được phân loại hệ thống hoá theo từng nghiệp vụ kinh
tế, theo thời gian phát sinh…và được đóng thành tập theo từng tháng, thuận lợi
cho việc tìm kiếm, kiểm tra, đối chiếu khi cần thiết.
Kế toán tiêu thụ tiêu thụ hàng hoá ở công ty nhìn chung đã phản ánh
trung thực số liệu, sổ sách rõ ràng, hạch toán chính xác các nghiệp vụ kinh tế
liên quan đến kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá phát sinh
trong kỳ hạch toán, đảm bảo cung cấp được những thông tin cần thiết phục vụ
cho công tác quản lý của Công ty mang lại hiệu quả kinh tế.Việc tổ chức hệ
thống sổ sách kế toán và luân chuyển chứng từ trong quả trình tiêu thụ hàng hoá
là tương đối hợp lý, trên cơ sở đảm bảo những nguyên tắc kế toán của chế độ
hiện hành và phù hợp với khả năng, trình độ đội ngũ kế toán, phù hợp với quy
mô, đặc điểm kinh doanh của công ty.
Ngoài những ưu điểm nêu trên thì công tác hạch toán tiêu thụ và xác định
kết quả tiêu thụ hàng hoá vẫn còn những hạn chế cần được cải tiến và hoàn
thiện nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả công tác kế toán.
3.1.2/ Những tồn tại cần khắc phục:
a/ Về tiêu thụ hàng hoá:
- Khi xuất hàng hóa dùng nội bộ trong công ty hay để bảo hành cho khách
hàng kế toán hạch toán chỉ giống bút toán phản ánh giá vốn hàng xuất kho ghi
Nợ TK 632:
Có TK 156:
mà không phản ánh doanh thu.
- Trong phương thức tiêu thụ hàng hoá ở công ty chưa có một hình thức
nào cụ thể nhằm động viên, khuyến khích khách hàng thanh toán sớm tiền hàng
hoặc mua hàng của công ty với khối lượng lớn. Từ đó có thể dẫn đến hiện tượng
ứ đọng vốn, gây kho khăn trong quá trình quay vòng vốn của công ty.
- Công ty chỉ có hình thức tiêu thụ hàng hóa là bán buôn, bán lẻ trực tiếp
qua kho chưa đáp ứng được nhu cầu bán hàng của công ty.
b/ Về chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp:

Đối với doanh nghiệp thương mại như Công ty TNHH Thái Vinh thì chi
phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, qua thời gian
thực tập em nhận thấy việc hạch toán giữa chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp không hợp lý và thiếu chính xác. Tài khoản 641 “chi phí bán
hàng” là tài khoản chỉ tập hợp các loại chi phí phục vụ trực tiếp cho công việc
bán hàng, việc tập hợp cả chi phí tiền lương nhân viên văn phòng vào chi phí
bán hàng là không hợp lý. Các loại dây cáp, giắc cắm đi theo thiết bị trong quá
trình bán hàng và các loại phong bì kế toán hạch toán vào tài khoản chi phí quản
lý doanh nghiệp là chưa đúng đắn và hợp lý .
c/ Về chính sách chiết khấu thanh toán:
Công ty đã có các chính sách về giá cả, chính sách thanh toán và chiết
khấu thương mại cho những khách mua hàng với số lượng lớn nhưng lại chưa
áp dụng một số biện pháp thúc đẩy tiêu thụ rất hữu hiệu là chiết khấu thanh toán
cho những khoản thanh toán trước thời hạn, điều này không những làm cho hiệu
quả kinh doanh giảm đi do không thúc đẩy được bán hàng mà còn làm cho
doanh nghiệp thường hay bị chiếm dụng vốn.
3.2/ Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng tại Công ty TNHH Thái Vinh:
Trong hoạt động kinh doanh, kế toán đóng một vai trò quan trọng vì nó là
công cụ rất có hiệu lực giúp cho việc điều hành, quản lý các hoạt động kinh tế
bằng việc cung cấp và phân tích các số liệu để các nhà quản lý ra quyết định
kinh doanh cho phù hợp. Qua các tài liệu kế toán, Công ty mới có được một
đánh giá chính xác về thực trạng của mình cũng như phương hướng mở rộng
hoạt động kinh doanh.
Tại Công ty TNHH Thái Vinh, nghiệp vụ tiêu thụ diễn ra hàng ngày,
thường xuyên, liên tục. Công ty có nhiều mối quan hệ với khách hàng, đối tác,
ngân hàng…Việc cung cấp thông tin kế toán kịp thời, chính xác cho chủ doanh
nghiệp và các bên liên quan là một điều rất cần thiết.
Như vậy, hoàn thiện hạch toán bán hàng hoá và xác định kết quả bán
hàng nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của hệ thống kế toán nói chung và kế

toán bán hàng nói riêng là một yêu cầu thiết yếu. Nhờ đó, những người quản lý
có thể nhận được những thông tin kịp thời nhất, chính xác nhất, đầy đủ nhất và
đưa ra được những quyết định kinh doanh đúng đắn nhất mang lại hiệu quả kinh
doanh cao, ngày càng khẳng định được vị trí của Công ty trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay.
3.3/ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán tiêu thụ và xác định kết quả
tiêu thụ hàng hoá tại Công ty TNHH Thái Vinh:
- Kiến nghị 1: Về kế toán tiêu thụ hàng hoá
Khi xuất hàng hóa dùng nội bộ hay bảo hành cho khách hàng (hàng hóa
chưa hết thời gian bảo hành đã hỏng, công ty phải xuất hàng thay thế) đây coi là
tiêu thụ nội bộ. Kế toán phải lập hóa đơn GTGT ghi rõ hàng hóa tiêu thụ nội bộ
phục vụ quản lý công ty hay bảo hành hàng hóa (trường hợp bảo hành có biên
bản xác nhận tình trạng hư hỏng của hàng hóa và ký đóng dấu xác nhận của
công ty và bên được bảo hành) không thu tiền. Trên hóa đơn phải gạch bỏ dòng
thuế suất và tiền thuế GTGT, chỉ ghi dòng tổng giá thanh toán là giá vốn của hàng
xuất dùng. Căn cứ vào hóa đơn GTGT và các chứng từ liên quan, kế toán ghi:
BT1/ Phản ánh giá trị giá vốn hàng xuất
Nợ TK 632: Tập hợp giá vốn hàng bán
Có TK 156:
BT2/ Phản ánh doanh thu (theo giá vốn). Kế toán vào “ Bút toán khác” để
ghi bút toán:
Nợ TK 641: sử dụng bảo hành
Nợ TKI 642: sử dụng phục vụ hoạt động quản lý doanh nghiệp
Có TK 512: Doanh thu bán hàng.
Cuối tháng, sau khi thực hiện bút toán “ khóa sổ” máy sẽ tự động kết chuyển số
liệu sang tài khoản 911- Kết quả kinh doanh
Nợ TK 512: Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp nội bộ
Có TK 911
- Kiến nghị 2: Về việc hạch toán chiết khấu thanh toán và chiết khấu thương
mại.

Như đã nêu trên, Công ty TNHH Thái Vinh chưa có chế độ chiết khấu
cho những khách hàng thanh toán sớm và những khách hàng mua hàng với khối
lượng lớn. Theo quy định của Bộ tài chính, chiết khấu thanh toán là khoản tiền
thưởng cho khách hàng tính trên tổng tiền hàng mà họ đã thanh toán trước thời
hạn quy định. Còn chiết khấu thương mại là khoản tiền mà doanh nghiệp giảm
trừ hoặc thanh toán cho khách hàng do họ đã mua hàng với khối lượng lớn.
Trong thời gian tới Công ty nên đưa thêm vào chính sách bán hàng hai hình
thức này nhằm mở rộng quy mô tiêu thụ hàng hoá và khuyến khích khách hàng
thanh toán trong thời gian sớm nhất, hạn chế vốn bị chiếm dụng.
Để hạch toán các nghiệp vụ liên quan đến chiết khấu thương mại , kế toán
sử dụng tài khoản 521 “Chiết khấu thương mại”, hạch toán như sau:
+ Trong kỳ khi có các nghiệp vụ chiết khấu thương mại phát sinh có
khách hàng, căn cứ vào các chứng từ chứng minh, kế toán vào “ Phiếu khác” kế
toán định khoản như sau:
Nợ TK 521: Số chiết khấu thương mại khách hàng được hưởng
Nợ TK 3331: Thuế GTGT trả lại cho khách hàng tương ứng với số chiết
khấu thương mại thực tế phát sinh
Có TK 131: Trừ vào số tiền phải thu ở người mua (kể cả trường hợp
xuất trả tiền cho khách hàng cũng hạch toán qua tài khoản 131 này sau đó thực
hiện chi trả)
Có TK 338 (3388): Số chiết khấu thương mại chấp nhận nhưng chưa
thanh toán cho người mua.

×