Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.23 MB, 224 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>TS. CHU C THNG </b>
<i>Quán triệt chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, nhận thức đúng đắn về </i>
<i>tầm quan trọng của chương trình, giáo trình đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo: </i>
<i>“Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự </i>
<i>nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá là điều kiện để phát triển nguồn lực con người - </i>
<i>yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”, trên cơ sở </i>
<i>chương trình khung của Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành và những kinh nghiệm rút ra </i>
<i>từ thực tế đào tạo, Bộ Giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo các trường đại học tổ chức biên </i>
<i>soạn chương trình, giáo trình một cách khoa học, hệ thống và cập nhập những kiến </i>
<i>thức thực tiễn phù hợp với đối tượng sinh viên các trường đại học. </i>
<i>Môn Chẩn đoán bệnh và Bệnh nội khoa Thú y trong chương trình đào tạo kỹ sư </i>
<i>Chăn nuôi - Thú y được đặt vào sau các môn khoa học cơ bản - giai đoạn đào tạo </i>
<i>chuyên ngành, nhằm phục vụ đông đảo sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung </i>
<i>học chuyên nghiệp chuyên ngành Chăn nuôi - Thú y những kỹ năng về cơ sở nghề </i>
<i>nghiệp: như cách tiếp cận và cố định gia súc để khám bệnh, những phương pháp chẩn </i>
<i>đoán và các biện pháp phịng trị bệnh cho gia súc. </i>
<i>Giáo trình gồm 2 phần: </i>
<i><b>Phần thứ nhất. Chẩn đoán bệnh thú y: trang bị cho sinh viên thành thạo các </b></i>
<i>phương pháp chẩn đoán lâm sàng và các xét nghiệm đơn giản; đồng thời giới thiệu các </i>
<i>kỹ thuật chẩn đoán mới như: phương pháp X - quang, nội soi, siêu âm, sinh thiết,... </i>
<i><b>Phần thứ hai. Bệnh nội khoa thú y: cung cấp đầy đủ toàn diện cho sinh viên </b></i>
<i>những kiến thức cơ bản nhất, cần thiết nhất trong công tác điều trị, mỗi sinh viên cần </i>
<i>vận dụng những kiến thức đó một cách khéo léo, hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, </i>
<i>con bệnh cụ thể để đạt được hiệu quả điều trị tốt nhất, an toàn nhất. </i>
<i>Phần thứ nhất: Chẩn đoán bệnh Thú y </i>
<i><b>Chương 1, 2: PGS.TS. Phạm Ngọc Thạch </b></i>
<i><b>Chương 3: TS. Chu Đức Thắng, PGS.TS. Phạm Ngọc Thạch </b></i>
<i>Phần thứ hai: Bệnh nội khoa Thú y </i>
<i><b>Chương 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10: PGS.TS. Phạm Ngọc Thạch </b></i>
<i>Do thời gian có hạn nên cuốn giáo trình không thể tránh khỏi những thiếu sót, </i>
<i>chúng tơi mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và bạn đọc để lần xuất bản sau </i>
<i>được tốt hơn. </i>
<i>Xin chân thành cám ơn. </i>
<b>Tóm tắt nội dung: nêu rõ một số khái niệm về chẩn đoán, các phương pháp chẩn </b>
đoán bệnh trong thú y.
<b>Mục tiêu: giúp cho sinh viên chuyên ngành Chăn ni - Thú y có những kiến thức </b>
cơ bản trong khám bệnh cũng như các thuật ngữ chuyên ngành thường dùng.
<b>1.1. KHÁI NIỆM VỀ CHẨN ĐOÁN VÀ PHÂN LOẠI CHẨN ĐỐN </b>
<b>1.1.1. Khái niệm chẩn đốn </b>
Chẩn đoán là phán đoán qua việc phát hiện, kiểm tra, phân tích, tổng hợp các triệu
chứng để đưa ra kết luận chẩn đốn về bệnh gì và mức độ mắc bệnh.
Một chẩn đốn đầy đủ và chính xác cần phải làm rõ được các nội dung sau:
- Vị trí bệnh trong cơ thể
- Tính chất của bệnh
- Hình thức và mức độ của những rối loạn trong cơ thể bệnh
- Nguyên nhân gây bệnh
Tuy nhiên, một quá trình bệnh diễn ra trong cơ thể thường phức tạp, chẩn đốn dù
có tỉ mỉ đến đâu cũng khó phát hiện hết những thay đổi của các q trình đó và trả lời
được đầy đủ các nội dung trên. Chẩn đoán lâm sàng càng cẩn thận, tỉ mỉ dựa trên nhiều
mặt thì càng chính xác.
<i><b>Chú ý: </b></i>
- Kết luận chẩn đốn có thể thay đổi theo q trình bệnh.
<b>1.1.2. Phân loại chẩn đốn </b>
<i><b>a. Phân loại theo phương pháp chẩn đoán </b></i>
Theo phương pháp người ta chia chẩn đoán ra thành:
- Chẩn đoán trực tiếp: Đây là phương pháp chẩn đoán dựa vào các triệu chứng chủ
yếu. Biện pháp này chỉ thực hiện hiệu quả khi con vật bệnh biểu hiện các triệu chứng
đặc trưng, điển hình.
Ví dụ: Căn cứ vào các triệu chứng của trâu bò như lõm hông bên trái căng phồng,
gõ vào thấy âm trống, con vật đau bụng, bồn chồn khó chịu,…để kết luận con vật bị
chướng hơi dạ cỏ.
- Chẩn đoán phân biệt: Đây là biện pháp tổng hợp tất cả các triệu chứng mà con vật
bệnh biểu hiện, sau đó phân tích, so sánh, liên hệ với các bệnh liên quan, dùng phương
pháp loại trừ dần những bệnh có những điểm không phù hợp, cuối cùng còn lại một
bệnh có nhiều khả năng mà bệnh súc cần chẩn đoán mắc phải.
- Chẩn đoán theo dõi: Trong một số trường hợp con vật bệnh không biểu hiện các
triệu chứng điển hình, do vậy ta khơng thể đưa ra được kết luận chẩn đoán sau khi khám
mà phải tiếp tục theo dõi để phát hiện thêm những triệu chứng mới; thu thập thêm cơ sở,
căn cứ để kết luận chẩn đoán.
- Chẩn đoán dựa vào kết quả điều trị: Nhiều trường hợp con vật có triệu chứng lâm
<i><b>b. Phân loại theo thời gian chẩn đoán </b></i>
Theo thời gian chẩn đoán được chia làm các loại sau:
- Chẩn đoán sớm: là đưa ra được các kết luận chẩn đoán ngay ở thời kì đầu của
bệnh. Chẩn đoán sớm mang lại hiệu quả cao trong phịng và trị bệnh.
- Chẩn đốn muộn: là các kết luận chẩn đoán được đưa ra vào thời kì cuối bệnh,
thậm chí khi gia súc chết mổ khám mới chẩn đoán được bệnh.
<i><b>c. Phân loại theo mức độ chính xác </b></i>
Theo mức độ chính xác, chẩn đoán được phân ra làm các loại sau:
- Chẩn đoán sơ bộ: là việc đưa ra các kết luận chẩn đoán ngay sau khi khám bệnh để
làm cơ sở cho điều trị. Chẩn đoán sơ bộ đưa ra các kết luận chưa được chính xác, do
vậy cần tiếp tục theo dõi con vật bệnh để đưa ra các kết luận chẩn đốn chính xác hơn.
- Chẩn đoán nghi vấn: Đây là biện pháp thường gặp trong lâm sàng thú y, khi thấy
một ca bệnh khơng có triệu chứng đặc trưng, điển hình, khi đó thường đưa ra các kết
luận nghi vấn về bệnh để làm cơ sở cho điều trị. Kết luận nghi vấn cần được kiểm
nghiệm thông qua việc theo dõi bệnh súc và kết quả điều trị.
<b>1.2. KHÁI NIỆM VỀ TRIỆU CHỨNG VÀ PHÂN LOẠI TRIỆU CHỨNG </b>
<b>1.2.1. Khái niệm triệu chứng </b>
Triệu chứng là những rối loạn bệnh lý do nguyên nhân bệnh gây ra như những biểu
hiện khác thường về cơ năng (tăng nhịp tim, tăng huyết áp,…) và những biểu hiện bệnh
lý (ổ viêm, vết loét,…).
Triệu chứng xuất hiện khi nguyên nhân gây bệnh đủ sức làm rối loạn sự hoạt động
bình thường của cơ thể.
Nhiệm vụ rất quan trọng của chẩn đoán là phát hiện triệu chứng của bệnh. Khi con
vật mắc bệnh có thể biểu hiện rất nhiều các triệu chứng khác nhau, mỗi triệu chứng có
một giá trị chẩn đoán nhất định.
<b>1.2.2. Phân loại triệu chứng </b>
<i><b>a. Phân loại theo phạm vi biểu hiện </b></i>
- Triệu chứng cục bộ: là những rối
loạn bệnh lý xuất hiện ở một bộ phận hay
một khí quan nào đó của con vật bệnh.
Ví dụ: Khi con vật bị đau mắt: mắt có
biểu hiện sưng đỏ, chảy nước mắt, nếu
nặng chảy mủ, mắt sưng húp, con vật
khơng nhìn thấy được (hình 1.1).
- Triệu chứng toàn thân: là những rối
loạn bệnh lý xuất hiện do các phản ứng trên toàn bộ cơ thể đối với một nguyên nhân gây
bệnh.
Ví dụ: Con vật có biểu hiện mệt mỏi, ủ rũ, bỏ ăn, sốt, rối loạn tuần hoàn. Như vậy,
<i><b>b. Phân loại theo giá trị chẩn đoán </b></i>
- Triệu chứng đặc thù: là triệu chứng đặc trưng chỉ có ở một bệnh nào đó, khi gặp
triệu chứng ấy thì chẩn đốn ngay được bệnh đó. Triệu chứng đặc thù chỉ có ở một số
bệnh, khơng phải bệnh nào cũng có triệu chứng này.
Ví dụ: Các dấu đỏ có hình: vng, trịn, đa giác,…ở trên da của lợn trong bệnh
Đóng dấu lợn là triệu chứng đặc thù (hình 1.2)
- Triệu chứng chủ yếu và triệu chứng
thứ yếu:
Khi con vật bị bệnh nào đó có thể có
nhiều triệu chứng. Trong đó, một số triệu
chứng thường gặp hoặc đặc trưng trong
bệnh đó, những triệu chứng này gọi là
triệu chứng chủ yếu (có nhiều ý nghĩa
trong chẩn đoán bệnh). Một số triệu chứng
khác ít gặp hoặc không đặc trưng gọi là
triệu chứng thứ yếu (ít có ý nghĩa chẩn
đốn).
Ví dụ: Khi con vật bị bệnh đường hơ hấp thường có các triệu chứng chủ yếu là ho,
khó thở,... có thể có các triệu chứng thứ yếu: rối loạn tiêu hóa, mệt mỏi, bỏ ăn,…
- Triệu chứng điển hình và triệu chứng khơng điển hình:
Triệu chứng điển hình là những triệu chứng phản ánh quá trình phát triển điển hình
Ví dụ: Q trình phát triển của bệnh thùy phế viêm thường có ba giai đoạn (xung
huyết gan hóa, tiêu tan), tương ứng với ba giai đoạn này khi ta khám bằng cách gõ vào
vùng phổi của con vật phát ra các âm như sau: âm bùng hơi, âm đục.
Nhiều bệnh có những triệu chứng khơng hoàn toàn theo quy luật phát triển thường
thấy của bệnh, những triệu chứng như vậy gọi là triệu chứng khơng điển hình.
- Triệu chứng cố định và triệu chứng ngẫu nhiên: Triệu chứng cố định là triệu trứng
thường có trong một số bệnh. Triệu chứng ngẫu nhiên là triệu chứng có lúc xuất hiện,
có lúc khơng trong một bệnh nào đó.
Ví dụ: Âm ran trong một số bệnh như: viêm phế quản phổi, thùy phế viêm, viêm
phổi hoại thư và hóa mủ,... là triệu chứng cố định.
Trong bệnh viêm dạ dày cata mạn tính con vật đơi khi có triệu chứng thần kinh (run
rẩy hoặc co giật), đó là triệu chứng ngẫu nhiên.
- Triệu chứng trường diễn và triệu chứng nhất thời: Triệu chứng trường diễn là triệu
chứng xuất hiện trong suốt quá trình bệnh. Triệu trứng nhất thời chỉ xuất hiện trong một
giai đoạn tiến triển của bệnh.
Ví dụ: Trong bệnh viêm phế quản phổi, con vật ho suốt quá trình bệnh, lúc đầu là
ho khan và ngắn, con vật có cảm giác đau. Sau đó tiếng ho ướt và kéo dài, con vật bớt
đau. Như vậy, ho là triệu chứng trường diễn trong bệnh này. Khi nghe vùng phổi, lúc
đầu thấy âm ran ướt sau thấy âm vị tóc, như vậy âm ran là triệu chứng nhất thời.
- Hội chứng: là triệu chứng chung cho nhiều bệnh, thường gồm nhiều triệu chứng
xuất hiện chồng lên nhau.
Ví dụ: Hội chứng hoàng đản, hội chứng tiêu chảy, hội chứng đau bụng ngựa, hội
chứng ure huyết,…
<b>1.3. KHÁI NIỆM VỀ TIÊN LƯỢNG VÀ PHÂN LOẠI TIÊN LƯỢNG </b>
<b>1.3.1. Khái niệm tiên lượng </b>
Tiên lượng là việc người khám đưa ra các dự kiến về thời gian kéo dài của bệnh,
các bệnh kế phát có thể xảy ra, khả năng cuối cùng của bệnh,... sau khi đã khám bệnh kĩ
lưỡng và nắm chắc tình hình bệnh. Chẩn đốn bệnh là kết luận của hiện tại, còn tiên
lượng là đưa ra các dự kiến trong tương lai.
Tiên lượng là một công việc phức tạp, địi hỏi phải có sự suy xét nhiều mặt. Tiên
lượng không chỉ đánh giá vật bệnh sống hay chết, khỏi hay khơng khỏi mà cịn phải tính
đến tốn kém bao nhiêu, có kinh tế hay khơng,... Do vậy, tiên lượng rất có ý nghĩa trong
điều trị lâm sàng thú y. Để đánh giá tiên lượng được tốt, người bác sĩ thú y phải vững về
chuyên môn, giàu kinh nghiệm công tác và am hiểu về kiến thức kinh tế, xã hội.
<b>1.3.2. Phân loại tiên lượng </b>
<i>Tiên lượng tốt:</i> Bệnh súc có khả năng khỏi bệnh, khôi phục được sức khỏe, khôi
phục được khả năng sản xuất và vẫn giữ được giá trị kinh tế.
<i>Tiên lượng không tốt:</i> Bệnh súc chết hoặc khơng có khả năng khỏi bệnh hồn toàn,
mất khả năng sản xuất hoặc mất năng lực làm việc. Nếu điều trị khỏi cũng mất nhiều
thời gian và tiêu tồn nhiều tiền của.
<i>Tiên lượng nghi ngờ:</i> là trường hợp bệnh súc có biểu hiện bệnh phức tạp, triệu
chứng khơng điển hình, khơng đủ cơ sở để đưa ra đánh giá tiên lượng về bệnh. Tuy
nhiên, một số trường hợp cần có kết luận tiên lượng để có biện pháp xử lí tiếp, nhưng
<b>1.4. PHƯƠNG PHÁP GẦN VÀ CỐ ĐỊNH GIA SÚC </b>
<b>1.4.1. Phương pháp gần gia súc </b>
Để đảm bảo an toàn cho người và gia súc, khi khám bệnh và trị bệnh cho gia súc
phải biết cách gần gia súc.
Trước khi tiếp xúc với gia súc cần phải hỏi kĩ chủ gia súc để biết được tính tình của
con vật như con vật có hay cắn, hay đá khơng?,... Người khám khi gần gia súc phải có
thái đội ơn hịa, bình tĩnh, động tác nhẹ nhàng, dứt khốt, khơng nên có những động tác
thô bạo làm cho gia súc sợ sệt, phản ứng mạnh.
Đối với chó: Để tiếp cận, người khám nên biết tên con vật và dùng thức ăn.
Đối với lợn: nên dùng thức ăn để tiếp cận.
<b>1.4.2. Phương pháp cố định gia súc </b>
<i><b>a. Ý nghĩa của việc cố định gia súc </b></i>
Để tiến hành tốt các thao tác: tiêm, lấy máu, băng bó vết thương, làm các phẫu
thuật ngoại khoa như mổ dạ cỏ, thiến trâu bò đực,... hoặc cho chúng uống thuốc, người
cán bộ thú y thường phải bắt giữ và cố định chúng (trâu, bị, lợn,…). Hiệu quả của các
cơng việc trên phụ thuộc rất lớn vào khâu cố định gia súc.
<i><b>b. Các khâu chuẩn bị để cố định gia súc </b></i>
Kiểm tra kỹ các dụng cụ dùng để cố định như dây thừng, gióng gia súc,... xem có đủ
và chắc chắn không?
Phải biết sơ qua về tính tình con vật trước khi tiếp xúc.
Phải làm quen gia súc, thao tác nhanh nhẹn, dứt khốt, tránh những động tác q
thơ bạo làm cho gia súc sợ hãi hoặc phản ứng mạnh dẫn đến khó khăn cho việc cố định
chúng.
<i><b>c. Một số phương pháp cố định gia súc </b></i>
<i>* Đối với trâu bò </i>
- Phương pháp kẹp cổ:
Chọn 2 đoạn tre hoặc 2
đoạn cây chắc chắn, chôn
xuống đất chéo nhau. Phía
trên buộc lại tạo ra một khe
vừa đủ cho trâu, bò chui qua
(cũng có thể lợi dụng những
cây có 2 chẽ phù hợp để cố
định). Khi cố định trâu, bị thít
chặt 2 dây ở 2 nút A, B. Có
một người giữ thừng mũi
(hình 1.3).
- Phương pháp cột cố định và buộc sừng hình số 8
Chọn một gốc cây tự nhiên hoặc chơn một cột gỗ chắc chắn. Ghì trán trâu, bò vào
sát cột và buộc sừng vào cột theo hình số 8, thít chặt sừng vào cột. Cần có một người
giữ mũi trâu và đầu dây thừng số 8 để trâu đứng yên khi tiêm hoặc thực hiện các thủ
thuật khác (hình 1.4)
- Phương pháp cố định đứng (Cố định trâu bò trong giá 4 trụ)
<i><b>Hình 1.4. Cột hình số 8 sừng trâu </b></i>
<i><b>vào cột hoặc gốc cây </b></i>
<i><b>Hình 1.5. Giữ trâu bị đực </b></i>
<i><b> trong giá bốn trụ để thiến </b></i>
Phần đầu và phần cổ được kẹp và buộc chặt (hình 1.5) để gia súc chỉ đứng tại chỗ,
không tiến lên, cũng không lùi lại được. Hai chân sau dùng thừng buộc theo hình số 8.
Phần ngực và bụng dùng dây thừng chắc buộc đỡ vào gióng. Khơng cho gia súc nằm
xuống để dễ dàng thực hiện phẫu thuật hoặc khám bệnh.
- Phương pháp vật trâu bò
Trong một số phẫu thuật
ngoại khoa bắt buộc phải vật
ngã trâu, bò để cố định chúng.
Có nhiều phương pháp vật
trâu bò nhưng thường dùng
phương pháp sau:
Chuẩn bị buộc: Lấy một
dây thừng thật chắc chắn dài 5
- 6m. Một đầu thừng buộc cố
định vào hai sừng gia súc,
phần còn lại cuốn lần lượt làm
2 vòng (hình dưới). Một vịng
sau nách và một vịng trước đùi gia súc. Đoạn còn lại kéo thẳng dọc theo thân gia súc.
Vật gia súc: Tiến hành theo trình tự sau: Một người khoẻ mạnh giữ 2 sừng để bẻ
đầu con vật ngược theo chiều định cho con vật ngã. Hai hoặc ba người kéo đoạn dây
<i><b>Chú ý: </b></i>
- Phải có sự thống nhất giữa người bẻ đầu gia súc và những người kéo thừng ở phía
sau. Trước khi vật phải kiểm tra mặt đất khơng gồ ghề, khơng có gạch đá và không nên
cho gia súc này ăn quá no.
- Khi con vật nằm xuống phải có người đè chặt đầu và ghìm sừng con vật xuống sát
đất. Lấy dây thừng khác buộc hai chân sau và hai chân trước của trâu bò chụm lại với
nhau. Dây thừng phải buộc sao cho khi không cần dùng nữa, cởi ra một cách dễ dàng
nhanh chóng.
* Đối với bê nghé: Người ta thường túm chân vật nằm, đè cố để cố định chúng
<i><b>Hình 1.7. Cố định nghé (túm chân vật nằm) </b></i>
<i>* Đối với dê cừu:</i> Để cố định, người ta thường đứng dọc theo chiều con vật, hai
chân kẹp vào hai thành bụng, hai tay nắm chặt sừng con vật.
<i><b>Hình 1.8. Phương pháp cố định dê </b></i> <i><b>Hình 1.9A. Phương pháp cố định lợn </b></i>
<i>* Cố định lợn: </i>
- Đối với lợn lớn: Lợn được cố định bằng cách lồng một thòng lọng vào hàm trên,
sau đó lồng tiếp thịng lọng thứ 2 quanh mõm để giữ cho hàm của nó đóng lại.
<i><b>Hình 1.9B. Phương pháp cố định lợn lớn </b></i> <i><b>Hình 1.10. Phương pháp cố định lợn </b></i>
<i><b>con (túm chân lợn kẹp giữa hai đùi) </b></i>
<i>* Cố định chó:</i>
Người ta thường dùng phương pháp đeo rọ mõm hoặc buộc mõm chó.
- Phương pháp buộc mõm chó: Đầu tiên phải đeo rọ mõm hoặc bộc mồm chó, sau
đó dùng dây vải cho vào mồm, phía trong răng nanh, rồi buộc hàm dưới lại, vòng dây
buộc lên hàm trên, cuối cùng thắt nút lại ở phía sau cổ (hình 1.11)
- Phương pháp đeo rọ mõm chó:
<i><b>Hình 1.11A. Phương pháp buộc mõm chó </b></i> <i><b>Hình 1.11B. Phương pháp đeo </b></i>
<i><b>rọ mõm chó </b></i>
<i>* Cố định gà </i>
- Đối với gà con: Đặt gà con trong lòng bàn tay trái, dùng ngón trỏ và ngón cái cố
định cổ gà để đầu gà hướng lên trên cho tiện việc nhỏ thuốc vào mắt, mũi gà hoặc cho
gà uống thuốc.
<b>1.5. CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM BỆNH </b>
Để khám bệnh cho gia súc có rất nhiều các phương pháp khác nhau. Các phương
pháp khám bệnh cho gia súc được chia làm hai nhóm gồm: các phương pháp khám cơ
bản: nhìn, sờ, nắn, gõ, nghe và các phương pháp khám bệnh đặc biệt (xét nghiệm, X -
quang, siêu âm, nội soi,... )
Phần lớn triệu chứng được phát hiện nhờ các phương pháp khám cơ bản. Tuy nhiên
khi mắc bệnh con vật cịn có những biểu hiện phi lâm sàng, những biểu hiện này chỉ có
thể phát được nhờ các phương pháp khám đặc biệt như đã nêu trên.
<b>1.5.1. Các phương pháp khám cơ bản </b>
<i><b>a. Phương pháp quan sát (nhìn) </b></i>
Đây là phương pháp khám bệnh
đơn giản nhưng chính xác, được sử
dụng rộng rãi trong lâm sàng thú y,
là phương pháp được sử dụng trước
tiên trong chẩn đoán bệnh gia súc.
Qua phương pháp này ta có thể biết
được trạng thái gia súc, cách đi
đứng, màu sắc và tình trạng lơng, da,
niêm mạc và các triệu chứng khác
của con vật. Đồng thời quan sát giúp
ta đánh giá được chất lượng đàn gia
súc, sàng lọc được những con có
nghi vấn mắc bệnh.
Khi quan sát tùy theo mục đích
và vị trí nhìn mà ta đứng xa hay đứng gần gia súc. Nhìn chung ta nên quan sát từ xa đến
gần, từ tổng quát đến từng bộ phận (hình 1.12).
- Nhìn tồn thân: là quan sát trạng thái, thái độ, cử động, tình hình dinh dưỡng, dáng
điệu,... của gia súc.
- Nhìn cục bộ: nhìn lần lượt từ trước ra sau, từ trái qua phải, lần lượt các cơ quan bộ
phận như đầu, cổ, lồng ngực, vùng bụng, bốn chân,... để phát hiện những biến đổi bất
thường nếu có như vết thương, vết loét, mụn, nốt, nước mắt, nước mũi, dử, lông rụng,…
Nên quan sát nhờ ánh sáng ban ngày, nếu buổi tối hoặc thiếu ánh sáng có thể sử
tương ứng của con vật: hai bên mông, hai bên thành bụng, hai bên ngực, hai bên chân,...
và có sự so sánh giữa cơ quan tổ chức đau với cơ quan tổ chức lành để thấy được những
biến đổi bất thường.
<i><b>b. Phương pháp sờ nắn </b></i>
Sờ nắn là phương pháp dùng
cảm giác của ngón tay, bàn tay để
kiểm tra chỗ khám, xác định nhiệt
độ, độ ẩm, trạng thái,... và sự mẫn
cảm của tổ chức cơ thể gia súc. Sờ
nắn cũng biết được cảm giác của
con vật khi đau. Qua sờ nắn người
khám cịn xác định được tình trạng
mạch của gia súc, sờ nắn để đo
huyết áp, để khám trực tràng. Do
vậy, sờ nắn là phương pháp thường
dùng trong thú y (hình 1.13).
Sờ nắn có hai cách sau:
- Sờ nắn nông: là việc sờ nắn
những cơ quan bộ phận nông để biết được ôn độ, độ ẩm của da, lực căng của cơ, tần số
hô hấp, nhịp tim,…
- Sờ nắn sâu: dùng để khám các khí quan, tổ chức sâu trong cơ thể gia súc (ví dụ:
Sờ nắn dạ cỏ trâu bị).
Khi sờ nắn kiểm tra các khí quan, tổ chức của cơ thể gia súc, nhờ cảm giác tay ta có
thể nhận biết các trạng thái sau:
- Dạng rất cứng: Như sờ vào xương.
- Dạng cứng: Như sờ vào gan, thận.
- Dạng bột nhão: Cảm giác mềm như bột, ấn tay rồi bỏ ra để lại vết. Dạng này
thường do tổ chức bị thấm ướt (ví dụ: bị thủy thũng).
- Dạng ba động: Khi sờ thấy cảm giác lùng nhùng, di động, ấn vào giữa thì lõm
xuống. Dạng này là do tổ chức mất đàn tính vì thấm đầy nước (Ví dụ: Các tổ chức bị
mưng mủ).
- Dạng khí thũng: Sờ vào thấy cảm giác mềm, chứa đầy khí. Ấn mạnh vào tổ chức
nghe thấy tiếng kêu lép bép do khí lấn sang phần tổ chức bên cạnh. Dạng này có thể do
tổ chức tích khí hoặc có túi khơng khí.
Sờ nắn là phương pháp khám bệnh đơn giản, tuy nhiên để sờ nắn mang lại hiệu quả
cao đòi hỏi người khám phải nắm vững về vị trí giải phẫu và có kinh nghiệm trong chẩn
đốn bệnh.
<i><b>c. Phương pháp gõ </b></i>
Gõ là phương pháp khám bệnh cơ bản, mà cơ sở của nó là âm hưởng, âm thanh do
các vật thể chấn động tạo ra. Các vật thể khác nhau, ở trong các trạng thái khác nhau khi
gõ sẽ cho các âm thanh khác nhau. Do vậy, các khí quan tổ chức khác nhau trong cơ thể
gia súc có cấu tạo và tính chất khác nhau nên khi gõ sẽ phát ra các âm thanh khác nhau.
Trong trạng thái bệnh lí, các cơ quan tổ chức cũng thay đổi về tính chất, khi đó âm phát
ra khi gõ sẽ thay đổi.
<i>* Kỹ thuật gõ </i>
Tùy theo gia súc cần khám bệnh lớn hay nhỏ
mà ta có thể áp dụng các phương pháp gõ sau:
<i>Gõ trực tiếp</i>: dùng ngón trỏ và ngón giữa của
tay thuận gõ theo chiều thẳng đứng (vng góc)
vời bề mặt của tổ chức khí quan cần khám. Với
cách gõ này, lực gõ không lớn, âm phát ra nhỏ,
thường áp dụng với gia súc nhỏ.
<i>Gõ gián tiếp</i>: là các phương pháp gõ qua một
vật trung gian
- Gõ qua ngón tay: dùng ngón giữa và ngón trỏ tay trái đặt sát lên bề mặt tổ chức
khí quan cần khám của gia súc, ngón giữa và ngón trỏ của tay phải gõ lên vng góc với
hai ngón tay trái. Phương pháp này thường áp dụng để khám cho các lồi gia súc nhỏ (
dê, cừu, chó, mèo,…)
- Gõ bằng búa qua bản gõ:
Búa gõ có kích thước và trọng lượng khác nhau tùy theo vóc dáng của gia súc. Đối
với gia súc nhỏ thường dùng loại búa có trọng lượng nhẹ từ 60 - 75 gam, gia súc lớn
dùng loại búa nặng hơn 120 - 160 gam (hình 1.14)
Bản gõ được làm cùng vật liệu với búa gõ, có thể bằng gỗ, sừng, nhựa hay kim loại.
Bản gõ có loại hình vng, hình trịn dài, hình chữ nhật,... sao cho thuận tiện, dễ thao
tác, áp sát được vào thân con vật.
Cách gõ: Tay trái cầm bản gõ (phiến gõ) đặt sát lên bề mặt khí quan tổ chức của gia
súc cần khám. Tay phải cầm búa gõ, gõ dứt khoát từng tiếng một. Lực gõ mạnh hay nhẹ
phụ thuộc vào tổ chức cần gõ to hay bé, ở nông hay sâu. Khi gõ mạnh, các chấn động có
thể lan trên bề mặt cơ thể từ 4 - 6cm, sâu đến 7cm, còn nếu gõ nhẹ các chấn động lan 2 -
3cm và sâu 4cm.
Khi gõ nên để gia súc ở nơi yên tĩnh, không có tạp âm để tránh làm lẫn tạp với âm
gõ. Do vậy, nên để gia súc ở trong phòng có diện tích phù hợp và đóng kín cửa.
<i>* Những âm gõ </i>
Tùy theo đặc điểm và tính chất của các tổ chức, khí quan mà có các âm gõ sau:
- Âm trong: âm này vang mạnh, âm hưởng kéo dài
Ví dụ: khi gia súc khỏe mạnh nếu ta gõ vùng phổi và vùng manh tràng thí âm phát
ra sẽ trong.
- Âm đục: âm này có tiếng vang yếu và ngắn
Ví dụ: khi gõ vùng gan hoặc vùng có bắp cơ dày sẽ phát ra âm đục. Khi phổi bị thùy
phế viêm ở giai đoạn gan hóa ta gõ cũng sẽ nghe thấy có âm đục.
- Âm đục tương đối: là âm phát ra khi ta gõ vùng rìa phổi, vùng quanh tim hoặc
vùng phổi bị xung huyết (do tổ chức phổi vừa chứa nước, vừa chứa khí),…
- Âm trống: là những âm to nhưng khơng vang
Ví dụ: âm phát ra khi ta gõ vào vùng dạ cỏ hoặc vùng manh tràng ở gia súc nhai lại
khỏe mạnh.
<i><b>d. Phương pháp nghe </b></i>
Nghe là phương pháp dùng trực tiếp
tai hoặc qua dụng cụ chuyên dụng để
nghe những âm phát ra từ các khí quan
bộ phận của của cơ thể gia súc như tim,
phổi, dạ dày, ruột,…để biết được trạng
thái và sự hoạt động của các cơ quan, bộ
phận đó.
<i>* Các phương pháp nghe: </i> có hai
phương pháp nghe
Nghe trực tiếp: là cách dùng trực tiếp
tai, áp sát vào cơ thể gia súc để nghe,
người nghe có thể dùng một miếng vải hoặc miếng khăn sạch phủ lên vùng cần nghe
trên cơ thể gia súc để giữ vệ sinh.
Khi nghe phần ngực của gia súc thì người nghe quay mặt về phía đầu gia súc, cịn
khi nghe phần bụng của gia súc thì người nghe quay mặt về phía sau của con vật. Khi
nghe tay bên trong của người nghe đặt lên sống lưng của con vật.
Nghe gián tiếp: Đây là phương pháp nghe qua ống nghe. Hiện nay người ta thường
dùng ống nghe hai loa có độ phóng đại âm thanh lớn, sử dụng thuận lợi và âm nghe
được rõ, không lẫn tạp âm (hình 1.15).
<i>* Điều kiện nghe </i>
- Để gia súc ở nơi yên tĩnh, tránh gió to, không làm gia súc rung da, gia súc phải
đứng ở tư thế thoải mái.
- Nghe lần lượt từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, ở mỗi vị trí phải nghe lâu để
xác định rõ âm thanh nghe được.
- Khi nghe phải có sự so sánh đối chiếu giữa hai bên ngực, nếu muốn nghe rõ thì
cho gia súc vận động trong vài phút.
<b>1.5.2. Các phương pháp khám đặc biệt </b>
Trong nhiều trường hợp, các phương pháp khám cơ bản không thể đưa ra những kết
luận chẩn đốn chính xác hoặc cần phải có thêm căn cứ để kết luận về bệnh thì việc sử
dụng các biện pháp khám đặc biệt là cần thiết. Các phương pháp khám đặc biệt bao gồm
các phương pháp sau
<i><b>a. Xét nghiệm </b></i>
Trong một số bệnh cụ thể cần phải
tiến hành một số xét nghiệm cận lâm
sàng (trong phịng thí nghiệm) như các
xét nghiệm máu, phân, nước tiểu, sữa,...
<i><b>b. X - quang </b></i>
Chẩn đoán X - quang là những
phương pháp dùng tia Rơnghen để khám
xét các khí quan trong cơ thể.
Những phương pháp đó dựa vào:
- Sự hấp thụ tia Rơn-ghen khác nhau của các phần tử trong cơ thể.
Do các mô hấp thụ tia Rơn-ghen khác nhau nhiều hay ít nên nó tạo ra những hình X -
quang đậm hay nhạt.
Vì tia Rơn-ghen khơng tác dụng trên võng mạc mắt nên để thấy các hình ảnh đó,
người ta phải dùng các phương pháp đặc biệt sau:
- Phương pháp chụp X - quang: dùng phim ảnh để chụp (hình 1.16).
- Phương pháp chiếu X - quang hay chiếu điện: dùng màn chiếu huỳnh quang hoặc
dùng tăng sáng truyền hình. Hiện nay, người ta không dùng chiếu X - quang dưới màn
huỳnh quang mà chỉ chiếu X - quang dưới tăng sáng truyền hình để giảm liều nhiễu xạ,
bảo vệ cho thầy thuốc và cơ thể bệnh, đồng thời cho chất lượng hình ảnh tốt hơn.
Khi cần thấy rõ chi tiết cấu tạo của một bộ phận cụ thể của cơ thể như: xương,
phổi,... người ta sử dụng phương pháp chụp X - quang. Tuy nhiên, khi muốn khám xét
các bộ phận theo đủ mọi hướng và muốn thấy sự chuyển động của các cơ quan như: nhu
động của dạ dày ruột,... người ta dùng phương pháp chiếu X - quang.
Hai phương pháp trên không mâu thuẫn với nhau mà được sử dụng kết hợp với
nhau nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của cơng tác chẩn đốn bệnh.
<i><b>c. Siêu âm </b></i>
<i>* Nguyên lý </i>
J. Curie (1880) và Lippman
(1981) đã tìm ra sóng siêu âm trên
cơ sở hiệu ứng áp điện. Trên cơ sở
tinh thể áp điện ép vào, giãn ra dưới
ảnh hưởng của dòng điện xoay chiều
tạo ra năng lượng âm học, người ta
chế tạo ra các đầu dị phát và thu
sóng siêu âm. Các sóng âm được
phát ra từ đầu dò xuyên qua các tổ
chức cơ thể, dội lại một phần năng
lượng nếu gặp các tổ chức kháng âm
của tổ chức khác nhau. Phần sóng âm cịn lại tiếp tục truyền đi và dội lại tới khi không
cịn năng lượng.
Các sóng âm dội lại trở về đầu dò phát sóng được đưa vào bộ phận tiếp nhận
khuếch đại của máy siêu âm để xuất hiện trên màn hiện sóng. Tín hiệu ghi nhận trên
màn hiện sóng phản ánh cấu trúc của tổ chức khi sóng siêu âm truyền qua như kích
thước, độ dày, biên độ di động, khoảng cách giữa các cấu trúc,…
Siêu âm là những sóng âm có tần số cao hơn 20.000 Hz, có đặc tính:
- Sự phát xạ của siêu âm
- Tính dẫn truyền của siêu âm.
- Sự phản hồi của siêu âm khi truyền qua môi trường khác nhau của các cơ quan.
- Sự suy giảm của siêu âm
<i>* Tính ưu việt của siêu âm </i>
- Phương pháp thăm dị khơng
- Khơng độc hại cho cơ thể nên
thăm dò được nhiều lần để theo dõi
diễn biến bệnh.
- Sử dụng dễ dàng và có kết
quả nhanh chóng.
<i><b>d. Nội soi </b></i>
Để chẩn đốn bệnh nhất là
bệnh đường tiêu hoá, hiện nay trong y học dùng các phương pháp nội soi: soi dạ dày - tá
tràng, soi đại tràng, soi hậu mơn - trực tràng, soi ổ bụng (hình 1.18)
<i><b>Hình 1.17. Siêu âm chẩn đốn bệnh </b></i>
Soi dạ dày - tá tràng là phương pháp thăm dị bên trong ống tiêu hố từ thực quản
đến tá tràng nhờ máy nội soi dạ dày tá tràng ống mềm.
Soi đại tràng, hậu môn - trực tràng là phương pháp chẩn đốn có sử dụng ống soi
mềm đưa từ hậu môn đi ngược lên manh tràng để quan sát tổn thương của từ hậu mơn
lên đại tràng.
<b>Tóm tắt nội dung: </b>
- Trình tự khi khám một vật nuôi mắc bệnh, tác dụng của bệnh án và bệnh lịch về
mặt nghiên cứu khoa học và hành chính pháp lý, cách hỏi bệnh đối với chủ vật ni
- Cách tiến trình khám tổng thể một con bệnh như kiểm tra niêm mạc, khám lông và
da, khám thân nhiệt,…
<b>Mục tiêu: </b>
- Cung cấp cho sinh viên những kiến thức về cách lập hồ sơ bệnh, cách ghi chép
từng phần trong hồ sơ bệnh đảm bảo tính khoa học và trung thực
- Giúp cho sinh viên có những kỹ năng khám tương ứng với mỗi một cơ quan nhất
định và có những kiến thức tổng thể vè cách khám, đánh giá một cơ quan mắc bệnh theo
sự biểu hiện khác nhau của các triệu chứng.
<b>2.1. HỎI BỆNH (hỏi chủ nhà về con vật ốm) </b>
Việc hỏi chủ nhà sẽ giúp ta có những thơng tin quan trọng ban đầu về biểu hiện
bệnh trên con vật ốm, về phương thức chăn nuôi và các lý do khác làm cho con vật ốm.
<b>2.1.1. Hỏi thông tin về con vật </b>
<i>* Nguồn gốc vật ni: lồi, giống, xuất xứ? (giống mua từ đâu về hay tự gia đình </i>
sản xuất được?).
Rất nhiều bệnh có liên quan đến các thơng tin này. Ví dụ: gà ta thường ít mắc bệnh
so với gà cơng nghiệp.
Cịn về xuất xứ: nếu giống mua ở nơi khác về thì có thể mang bệnh theo hoặc bị
mắc bệnh trong quá trình vận chuyển,...
<i>* Tuổi:</i> vật ni cịn non, trưởng thành, hay đã già? Bỏi vì có rất nhiều bệnh chỉ xảy
ra ở một độ tuổi nào đó. Ví dụ: bệnh lợn con ỉa phân trắng, bệnh giun đũa bê nghé.
<i>* Tính biệt</i>: đực hay cái?
Nếu là gia súc cái: thời gian phối giống, chửa, đẻ, sảy thai hoặc các vấn đề khác như
thế nào?
<i>* Tình trạng hiện tại của vật ni</i>: con vật cịn ăn hay bỏ ăn? có đứng, đi lại được
hay nằm lả,…
Qua các thơng tin trên có thể biết được bệnh nặng hay nhẹ và có hướng can thiệp
kịp thời.
<b>2.1.2. Hỏi biểu hiện của bệnh </b>
- Bệnh xảy ra từ khi nào?
- Tiến triển của bệnh nhanh hay chậm?
- Con vật ốm có biểu hiện gì khác thường kể từ khi bắt đầu ốm cho đến khi
kiểm tra?
- Triệu chứng ở con vật ốm?
- Có bao nhiêu con chết trong tổng đàn vật ni của gia đình?
- Bệnh đã từng xảy ra bao giờ chưa?
- Các loại vật nuôi khác trong nhà có bị bệnh khơng? Vật ni nhà hàng xóm có bị
bệnh như thế khơng?
Qua đó ta có thể biết được mức độ nặng nhẹ (chết nhiều hay ít), bệnh cấp tính (tiến
triển nhanh) hay mạn tính (tiến triển chậm), mức độ lây lan nhanh hay chậm?.
<b>2.1.3. Hỏi thông tin về môi trường xung quanh </b>
- Thức ăn, nước uống: cho vật nuôi ăn thức ăn gì? Thức ăn có thay đổi gì khơng?
Thức ăn có đủ khơng? Cách cho ăn? Nước uống có đủ sạch sẽ không?
- Phương thức chăn nuôi: nuôi nhốt hay thả rơng?
- Chuồng ni: có khơ ráo khơng? có vệ sinh sạch sẽ? có thường xuyên tắm chải
cho vật ni khơng? mật độ ni, nhốt có q đơng khơng?
- Có nhập đàn vật ni mới khơng?
- Có mua thịt hoặc sản phẩm chăn ni ở chợ mang về nhà khơng?
- Có khách đến tham quan khơng?
Qua các thơng tin trên, ta có thể định hướng được: liệu có phải là bệnh do nguyên
nhân chăm sóc, ni dưỡng và sử dụng, hoặc có thể do bệnh lây lan từ xung quanh qua
người hoặc động vật khác (nhất là đối với các bệnh truyền nhiễm).
<b>2.1.4. Tác động của chủ vật nuôi </b>
- Đã phòng vacxin cho con vật chưa? tên vacxin? ai tiêm và tiêm khi nào?
- Có cách ly con vật ốm khơng?
Qua đó ta có thể loại bỏ khả năng xảy ra của các bệnh đã được phịng bằng vacxin
cũng như khơng lặp lại phác đồ điều trị của người trước và giúp định hướng cho việc
<b>2.2. KHÁM CHUNG </b>
<b>2.2.1. Quan sát bên ngoài con vật ốm </b>
Quan sát để xem tình trạng con vật tại chuồng nuôi và các biểu hiện khác thường
của nó, đồng thời kiểm tra lại những thơng tin đã được cung cấp từ chủ vật ni.
<i><b>a. Tình trạng hiện tại </b></i>
- Tư thế của con vật: đi đứng có bình
thường khơng? có chân nào bị liệt hay bị
đau không? đau ở chỗ nào? Trong trường
hợp con vật bị viêm khớp hoặc tổn thương
ở các cơ quan vận động hay bị bệnh lở
mồm long móng thì đi lại rất khó khăn và
con vật có biểu hiện đau.
- Con vật có cịn tỉnh táo hay mệt mỏi,
nằm lả, ủ rũ? (hình 2.1) Nếu nằm bệt một
chỗ thì tư thế nằm như thế nào?
- Con vật gầy hay béo? Trong một số
bệnh mạn tính, bệnh do ký sinh trùng và
bệnh do dinh dưỡng thì con vật sẽ gầy
cịm, ốm yếu.
- Bụng con vật như thế nào? Có bị
chướng bụng khơng? Ví dụ: trâu bò bị
- Các lỗ tự nhiên (mắt, lỗ mũi, lỗ đái,
hậu mơn,...) của con vật có dịch viêm chảy
ra không? Trong nhiều bệnh, nhất là khi bị
viêm nhiễm, các lỗ tự nhiên sẽ có dịch
viêm, mủ, thậm chí lẫn cả máu chảy ra. Ví dụ: khi bị bệnh nhiệt thán, các lỗ tự nhiên
của trâu bò thường chảy máu đen khó đơng, khi bị viêm phổi nước mũi chảy nhiều
(hình 2.2)
<i><b>b. Lơng, da </b></i>
- Mượt hay xơ xác? Sạch hay bẩn?
<i><b>Hình 2.1 Con vật ủ rũ </b></i>
- Da có chỗ nào bị sưng khơng?
- Màu sắc của da có thay đổi gì
khơng?
- Da có điểm, đám tụ huyết hay
xuất huyết khơng?
- Có tổn thương gì trên da
khơng?
- Có ký sinh trùng ngoài da
khơng?
Trong nhiều bệnh, trên da sẽ có
các dấu hiệu rất điển hình. Ví dụ:
lợn bị 1 trong 4 bệnh đỏ thì trên da sẽ
có các điểm tụ huyết hoặc xuất huyết
(hình 2.3)
<i><b>c. Hô hấp </b></i>
Con vật thở như thế nào? có khó
thở không? cách thở ra sao? nhịp thở
nhanh hay chậm? Có bị ho không?
Các triệu chứng trên thường có ở
một số bệnh về đường hơ hấp. Ví dụ:
khi bị bệnh viêm phổi con vật thường
khó thở (hình 2.4)
<b>2.2.2. Kiểm tra phân </b>
- Trạng thái của phân có bình
thường khơng? có bị nhão? lỏng? táo.
- Màu sắc của phân có thay đổi
khơng?
- Trong phân có lẫn mủ, máu,
màng nhầy khơng
- Trong phân có lẫn giun, sán
- Trong phân có lẫn thức ăn chưa
tiêu hố khơng
- Phân có mùi thối khắm khơng?
<b>2.2.3. Kiểm tra nước tiểu </b>
<i><b>Hình 2.3. Xuất huyết dưới da </b></i>
<i><b>Hình 2.4. Thở khó thè lưỡi </b></i>
- Số lượng nước tiểu nhiều hay ít?
- Trong nước tiểu có lẫn máu, mủ khơng?
- Màu sắc của nước tiểu có thay đổi khơng? (vật nuôi bị xuất huyết nặng ở thận
hoặc bị bệnh ký sinh trùng đường máu thì nước tiểu có màu đỏ hoặc nâu đỏ).
<b>2.3. SỜ NẮN VÀ KHÁM CÁC CƠ QUAN </b>
<b>2.3.1. Khám hạch lâm ba </b>
Khám hạch lâm ba rất có ý nghĩa trong chẩn đốn bệnh truyền nhiễm, nhất là trong
bệnh lao hạch, bệnh tị thư, bệnh lê dạng trùng, ở những bệnh này sự thay đổi hạch lâm
ba rất đặc hiệu.
Trong cơ thể có rất nhiều hạch lâm ba, nhưng ta chỉ khám được các hạch nằm dưới
da. Khi gia súc ốm một số hạch sẽ sưng to.
<i><b>a. Phương pháp khám: nhìn, sờ nắn, chọc dò khi cần thiết </b></i>
- Trâu, bò: thường khám hạch dưới hàm, hạch trước vai, hạch trước đùi, hạch trên vú.
Hạch trên vú: ở bò sữa hạch này nằm dưới chân bầu vú về phía sau (hình 2.6)
Hạch dưới hàm ở trâu, bị nằm ở phía trong phần sau xương hàm dưới, to bằng nhân
quả đào, tròn và dẹp. Khi bị lao hạch cổ, hạch trên lỗ tai, hạch hầu nổi rõ có thể sờ
được.
- Ngựa: thường khám hạch dưới hàm, hạch trước đùi.
Ở ngựa hạch dưới hàm hình bao dài, to bằng ngón tay trỏ, nằm dọc theo mặt trong
hai xương hàm dưới hai bên, sau gờ động mạch dưới hàm. Khi có bệnh hạch bên tai,
hạch cổ, hạch trước vai nổi rõ.
Khi khám hạch dưới hàm, người khám đứng bên trái hoặc bên phải gia súc tùy theo
cần khám hạch nào, một tay cầm dây cương hay dây thừng, tay còn lại sờ hạch. Thế
thuận lợi là ngưới khám đứng bên trái gia súc tay trái cầm dây cương, tay phải khám.
Hạch trước vai: ở trên khớp bả vai một ít, mặt dưới chùm cơ vai. Dùng cả bốn ngón
tay ấn mạnh vào mặt trước chùm cơ bả vai, lần lui tới sờ tìm hạch. Những gia súc béo
thường khó khám.
Hạch trước đùi to bằng hạt mít, nằm dưới phần trùng mặt trước cơ căng mạc đùi. Lúc
khám một tay để lên sống lưng làm điểm tựa, tay còn lại theo vị trí trên lần tìm hạch.
<i><b>Chú ý: Cần cố định gia súc để khám, nhất là ngựa hay đá về phía sau. </b></i>
- Lợn, chó, mèo: thường khám hạch bẹn trong. Các hạch khác thường ở sâu khó sờ
thấy.
<i><b>b. Những triệu chứng ở hạch cần chú ý </b></i>
- Hạch sưng cấp tính: Thể tích hạch to, nóng, đau và cứng, các thùy nổi rõ mặt trơn
và ít di động. Hạch sưng trong các bệnh truyền nhiễm cấp tính, do những bộ phận gần
hạch bị viêm (như viêm mũi, viêm thanh quản) làm hạch dưới hàm sưng. Trâu, bò bị lê
dạng trùng, hạch dưới hàm, hạch cổ, hạch trên vú sưng rất rõ.
- Hạch hóa mủ: thường do viêm cấp tính phát triển thành. Lúc đầu hạch sưng, nóng,
đau, sau đó phần giữa nhũn, phồng cao, bùng nhùng, lông dựng và hạch thường vỡ hoặc
lấy kim chọc thì có mủ chảy ra.
Ở ngựa hạch dưới hàm sưng to, hóa mủ, chung quanh hạch viêm thẩm ướt là triệu
chứng của bệnh viêm hạch lâm ba truyền nhiễm. Nếu mủ trong hạch ít, tổ chức quanh
hạch không viêm thường do lao hay tị thư.
Cũng có trường hợp hạch hóa mủ là do tổ chức đó bị viêm lâu ngày.
- Hạch tăng sinh và biến dạng: do viêm mãn tính, tổ chức tăng sinh viêm dính với tổ
chức lành xung quanh làm thể tích hạch to khơng di động được, ấn vào không thấy đau,
mặt hạch không đều. Ở ngựa thấy triệu chứng trên trong bệnh tỵ thư, viêm xoang mũi
mãn tính. Ở bị thấy do lao hạch, xạ khuẩn. Các hạch toàn thân sưng to thường do bệnh
bạch huyết (leucosia).
Ở lợn: Hạch cổ, hạch sau hầu sưng cứng thường thấy do bệnh lao.
<b>2.3.2. Khám phần đầu </b>
- Khám miệng: dùng miếng vải kéo lưỡi con vật ra khỏi miệng. Khám trong miệng
xem có dị vật gì khơng? Miệng, lưỡi có bị tổn thương gì khơng?
- Khám mắt, mũi: xem có dị vật khơng? có viêm, sưng khơng? màu sắc niêm mạc
như thế nào?
<b>2.3.3. Khám phần chân </b>
- Khớp: có bị viêm khơng?
- Gầm bàn chân có dị vật khơng?
- Vành móng, kẽ móng: có mụn nước? có tổn thương khơng?
<b>2.3.4. Khám cơ quan sinh dục </b>
- Có dịch viêm, mủ, máu chảy ra khơng?
- Gia súc đẻ thì có bị sót nhau? có bị sát nhau? lộn tử cung không?
<b>2.3.5. Khám vú </b>
- Sờ nắn bầu vú gia súc cái xem có bị sưng, nóng, đỏ, đau hoặc có mụn nước lở lt
khơng?
<b>- Tuyến sữa có bình thường khơng? có mủ, máu chảy ra từ tuyến sữa không? </b>
<b>2.4. KHÁM THÂN NHIỆT </b>
Thân nhiệt cao hay thấp được coi là triệu chứng bệnh quan trọng.
Có thể căn cứ vào thân nhiệt để chẩn đốn là bệnh cấp tính hay mãn tính, bệnh nặng
hay bệnh nhẹ (bệnh cấp tính có thân nhiệt cao, còn bệnh mạn tính thân nhiệt thường
khơng cao)
Dựa vào thân nhiệt có thể chẩn đoán phân biệt giữa bệnh truyền nhiễm với hiện
tượng trúng độc (bệnh truyền nhiễm thân nhiệt tăng cao, trúng độc thân nhiệt không
tăng so với bình thường).
Dựa vào thân nhiệt hàng ngày để theo dõi kết quả điều trị và tiên lượng (bớt sốt từ
từ thường do điều trị đúng và tiên lượng tốt. Nếu đang sốt cao thân nhiệt đột ngột tụt
xuống là triệu chứng xấu)
<b>2.4.1. Thân nhiệt bình thường </b>
Động vật có vú, gia cầm thân nhiệt ổn định ngay cả khi điều kiện môi trường sống
thay đổi.
Trong điều kiện chăn nuôi giống nhau, thân nhiệt gia súc non cao hơn gia súc
trưởng thành, gia súc già. Thân nhiệt ở con cái cao hơn con đực. Trong một ngày đêm
thân nhiệt thấp lúc sáng sớm (1 - 5 giờ), cao nhất vào buổi chiều (16 - 18 giờ). Mùa hè,
trâu bò làm việc dưới trời nắng gắt thân nhiệt có thể cao hơn bình thường (1,0 - 1,80C).
Thân nhiệt dao động trong vòng 10C nằm trong phạm vi sinh lý; nếu vượt quá 10C, kéo
dài sẽ ảnh hưởng các hoạt động của cơ thể.
<i>* Cách đo thân nhiệt: </i>
Trước khi dùng nhiệt kế
người ta thường vẩy mạnh cho
cột thủy ngân tụt đến vạch cuối
cùng. Đo thân nhiệt ở trực
tràng, con cái khi cần có thể đo
ở âm đạo. Thân nhiệt đo ở trực
tràng thấp hơn nhiệt độ của
máu 0,5 - 1,00C, ở âm đạo thấp
hơn ở trực tràng 0,2 - 0,50C,
nhưng lúc có chửa lại cao hơn
0,50C.
Trong một ngày đo thân
nhiệt vào buổi sáng lúc 7 - 9
giờ, buổi chiều lúc 16 - 18 giờ
- Đo thân nhiệt trên trâu, bị: khơng cần cố định gia súc. Một người giữ dây thừng hoặc
cột lại, người đứng sau gia súc tay trái nâng đuôi lên, tay phải đưa nhẹ nhiệt kế vào trực
tràng hơi hướng về phía dưới. Nhiệt kế lưu lại trong trực tràng khoảng 5 phút (hình 2.7).
- Đo thân nhiệt lợn, chó, mèo, dê, cừu: để gia súc đứng hoặc cho nằm,
- Gia cầm giữ nằm để đo.
- Đo thân nhiệt ngựa: cần thận trọng vì ngựa rất mẫn cảm và đá về phía sau. Cho
ngựa vào gióng cố định cẩn thận. Người đo đứng bên trái gia súc, trước chân sau, mặt
quay về phía sau gia súc. Tay trái cầm đi bắt quay về phía sau và giữ lên trên xương
khum. Tay phải cho nhiệt kế vào trực tràng, hơi nghiêng về phía trên một tý, lần nhẹ
nhiệt kế về phía trước.
<i><b>Thân nhiệt bình thường của vật ni </b></i>
Lồi gia súc Thân nhiệt (0C)
Bị
Trâu
Ngựa
Cừu, dê
Lợn
Chó
Mèo
Thỏ
Gà
Vịt
37,5 - 39,5
37,0 - 38,5
37,5 - 38,5
38,5 - 40,0
38,0 - 40,0
37,5 - 39,0
38,0 - 39,5
38,5 - 39,5
40,0 - 42,0
41,0 - 43,0
38,5 - 38,7
40,0 - 41,0
41,0 - 43,0
37,5 - 38,5
<b>2.4.2. Rối loạn thân nhiệt </b>
Khi cơ thể ở trong trạng thái bệnh lý, thân nhiệt sẽ bị thay đổi. Trên lâm sàng
thường thấy có hai sự thay đổi: Thân nhiệt cao hơn bình thường (sốt), thân nhiệt thấp
hơn bình thường (hạ thân nhiệt).
<i><b>a. Sốt: sốt là phản ứng toàn thân đối với tác nhân gây bệnh mà đặc điểm chủ yếu là </b></i>
cơ thể sốt (thường gặp khi cơ thể bị nhiễm khuẩn). Q trình đó là do tác động của vi
khuẩn, độc tố của nó và những chất độc khác hình thành trong quá trình bệnh. Những
<i>* Cơ chế sốt: </i>
Do nhiều nhân tố kích thích (vi khuẩn và độc tố của nó, virus, nấm, phản ứng miễn
dịch, các hormon, thuốc, các sản phẩm phân hủy của tổ chức,…) gọi chung là chất sinh
nhiệt ngoại sinh.
Chất sinh nhiệt ngoại sinh tác động qua một chất sinh nhiệt nội sinh. Lý luận này rút
ra từ những kết quả thực nghiệm trên động vật thí nghiệm. Chất sinh nhiệt đồng chất với
Interleukin - I, sản phẩm tế bào đơn nhân của tế bào đơn nhân (monocyte) và đại thực
bào. Sản sinh chất sinh nhiệt/IL - I là khởi phát nhiều phản ứng - đáp ứng của giai đoạn
cấp tính.
Chất sinh nhiệt/IL - I gắn với các nơron cảm nhiệt vùng dưới đồi dẫn đến tăng đột
ngột quá trình sinh nhiệt trong cơ bắp (rùng mình), sau đó giảm mất nhiệt (co mạch
ngoài da).
Ở bên trong vùng dưới đồi, chất sinh nhiệt/IL - I kích thích quá trình tổng hợp
prostaglandin E1(PG E1) từ các axit của các màng tế bào hoạt hóa sinh nhiệt và giải
nhiệt.
Chất sinh nhiệt/IL - I có vai trị chủ chốt trong kích thích đáp ứng miễn dịch: nó
hoạt hóa các tế bào T hỗ trợ tổng hợp Interleukin 2 kích thích đáp ứng miễn dịch tế bào
T đơn dịng. IL/I kích thích tăng sinh tế bào B và tăng sản xuất kháng thể đặc hiệu. IL -
I kích thích tủy xương tăng sinh bạch cầu trung tính và monocyte. Hoạt hóa các tế bào
trên, kích thích oxy hóa diệt khuẩn của tế bào trung tính. IL - I gây cảm ứng làm giảm
cường độ sắt và kẽm trong huyết tương, những nguyên tố rất cần cho vi khuẩn phát
triển. Ở các cơ bắp với vai trò trung gian của men clo - oxygenaza và PG E1, protein bị
<i>* Những triệu chứng thường thấy khi sốt: </i>
- Hệ tim mạch: Tim đập nhanh, mạch nảy, sốt cao hơn 10<sub>C thì tần số mạch tăng từ </sub>
8 - 10 lần. Khi hạ sốt mạch giảm, hệ số mạch không giảm, chú ý suy tim. Sốt cao gây
suy tim, huyết áp hạ, ứ máu toàn thân. Những hiện tượng này thường ít thấy ở gia súc.
Chú ý trong các bệnh truyền nhiễm ở gia súc, như nhiệt thán ở trâu bò, dịch tả ở lợn, do
sốt cao và xuất huyết toàn thân nên cơ thể có triệu chứng chống, mạch tăng nhanh, gia
súc chết.
- Thở nhanh và sâu: là phản ứng tỏa nhiệt.
<i><b>b. Thân nhiệt quá thấp (thân nhiệt thấp dưới mức bình thường). Thân nhiệt thấp </b></i>
dưới mức bình thường khoảng 10C thường gặp trong các bệnh thần kinh ức chế nặng:
Bò liệt sau khi đẻ, chứng xeton huyết, viêm não tủy, một số trường hợp trúng độc, mất
nhiều máu, thiếu máu nặng, suy nhược. Thân nhiệt hạ thấp 2 - 30<sub>C, có lúc đến 4</sub>0<sub>C thấy </sub>
ở ngựa vỡ dạ dày, vỡ ruột. Thân nhiệt quá thấp, da ra mồ hôi lạnh, tim đập yếu, tần số
hô hấp giảm.
<i><b>Ghi nhớ: </b></i>
- Muốn biết được bệnh phải khám bệnh
<b>Tóm tắt nội dung: </b>
- Trình tự khi khám các khí quan trong cơ thể của một vật nuôi mắc bệnh
- Hoạt động bình thường của các khí quan và những rối loạn bệnh lý khi các khí
quan đó bị bệnh.
<b>Mục tiêu: </b>
Giúp cho sinh viên có những kiến thức khi khám các khí quan trong cơ thể vật ni
mắc bệnh, các chỉ tiêu khi các khí quan hoạt động bình thường và những rối loạn bệnh
lý của các khí quan đó. Từ đó dùng làm cơ sở giúp cho việc chẩn đoán bệnh.
<b>3.1. KHÁM HỆ TIM MẠCH </b>
Bệnh ở hệ tim mạch gia súc không nhiều,
nhưng do hoạt động của hệ tim mạch liên
quan mật thiết với các khí quan khác trong cơ
thể nên bệnh ở các khí quan khác ít nhiều ảnh
hưởng đến hệ tim mạch. Vì vậy, khám hệ tim
mạch để định mức độ tổn thương ở tim mạch,
mức độ rối loạn tuần hồn máu khơng chỉ có
ý nghĩa chẩn đoán bệnh mà cịn có ý nghĩa
lớn về mặt tiên lượng bệnh.
<b>3.1.1. Sơ lược về hệ tim mạch </b>
<i><b>a. Thần kinh tự động của tim </b></i>
Ngoài sự điều tiết và chi phối của vỏ đại
Hệ thống thần kinh tự động của tim:
- Nốt Keith - Flack ở phần trước vách tâm nhĩ phải, nơi tĩnh mạch chủ đổ vào.
- Nốt Aschoff - Tawara ở vào phần dưới vách nhĩ thất, nên cịn gọi là nốt nhĩ thất.
- Bó Hiss bắt nguồn từ nốt Aschoff - Tawara, chia làm 2 nhánh trái và phải.
- Chùm Parkinje do hai nhánh bó Hiss phân ra và tận cùng ở cơ tâm thất.
Hưng phấn bắt nguồn từ nốt Keith - Flack, truyền đến tâm nhĩ, theo cơ tâm nhĩ đến
nốt Aschoff - Tawara. Tâm nhĩ bóp. Sau đến nốt Aschoff - Tawara, hưng phấn truyền
nhanh đến bó Hiss, chùm Purkinje và sau tâm nhĩ bóp tâm thất bóp.
<i><b>b. Thần kinh điều tiết hoạt động của tim </b></i>
<b> Tim hoạt động chịu sự điều tiết của hoạt động thần kinh giao cảm và phó giao cảm. </b>
Thần kinh giao cảm đến từ nốt thần kinh sao (Ganglion stellatum), còn gọi là thần kinh
tăng nhịp tim. Thần kinh phó giao cảm đến từ thần kinh mê tẩu và còn gọi là thần kinh
ức chế tim đập.
Thần kinh mê tẩu tới từ nốt Keith - Flack, Aschoff - Tawara và cơ tim. Nhánh thần
kinh mê tẩu bên phải hưng phấn làm tim đập chậm, vì nó liên hệ chặt với nốt Keith -
Flack, còn thần kinh nhánh bên trái phân bố chủ yếu đến nốt Aschoff - Tawara, nên
hưng phấn của nó ức chế dẫn truyền giữa nhĩ thất làm tim đập yếu hoặc ngừng.
Thần kinh giao cảm bên phải tác động chủ yếu ở tâm nhĩ; nhánh bên trái chủ yếu
chi phối tâm thất. Thần kinh giao cảm hưng phấn làm tim đập nhanh và mạnh.
Vỏ đại não điều tiết trung khu dưới khâu não, sau đó là trung khu ở hành tuỷ. Trung
khu ở hành tuỷ điều tiết hoạt động của tim thông qua thần kinh giao cảm và phó giao cảm.
<i><b>c. Thần kinh điều tiết mạch quản </b></i>
Trung khu điều tiết vận mạch ở hành tuỷ và dọc tuỷ sống. Những trung khu này tự
hoạt động và vẫn có sự điều tiết của vỏ đại não. Xung động từ các trung khu theo thần
kinh vận động mạch quản, theo tình trạng tuần hồn của cơ thể mà kích thích mạch
quản mà mạch quản co hay giãn mạch. Thần kinh làm co mạch do dây giao cảm phân
ra; còn thần kinh giãn mạch, một phần do dây giao cảm, một phần do dây phó giao cảm
phân thành.
<i>* Điều tiết hoạt động cơ năng của tim: </i>
Tim tuy có khả năng phát sinh rung động và tự động co bóp, nhưng mọi hoạt động
của nó đều thơng qua hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm với sự khống chế và điều
tiết của thần kinh trung ương.
Thần kinh giao cảm tăng cường nhịp đập tim, cường độ tim co bóp và tác dụng tăng
cường dinh dưỡng; nó cịn tăng cường tính hưng phấn và khả năng dẫn truyền của cơ
tim. Thần kinh phó giao cảm làm tim đập chậm và yếu lại, ức chế tính hưng phấn và dẫn
truyền của cơ tim.
Huyết áp cao, qua cơ quan thụ cảm hoặc bằng phản xạ kính thích trung khu thần
kinh điều tiết hoạt động của tim và độ căng mạch quản cho phù hợp điều tiết huyết áp.
<i>* Tham gia điều tiết hệ tim mạch cịn có </i>
Các chất từ trong thận, đặc biệt là Renin tác dụng biến Hypertensinogen thành
<i><b>d. Vị trí của tim </b></i>
Tim trâu bị: 5/7 quả tim ở bên trái, đáy nằm ngang nửa ngực. Đỉnh tim ở phần sụn
của sườn 5, cách xương ngực 2cm. Mặt trước tim tới xương sườn 3, mặt sau xương
sườn 6, tim sát vách ngực khoảng sườn 3 - 4cm; phần còn lại bị phổi bao phủ.
Tim dê, cừu: trong lồng ngực giống tim trâu bò, nhưng cách xa thành ngực hơn.
Tim ngựa: 3/5 ở trên bên trái; đáy ở nửa ngực, đỉnh tim ở dưới, nghiêng về bên trái,
cách xương ngực 2cm. Mặt trước tim đến gian sườn 2, mặt sau đến gian sườn 6. Bên
phải tim ứng với gian sườn 3 - 4.
Tim lợn: khoảng 3/5 quả tim ở bên trái ngực, đáy tim ở giữa, đỉnh tim về phía dưới
đến chỗ tiếp giáp giữa phần sụn của sườn 7 và xương ức, cách xương ức khoảng 1,5cm
Tim chó: khoảng 3/5 quả tim nằm bên trái, đáy tim nằm ở giữa ngực; đỉnh tim
nghiêng về phía sau, xuống dưới đến phần sụn của sườn 6 - 7, có con đến sụn sườn 8,
cách xương ức 1cm.
<b>3.1.2. Khám tim </b>
<i><b>a. Nhìn vùng tim </b></i>
Chú ý tim đập động là hiện tượng chấn động thành ngực vùng tim, do tim co bóp
gây nên chấn động. Ở động vật lớn (trâu bò, ngựa, lạc đà) tim đập động do thân quả tim
đập vào lồng ngực; ở gia súc nhỏ lại do đỉnh quả tim.
Có thể thấy rõ tim đập động ở những gia súc gầy, nhất là chó.
<i><b>b. Sờ vùng tim </b></i>
Áp tay vào vùng tim. Chú ý vị trí, cường độ thời gian tim đập và tính mẫn cảm.
Sờ tim đập động ở gia súc lớn: bên trái khoảng xương sườn 3 - 4 - 5. Trâu bò lớn, vùng
tim đập động rộng khoảng 5 - 7cm2<sub>,</sub><sub>con nhỏ: 2 - 4cm</sub>2<sub>, ngựa: 4 - 5cm</sub>2<sub>.</sub><sub>Lợn gầy, vùng tim </sub>
đập động 3 - 4cm2 chó mèo, gia súc nhỏ khác tim đập động ở khoảng sườn 3 - 4.
Thể vóc gia súc, độ béo ảnh hưởng rất lớn đến tim đập động.
- Tim đập động phụ thuộc lực cơ tim co bóp, tình trạng tổ chức dưới da ngực và độ
dày của thành ngực
Tim đập động yếu: lực đập yếu, diện tích đập động hẹp. Trường hợp này thường do
thành ngực thuỷ thũng, lồng ngực tích nước, phổi khí thũng, tim suy.
Vị trí tim đập động có thể thay đổi khi dạ dày giãn, dạ cỏ chướng hơi, ruột chướng
hơi, thoát vị cơ hồnh (vùng tim đập động dịch về phía trước).
Xoang ngực trái tích nước, tích khí vùng tim đập động xuất hiện bên phải gia súc.
- Vùng tim đau: khi sờ thì gia súc tránh, rên, tỏ ra khó chịu. Hiện tượng này thường
do viêm bao tim, viêm màng phổi.
- Tim đập động âm tính: là lúc tim đập cùng với hiện tượng chấn động, thành ngực
hơi lõm vào trong. Tim đập âm tính thường do viêm bao tim, thành ngực và tổ chức
xung quanh dính lại với nhau.
- Tim rung (cordialis): là những chấn động nhẹ vùng tim. Tim rung thường do bệnh
ở van tim hoặc bao tim, lỗ động mạch chủ hoặc lỗ nhĩ thất trái hẹp.
<i>* Chú ý phân biệt</i>: nếu chấn động nhẹ vùng tim gắn liền cùng với hai kỳ hoạt động
của tim, là do bệnh ở van tim hoặc ở bao tim; nếu gắn liền với hai nhịp thở thường do
màng phổi, do viêm màng phổi sần sùi cọ sát gây nên.
<i><b>c. Gõ vùng tim </b></i>
Thường gõ vùng tim ngựa, chó. Với các lồi gia súc khác, do thành ngực dày,
xương sườn to, gõ vùng tim khơng có giá trị chẩn đoán.
Vùng âm đục tuyệt đối của tim là vùng mà tim và thành ngực tiếp giáp với nhau.
Vùng bao quanh - giữa tim và thành ngực có lớp phổi xen, là vùng âm đục tương đối.
Cách gõ: gia súc lớn để đứng, kéo chân trái trước về trước nửa bước để lộ rõ vùng
tim, gia súc nhỏ để nằm. Theo gian sườn 3 gõ từ trên xuống; đánh dấu các điểm âm gõ
thay đổi. Sau đó, theo gian sườn 4, 5, 6 gõ và ghi lại các điểm như trên. Nối các điểm lại
sẽ có hai vùng: âm đục tuyệt đối ở trong, bao quanh là vùng âm đục tương đối.
Ở trâu, bị chỉ có vùng âm đục tương đối giữa gian sườn 3 và 4. Vùng âm đục tuyệt
đối chỉ xuất hiện khi tim to hoặc do viêm bao tim.
Ở ngựa: vùng âm đục tuyệt đối là một tam giác mà đỉnh ở gian sườn 3, dưới đường
ngang kẻ từ khớp vai 2 - 3cm, cạnh trước cơ khuỷu giới hạn; cạnh sau là một đường
cong đều kéo từ đỉnh đến mút xương sườn 6. Vùng âm đục tương đối bao quanh vùng
âm đục tuyệt đối, rộng khoảng 3 - 5cm. Vùng âm đục ở dê, cừu giống ở trâu bò. Ở lợn
thường khơng xác định được vùng âm đục.
Chó: vùng âm đục tuyệt đối ở khoảng gian sườn 4 - 5
<i>*Các triệu chứng cần chú ý: </i>
- Vùng âm đục mở rộng về phía trên và phía sau một hay hai xương sườn là do tim
- Vùng âm đục di chuyển (Giống phần “Sờ nắn vùng tim”).
- Âm bùng hơi: do bao tim viêm, vi khuẩn lên men sinh hơi tích trong bao tim.
- Gõ vùng tim đau: thường do viêm màng phổi, viêm bao tim, viêm cơ tim.
<i><b>d. Nghe tim </b></i>
<i>* Tiếng tim </i>
Khi tim đập phát ra hai tiếng “Pùng - pụp” đi liền nhau. Tiếng thứ nhất phát ra lúc
tim bóp, gọi là tiếng tâm thu; tiếng thứ hai phát ra lúc tim giãn gọi là tiếng tâm trương.
Tiếng tâm thu do: tiếng tâm nhĩ co bóp đẩy máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất; tiếng do
cơ tâm thất căng do máu từ tâm nhĩ xuống, tiếng động mạch chủ, động mạch phổi căng
ra lúc máu từ tim dồn vào và thành phần chủ yếu tạo thành tiếng tâm thu là do van nhĩ
thất trái phải đóng lại gây ra.
Tiếng tâm trương do van động mạch chủ và van động mạch phổi đóng lại tạo thành.
Giữa thứ tiếng thứ nhất và thứ tiếng thứ hai có quãng nghỉ ngắn (ở chó: 0,2 giây); sau
tiếng thứ hai là quãng nghỉ dài (ở chó: 0,45 giây). Một chu kỳ tim đập được tính từ tiếng
thứ nhất đến hết quãng nghỉ dài.
<i>Những căn cứ để phân biệt hai tiếng tim: </i>
Tiếng thứ nhất dài và trầm, tiếng thứ hai ngắn và vang. Quãng nghỉ sau tiếng thứ
nhất ngắn, quãng nghỉ sau tiếng thứ hai và trước tiếng thứ nhất dài. Tiếng thứ nhất rõ ở
đỉnh tim, tiếng thứ hai ở đáy tim. Tiếng tim thứ nhất xuất hiện lúc tim bóp, đồng thời
với động mạch cổ đập; tiếng thứ hai sau một lúc.
Ở gia súc nhỏ, vì tim đập nhanh, hai quãng nghỉ gần giống nhau nên căn cứ mạch
đập xuất hiện cùng với lúc nào tim đập để phân biệt.
<i>* Tiếng tim thay đổi </i>
Tiếng tim thứ hai tăng: do huyết áp trong động mạch chủ tăng và huyết áp trong
động mạch phổi tăng. Huyết áp động mạch chủ tăng lúc viêm thận, tâm thất trái nở dày.
huyết áp động mạch phổi tăng do phổi khí thũng, viêm phổi, van hai lá đóng khơng kín,
lỗ nhĩ thất trái hẹp.
Tiếng tim thứ nhất giảm: do viêm cơ tim, cơ tim bị biến tính, tim giãn
Tiếng tim thứ hai giảm: do van động mạch chủ hay van động mạch phổi đóng
khơng kín
Tiếng tim tách đôi: một tiếng tim tách làm hai bộ phận đi liền nhau. Nếu tiếng tim
tách hai bộ phận không rõ ràng gọi là tiếng tim trùng phục. Tiếng tim kéo dài, tiếng tim
trùng phục, tiếng tim tách đơi chỉ là một q trình bệnh lý và ý nghĩa chẩn đoán như
nhau. Nguyên nhân là ở cơ tim và thần kinh tim điều tiết hoạt động khiến hai buồng tâm
thất không cùng co giãn.
Tiếng tim thứ nhất tách đôi: do hai buồng tâm thất khơng cùng co bóp, van hai lá,
van ba lá khơng cùng đóng gây nên. Do một buồng tâm thất thối hố hay nở dày hoặc
một bên bó Hiss trở ngại dẫn truyền.
Tiếng tim thứ hai tách đôi: do van động mạch chủ và van động mạch phổi khơng
đóng cùng một lúc. Huyết áp động mạch chủ hay huyết áp động mạch phổi thay đổi và
bên nào huyết áp tăng, áp lực cảm thụ lớn, buồng tâm thất bên đó co bóp trước. Ngồi
ra cịn do nguyên nhân các van nhĩ thất, lỗ nhĩ thất khơng bình thường, độ đầy máu hai
Tiếng ngựa phi (Gallop rhythm): tiếng tim thứ nhất, tiếng tim thứ hai và kèm theo
một tiếng tim thứ ba, khi tim đập có nhịp điệu ngựa phi. Thường có các trường hợp sau:
- Tiếng ngựa phi tiền tâm thu: tiếng phụ xuất hiện trước kỳ tim bóp và trước tiếng
thứ nhất. Nguyên nhân do bó Hiss dẫn truyền trở ngại, xung động từ tâm nhĩ xuống tâm
thất chậm, tâm nhĩ co bóp sớm khơng liền với tâm thất co bóp tạo nên tiếng phụ.
- Tiếng ngựa phi tâm thu: tiếng phụ liền sau tiếng thứ nhất. Nguyên nhân là do một
nhánh của bó Hiss thối hoá, xung động từ tâm nhĩ xuống buồng tâm thất trở ngại,
buồng tâm thất ấy đập chậm tạo ra tiếng phụ.
- Tiếng ngựa phi tâm trương: tiếng phụ xuất hiện kỳ nghỉ, lúc tim giãn. Nguyên
nhân có thể do tâm thất nhão, máu chảy vào căng mạnh gây nên tiếng phụ.
<i><b>Chú ý: tiếng ngựa phi là triệu chứng tim rối loạn nặng, là tiên lượng bệnh không tốt. </b></i>
- Tiếng thai nhi: lúc tim đập nhanh mà hai bên tiếng tim như nhau, quãng nghỉ như
nhau, tiếng thai nhi là triệu chứng tim suy.
<i><b>e. Tạp âm </b></i>
* Tạp âm trong tim gồm có tạp âm do bệnh về thực thể và tạp âm do cơ năng rối loạn.
<i>Tạp âm do bệnh biến thực thể do:</i> các van đóng khơng kín, máu chảy ngược trở lại;
các lỗ trong tim hẹp, máu chảy qua cọ sát. Bệnh ở các van thường do viêm, van cứng
hoặc teo lại làm thay đổi hình dạng và mất đàn tính. Do viêm tăng sinh, mép lỗ dày và
sần sùi, van và các dây chằng dính liền nhau.
<i>Tạp âm trong tim còn gọi là tiếng thổi, gồm: </i>
- Tiếng thổi tâm thu: xuất hiện liền với tiếng thứ nhất hay trùng với tiếng thứ nhất:
Pùng - xì - pụp.
Nguyên nhân:
+ Lỗ động mạch chủ hẹp.
+ Lỗ động mạch phổi hẹp.
+ Lỗ nhĩ thất trái hở.
+ Lỗ nhĩ thất phải hở.
Nếu lỗ nhĩ thất hở thì tạp âm cùng với tiếng thứ nhất; nếu lỗ động mạch chủ hay lỗ
<b>động mạch phổi hẹp thì tạp âm sau tiếng thứ nhất một tý. </b>
- Tiếng thổi tâm trương: tạp âm ở kỳ tim nghỉ dài, sau tiếng tim thứ hai: Pùng - pụp - xì
Nguyên nhân:
+ Lỗ động mạch chủ hở.
+ Lỗ động mạch phổi hở.
+ Lỗ nhĩ thất trái hẹp.
+ Lỗ nhĩ thất phải hẹp.
- Tiếng thổi tiền tâm thu: tạp âm trước tiếng tim thứ nhất một tý: Xì - pùng - pụp
Nguyên nhân:
+ Lỗ nhĩ thất trái hẹp.
+ Lỗ nhĩ thất phải hẹp.
- Tạp âm do cơ năng tim rối loạn. Loại tạp âm này không ổn định. Có hai loại.
+ Tiếng thổi do thiếu máu, do máu loãng, độ nhớt thấp, máu chảy nhanh gây tạp
âm. Tiếng thổi do thiếu máu thấp trong bệnh lê dạng trùng, bệnh thiếu máu ở ngựa.
<i>* </i>Tạp âm ngoài tim: do bệnh ở bao tim hay ở màng phổi.
- Tiếng cọ bao tim - màng phổi. màng phổi viêm, fibrin đọng lại trên bề mặt bao tim
và màng phổi, lúc tim co bóp cọ sát gây ra tiếng. Nghe rõ khi gia súc thở mạnh.
- Tiếng vỗ nước: do viêm bao tim, tích dịch thẩm xuất đọng lại trong bao tim, tim
co bóp gây ra tiếng óc ách. Nếu dịch đọng lại nhiều, tim đập yếu, tiếng tim yếu, mạch
chìm, vùng âm đục tuyệt đối của tim mở rộng; tiếng vỗ nước không rõ. Viêm màng phổi
thẩm xuất nặng có lúc xuất hiện triệu chứng vỗ nước ở vùng ngực.
<b>3.2. KHÁM HỆ HÔ HẤP </b>
Bệnh đường hô hấp ở gia súc gặp rất nhiều:
- Ở trâu bò, dê cừu thường gặp bệnh tụ huyết trùng, viêm phổi - màng phổi, viêm
phổi, viêm phế quản, lao,…
- Ở lợn: thường gặp bệnh tụ huyết trùng, suyễn, viêm phổi, viêm phế quản, dịch tả lợn.
- Ở ngựa: thường gặp bệnh viêm mũi, viêm hầu, viêm khí quản, viêm phổi cata,
viêm phổi thùy;
- Ở gà: thường gặp bệnh viêm màng mũi, lao
Phương pháp chẩn đốn hệ hơ hấp thường dùng: nhìn, sờ, nắn, gõ và nghe. Khi cần
thiết chọc dò xoang ngực, kiểm tra đờm và dịch mũi. Chiếu X - quang chỉ có tác dụng
đối với gia súc nhỏ. Soi khí quản, ghi động tác hơ hấp chưa được sử dụng rộng rãi, kết
quả rất hạn chế.
Trình tự khám hệ hơ hấp: khám động tác hô hấp, đường hô hấp trên, khám ngực,
khám đờm và các phương pháp khám đặc biệt khác như chọc dò xoang ngực, chiếu
chụp X - quang và xét nghiệm vi khuẩn gây bệnh đường hô hấp.
<b>3.2.1. Khám động tác hô hấp </b>
Bao gồm khám: tần số hô hấp, thể hô hấp, nhịp điệu hô hấp và những rối loạn hô
hấp (thở khó, ho).
<i><b>a. Tần số hơ hấp </b></i>
Tần số hô hấp là số lần hô hấp trong một phút. Thường đếm số lần hô hấp trong 2 - 3
phút, rồi lấy số bình qn. Có hai cách đếm tần số hô hấp:
<i>Cách thứ nhất:</i> người khám quan sát sự lên xuống của hõm hông thành bụng trong
một phút.
Tần số hô hấp thay đổi theo con đực hay con cái, giống gia súc, tuổi, trạng thái dinh
dưỡng, thời tiết, khí hậu,...
<i>Tần số hô hấp của một số gia súc khoẻ (lần/phút) </i>
Trâu bò 10 - 30
Ngựa 8 - 16
Lợn 10 - 20
Mèo 20 - 30
Dê, cừu 12 - 20
Thỏ 50 - 60
Chó 10 - 30
Thường con đực thở chậm hơn con cái, gia súc thể vóc nhỏ thở nhanh hơn gia súc
lớn, con non thở nhanh hơn con già. Mùa nóng ẩm thở nhanh hơn mùa lạnh khơ. Buổi
trưa nóng thở nhanh hơn buổi tối mát.
+ Thở nhanh (Polypnoe): thường do các trường hợp sau:
Những bệnh thu hẹp diện tích hơ hấp ở phổi (viêm phổi, lao phổi), làm mất đàn tính
ở phổi (phổi khí thũng), những bệnh hạn chế phổi hoạt động (đầy hơi dạ dày, đầy hơi
ruột).
Những bệnh gây sốt cao, bệnh thiếu máu nặng, bệnh ở tim, bệnh thần kinh hay do
quá đau đớn.
+ Thở chậm (Oligopnoe): do bệnh làm hẹp thanh quản, hẹp khí quản (viêm, thủy
thũng), ức chế thần kinh nặng (viêm não, u não, xuất huyết não, thủy thũng não, kí sinh
trùng não), do trúng độc, chức năng thận rối loạn, bệnh ở gan nặng, liệt sau khi đẻ, sắp
chết. Trong bệnh xeton huyết ở bò sữa, viêm não tủy truyền nhiễm ở ngựa, tần số hô
hấp giảm rất rõ.
<i><b>b. Thể hô hấp </b></i>
Hầu hết gia súc khoẻ thở thể hỗn hợp.
<i>- Thở hỗn hợp:</i> khi thở thì thành bụng, thành ngực cùng hoạt động, trừ chó là thở
thể ngực.
<i>- Thở thể ngực:</i> lúc gia súc thở thành ngực hoạt động rõ, còn thành bụng hoạt động
ít hay khơng rõ. Chó thở thể ngực là trạng thái sinh lý bình thường cịn những gia súc
khác thở thể ngực là do viêm màng bụng, liệt cơ hồnh; những bệnh làm cho thể tích
bụng to lên (giãn dạ dày, đầy hơi ruột, đầy hơi dạ cỏ, dạ cỏ bội thực, cổ chướng), do gan
sưng, lách sưng, bàng quang bị tắc
<i><b>c. Thở khó </b></i>
Thở khó là trạng thái rối loạn hô hấp phức tạp mà biểu hiện là thay đổi lực thở, tần
số hô hấp, nhịp thở, thở sâu và hậu quả là cơ thể thiếu oxy, niêm mạc tím bầm, trúng
độc toan huyết.
<i>- Hít vào khó </i>do đường hơ hấp trên hẹp. Gia súc hít vào cổ vươn dài, vành mũi mở
rộng, 4 chân dạng, lưng cong, bụng thóp lại. Nguyên nhân có thể do viêm thanh quản,
liệt thanh quản, thanh quản thủy thũng hoặc do bộ phận bên cạnh viêm sưng chèn ép.
<i>- Thở ra khó</i> do phế quản nhỏ bị viêm, phổi mất đàn tính. Lúc gia súc thở ra khó
bụng thóp lại, cung sườn nổi lên, lịi hậu mơn. Ngun nhân có thể do các bệnh (phổi
khí thũng, viêm phế quản nhỏ, viêm phổi, viêm màng phổi).
<i>- Thở khó hỗn hợp</i> là động tác hít vào thở ra đều khó khăn. Nguyên nhân do các
bệnh sau:
+ Các bệnh ở hệ hô hấp: viêm phổi, thủy thũng phổi, sung huyết phổi, tràn dịch
màng phổi, tràn khí màng phổi, u phổi làm giảm diện tích hơ hấp, khí thũng phổi làm
giảm đàn tính của phổi.
+ Viêm cơ tim, viêm nội tâm mạc, suy tim, những bệnh thiếu máu.
+ Những bệnh làm tăng thể tích xoang bụng hạn chế hoạt động hô hấp: dạ dày đầy
hơi, ruột đầy hơi, bội thực dạ cỏ, gan sưng to.
+ Những bệnh làm rối loạn thần kinh trung khu: u não, sung huyết não, viêm màng
não,…, và những bệnh gây sốt cao, nhất là bệnh truyền nhiễm cấp tính (nhiệt thán, tụ
huyết trùng).
<b>3.2.2. Khám đường hô hấp trên </b>
<i><b>a. Nước mũi </b></i>
Nước mũi là dịch trong suốt, khơng màu, do viêm cấp tính ở giai đoạn đầu. Do đó
gia súc khỏe khơng bị chảy nước mũi. Trâu bị có ít nước nhưng tự lau khơ. Ngựa lúc
kéo nặng có ít nước mũi.
<i>Nước mũi chảy nhiều do:</i> viêm cata niêm mạc mũi, viêm thanh quản, cúm gia súc.
Viêm niêm mạc mũi cấp tính, tỵ thư cấp tính, viêm màng mũi thối loét ở bò, viêm màng
mũi truyền nhiễm ở thỏ, nước mũi chảy nhiều. Hoặc những bệnh mạn tính: viêm phế
quản mạn tính, viêm phổi mạn tính, lao, tỵ thư mạn tính, nước mũi chảy nhiều.
- Nước mũi chảy một bên thường do bên đó viêm; nếu chảy cả hai bên, có thể do
viêm phổi, viêm phế quản lớn.
<i>Độ nhầy của nước mũi</i> do chất nhày, mủ, mảnh tổ chức, sản phẩm của quá trình
viêm tạo thành.
- Nước mũi đặc như mủ, có lẫn nhiều mảnh tổ chức thối rữa do viêm tổ chức hóa
mủ, viêm phổi hoại thư,…
<i>Màu của nước mũi: </i>nếu chỉ là tương dịch thì nước mũi trong khơng màu; nếu nước
mũi có mủ thì có màu vàng, xanh hoặc màu tro. Nước mũi màu đỏ tươi là do lẫn máu
(thấy trong các bệnh tỵ thư ở ngựa, xuất huyết phổi). Nước mũi màu rỉ sắt là triệu chứng
của bệnh viêm phổi thùy ở giai đoạn gan hóa.
<i>Mùi nước mũi: </i>nếu mùi thối là do viêm phổi hoại thư, viêm khí quản hoại thư.
- Nước mũi lẫn bọt khí do phổi thủy thũng, xuất huyết phổi.
- Nước mũi lẫn mảnh thức ăn là do liệt thanh quản.
<i><b>b. Khám niêm mạc mũi </b></i>
Dùng tay mở rộng vành mũi, hướng cho gia súc về phía ánh sáng hoặc dùng đèn pin
<b>soi vào để khám. Khi khám niêm mạc mũi có thể thấy các trường hợp sau: </b>
- Xuất huyết lấm tấm đỏ trên niêm mạc: do các bệnh truyền nhiễm có bại huyết,
thiếu máu truyền nhiễm.
- Niêm mạc sung huyết: do viêm màng mũi cấp tính, viêm họng.
- Niêm mạc mũi trắng bệch, tím bầm, hồng đản (xem phần “khám kết mạc”).
- Niêm mạc sưng căng, mọng nước: do viêm niêm mạc mũi.
- Niêm mạc có những mụn loét trên bề mặt: do viêm cata, viêm hạch lâm ba, viêm
màng mũi thối loét, dịch tả trâu bị.
<i><b>c. Khám thanh quản và khí quản </b></i>
<i>Nhìn bên ngoài</i>: thanh quản sưng (ở ngựa do viêm hạch truyền nhiễm; ở trâu bò là
<i>Sờ vùng thanh quản nóng:</i> do viêm tại chỗ. Thanh quản, khí quản bị viêm, lịng hẹp
do sưng, dịch thẩm xuất đọng lại, khi gia súc thở có tiếng nghẹt, sờ có thể biết.
Nghe thanh quản: đặt ống nghe vào vùng hầu sẽ nghe được tiếng “khò” lúc gia súc
thở. Viêm thanh quản, viêm thanh quản thủy thũng, u thanh quản thì tiếng “khị” rất to.
Có khi có tiếng ran khơ, ran ướt có dịch thẩm xuất, fibrin đọng lại.
<i>Khám bên trong:</i> nhìn trực tiếp hay qua đèn soi
- Với gia súc nhỏ: mở rộng mồm, dùng thìa sắt đã sát trùng đè mạnh lưỡi xuống
để quan sát niêm mạc họng, thanh quản. Nếu niêm mạc viêm sung huyết thì có màu
đỏ ửng.
- Với gia súc lớn có thể sờ trực tiếp, nhưng chú ý nguy hiểm.
<i><b>d. Kiểm tra ho </b></i>
Ho là một phản xạ nhằm tống ra ngoài những vật lạ như chất tiết, bụi bẩn, vi
khuẩn,... gây kích thích niêm mạc đường hơ hấp. Cung phản xạ ho bắt đầu từ nốt nhận
cảm trên niêm mạc qua thần kinh mê tẩu đến trung khu ho ở hành tủy. Kích thích hầu,
khí quản, cuống lưỡi, màng phổi, niêm mạc mũi đều có thể gây ho.
Gây ho bằng cách bóp mạnh vào phần sụn giữa thanh quản và đốt khí quản thứ
nhất. Với trâu bị có thể dùng vải gạc bịt chặt mũi để gây ho, gia súc nhỏ thì kéo dúm da
vùng tai, tay cịn lại ấn mạnh xuống lưng có thể gây ho.
Khi viêm thanh quản, khí quản gây ho dễ dàng. Gia súc khỏe mạnh như trâu, bò gây
<i>Ho từng cơn: </i>do viêm phế quản, viêm thanh quản, lịng khí quản có nhiều đờm, ho
đến lúc hết chất kích thích đó.
<i>Ho khoẻ, vang:</i> thường do bệnh ở họng, khí quản, phế quản bị viêm.
<i>Ho yếu, tiếng trầm: </i>do tổ chức phổi bị tổn thương, bị thấm ướt, đàn tính giảm,
màng phổi bị dính trong bệnh viêm phổi, viêm màng phổi, lao, tỵ thư, viêm phổi thuỳ,
viêm phế quản nhỏ.
Tiếng ho ngắn hay ho dài do thanh quản quyết định. Tiếng ho vang gọn là do thanh
quản khoẻ, đóng kín; tiếng ho “bể” là do thanh quản viêm, thủy thũng, thanh quản đóng
khơng kín, động tác ho kéo dài.
<i>Ho đau: </i>biểu thị là lúc ho gia súc khó chịu, cổ vươn dài, chân cào đất, rên. Do viêm
màng phổi, thủy thũng thanh quản, viêm họng nặng.
<b>3.2.3. Khám ngực </b>
Áp dụng các phương pháp: nhìn, sờ nắn, gõ và nghe. Khi cần thiết chọc dò xoang
ngực; chụp chiếu X - quang,...
<i><b>a. Nhìn vùng ngực </b></i>
Gia súc khoẻ lúc thở hai bên lồng ngực hoạt động rõ và đều đặn. Nếu lồng ngực co,
thở khơng rõ có thể do phổi khí thũng, viêm màng phổi, viêm phế quản nhỏ.
<i><b>b. Sờ nắn </b></i>
Dùng tay sờ nắn và ấn mạnh vào các khe sườn: Nếu từng vùng da nóng là do viêm
tại chỗ; sờ nắn gia súc đau do viêm màng phổi hay bị thương tại chỗ, tổn thương cơ, gẫy
xương sườn vùng ngực. Những gia súc gầy, lồng ngực lép, lúc viêm màng phổi, sờ bên
ngoài cảm giác được hiện tượng cọ màng phổi.
<i><b>c. Gõ vùng phổi </b></i>
theo trình tự từ trước ra sau, từ trên xuống dưới; mỗi điểm gõ hai cái, điểm này cách
điểm kia 3 - 4cm. Gõ cả hai bên (phổi phải và phổi trái) để so sánh và phát hiện vùng
phổi bị viêm.
<i><b>Hình 3.2. Vùng gõ phổi ở chó và bị </b></i>
<i>* Gõ vùng phổi </i>
Vùng gõ phổi là vùng ngực trong có phổi. Có vùng ngực trong có phổi nhưng
không gõ được như vùng trước bả vai, vùng bả vai.
<i>Ở loài nhai lại:</i> vùng gõ phổi là một vùng tam giác, phía trước là vùng cơ khuỷu
làm ranh giới; cạnh trên cách sống lưng gần một bàn tay và cạnh sau là một đường cong
đều bắt đầu từ gốc sườn 12 và qua các giao điểm của đường kẻ ngang kẻ từ gờ xương
cánh hông và xương sườn 11, đường ngang kẻ từ khớp vai và xương sườn thứ 8 và tận
cùng ở gian sườn 4, tiếp với vùng âm đục tuyệt đối của tim.
Những con bò sữa gầy có một vùng trước xương bả vai khoảng một bàn tay có thể
gõ phổi được nhưng kết quả khơng rõ lắm.
<i>Ở ngựa, la, lừa</i>: cạnh trước và cạnh trên của vùng gõ phổi giống ở trâu bò. Cạnh sau
là một đường cong đều bắt đầu từ gốc sườn 17 qua các giao điểm của đường ngang kẻ
từ gờ xương cánh hông và xương sườn thứ 16, đường ngang kẻ từ mỏm xương ngồi và
<i>Ở lợn:</i> cạnh sau bắt đầu từ gốc sườn 11 qua giao điểm của đường kẻ ngang kẻ từ
mỏm xương ngồi và xương sườn thứ 9, đường ngang kẻ từ khớp xương bả vai và xương
sườn 7, tận cùng ở gian sườn 4.
<i>Ở chó</i>: cạnh trước giáp xương bả vai, cạnh trên cách sống lưng 2 - 3 ngón tay; cạnh
sau bắt đầu từ gốc xương sườn 12 qua các giao điểm của đường kẻ từ gờ xương cánh
hông và xương sườn 11, đường ngang kẻ từ mỏm xương ngồi và xương sườn 10, đường
ngang kẻ từ khớp bả vai và xương sườn 8, tận cùng ở gian sườn 6.
Xác định vùng gõ phổi: kẻ 3 đường ngang: một đường qua gờ xương cánh hông,
một đường qua mỏm xương ngồi và một đường qua khớp vai. Gõ theo ba đường đó để
định giới hạn phía sau. Từ ranh giới phía sau gõ về phía trước, lần lượt từ trên xuống
dưới để định diện tích vùng gõ và so sánh với diện tích bình thường.
Vị trí phổi của chó
<i><b>Chú ý: những gia súc nhỏ, vùng cơ khuỷu và cơ lưng dày, vùng phổi hẹp. </b></i>
<i>* Diện tích vùng phổi thay đổi:</i> Vùng phổi mở rộng hay thu hẹp do bệnh ở phổi hay
xoang ngực quyết định.
- Vùng phổi mở rộng về phía sau: do diện tích phổi tăng hoặc do khí tích trong lồng
ngực. Phổi khí thũng, thể tích tăng, ranh giới phía sau ngang cung sườn; vùng âm đục
của tim thu nhỏ. Phổi khí thũng mạn tính thường kéo theo tim nở dày, vùng âm đục của
tim thay đổi không rõ. Một bên phổi có tổn thương (viêm, xẹp, u, giun phổi), bên phổi
cịn lại làm bù dần đến khí thũng, diện tích vùng phổi mở rộng.
- Vùng phổi thu hẹp: ranh giới lùi về phía trước. Do dạ cỏ chướng hơi, ruột chướng
hơi, gan sưng đẩy cơ hồnh về phía trước. Vùng phổi thu hẹp do vùng âm đục tim mở
rộng (tim nở dày, viêm bao tim, bao tim tích nước, tim giãn).
<i>* Âm gõ phổi </i>
<i>- Âm gõ phổi bình thường (phế âm) </i>
Phế âm là tiếng phát ra khi gõ lên vùng phổi. Ở giữa vùng phổi, phổi dày, nhiều khí,
phế âm vang. Ngược lại hai bên rìa do phổi mỏng, cơ che khuất nên phế âm nhỏ, đục.
Gia súc thể vóc to, béo, tầng mỡ dày, phế âm nhỏ. Gia súc bé gầy thì ngược lại.
<i>- Những âm gõ phổi bệnh lý: </i>
<i>Âm đục:</i> do lượng khí trong phế nang giảm, phổi xẹp hoặc chất thẩm xuất đọng lại
trong phế nang, trong phế quản, trong xoang ngực. Vùng phổi có âm đục hoặc âm đục
tương đối thường thấy ở các bệnh sau:
+ Viêm phổi thùy (Pneumonia crouposa) ở thời kỳ gan hóa. Vùng âm đục thường ở
vùng rìa dưới phổi, tiếp giáp với vùng âm đục của tim. Khi phổi bị gan hoá gõ vào nền
phổi thu được âm đục tập trung, mở rộng theo đường cánh cung.
+ Viêm phổi - phế quản, vùng âm đục thường phân tán; xen kẽ những vùng âm đục
nhỏ là những vùng phổi thường hay vùng có âm bùng hơi.
Ở bò sữa vùng âm đục ở phổi thường gặp trong bệnh lao, giun phổi, viêm màng
phổi. Ở ngựa vùng âm đục ở phổi thường thấy trong bệnh tỵ thư, viêm phổi - màng phổi
truyền nhiễm. Ở lợn thường thấy ở bệnh dịch tả mạn tính.
Khi phổi bị thủy thũng, dịch tiết làm tắc phế nang, nếu thủy thũng nhẹ âm gõ không
Những bệnh ở màng phổi: viêm màng phổi thì vùng âm đục ở dưới và có ranh giới
nằm ngang. Viêm màng phổi mạn tính vùng âm đục ở dưới lâu dài.
Những gia súc lớn, lồng ngực rộng nên khi viêm màng phổi có nhiều dịch thẩm
xuất nhưng khơng có vùng âm đục trên màng phổi.
Tràn dịch màng phổi cũng có triệu chứng tương tự.
<i>Âm bùng hơi:</i> do tổ chức phổi đàn tính kém, trong phế quản, phế nang chứa nhiều
khí, bọt khí. Âm bùng hơi là triệu chứng bệnh thường gặp ở gia súc lớn như: lao phổi
nhất là khi có hang lao gần thành ngực; viêm phế quản mạn tính; phế quản giãn; bệnh
viêm phổi thùy ở giai đoạn sung huyết và giai đoạn tiêu tan; viêm phổi - phế quản (vùng
âm đục xen kẽ lẫn âm bùng hơi); tràn dịch màng phổi (gõ vùng dưới có âm đục, phần
trên có âm bùng hơi); tràn khí phổi; thốt vị cơ hồnh; đầy hơi ruột nặng; dạ cỏ chướng
hơi nặng.
<i>Âm hộp:</i> âm gõ gần giống âm bùng hơi nhưng âm hưởng ngắn. Thường gặp ở bệnh
phổi khí thũng nặng, phế nang giãn, phổi căng,
<i>Âm bình rạn:</i> phổi bị bệnh có các hang thơng với phế quản, lúc gõ khí qua lại giữa
hang và phế quản tạo thành. Thường thấy trong bệnh giãn phế quản nặng, lao phổi.
<i>Âm kim thuộc:</i> do trong xoang ngực có hang kín chứa đầy khí như tràn khí màng
phổi nặng, bao tim tích khí nặng, thốt vị cơ hồnh.
<i><b>d. Nghe phổi </b></i>
Khi đường hơ hấp, phổi có bệnh thì âm thanh quản, âm khí quản, âm phế quản nhất
- Nghe trực tiếp: phủ lên gia súc một miếng vải mỏng để tránh bẩn, áp sát tai nghe
trực tiếp, ít áp dụng.
- Nghe gián tiếp: nghe qua ống nghe
Nghe phổi gia súc khó vì tiếng phế nang rất yếu. Do đó chỗ làm việc phải hết sức
yên tĩnh, gia súc phải đứng im mới nghe rõ. Nên bắt đầu nghe ở giữa phổi, sau đó nghe
về phía trước, nghe về phía sau, trên và xuống dưới, những vùng tiếng phế nang yếu
hơn vùng ở giữa phổi. Nghe từ điểm này sang điểm khác, không nghe cách quãng; mỗi
điểm nghe vài ba lần thở. Khi nghe tiếng phế nang khơng rõ có thể dùng tay bịt mũi gia
súc để gia súc thở dài và sâu, nghe được rõ hơn.
Vùng nghe phổi trên ngực giống vùng gõ phổi. Ở trâu bị có thể nghe được vùng
trước xương bả vai.
<i>* Âm hô hấp sinh lý: </i>
<i>- Âm thanh quản: do khí thở từ xoang mũi vào hầu rồi vào khí quản, cọ sát vào khí </i>
quản gây nên. Âm nghe được giống phát ra âm chữ “kh” khá rõ.
<i>- Âm khí quản: là âm thanh quản vọng vào, nghe ở vùng giữa cổ, tiếng nhỏ hơn âm </i>
thanh quản.
<i>- Âm phế quản: tiếng nghe rõ khoảng sườn 3 - 4, kẹp trong xương bả vai. Trừ ngựa, </i>
các gia súc khác đều nghe được âm phế quản.
+ Hoạt động co giãn của phế nang.
+ Khí từ phế quản vào phế nang, xốy
Những gia súc gầy, lồng ngực hẹp, âm phế nang nghe rõ. Ngược lại, gia súc lớn,
tầng mỡ dày, âm phế nang yếu, có khi nghe khơng rõ.
Ở chó, âm phế nang rõ ở toàn bộ vùng phổi. Ở trâu, bò, âm phế nang nghe rõ ở giữa
vùng phổi, vùng sau bả vai.
<i>* Âm hô hấp thay đổi: </i>
<i>- Âm phế nang tăng: nghe rõ, thô và sâu hơn bình thường. </i>
Âm phế nang tăng đều cả hai bên vùng phổi do trung khu thần kinh hưng phấn. Các
bệnh truyền nhiễm cấp tính, các bệnh có sốt cao, hoạt động hô hấp tăng cường, âm phế
nang tăng. Âm phế nang tăng ở bộ phận phổi bên cạnh bộ phận âm phế nang giảm hoặc
mất, thường thấy trong các bệnh viêm phổi - phế quản. Một bên phổi, hoặc một vùng
phổi rộng mất âm phế nang, phần còn lại âm phế nang tăng thấy trong bệnh viêm phổi
thùy.
<i>- Âm phế nang giảm:</i> gia súc thở nơng yếu. Âm phế nang giảm có thể do tổ chức
dưới da thủy thũng, sưng dày, chủ yếu do phổi hoặc màng phổi có bệnh. Ở bệnh viêm
màng phổi, do đau, gia súc thở yếu nên âm phế nang yếu; do màng phổi bị dính, bị sưng
dày, xoang ngực tích nước, âm phế nang giảm.
<i>- Âm phế nang thô:</i> gia súc thở nặng nề, tiếng thở không gọn, không lan nhẹ khắp
vùng phổi. Thường do phế quản viêm, sưng dày, lòng phế quản rộng hẹp khơng đều,
hoặc do phổi bị khí thũng từng bộ phận, khi gia súc hít vào, khí từ ngồi vào các phế
nang khơng đều, phế nang nở ra không đồng thời làm âm phế nang thô.
<i>- Âm phế nang mất:</i> do phế nang bị tắc hay mất đàn tính, phế quản tắc. Có hai
trường hợp: Từng vùng nhỏ mất âm phế nang là do viêm phổi, lao, tỵ thư, u, thủy thũng
phổi. Cả vùng phổi phía dưới mất âm phế nang là do tràn dịch màng phổi, viêm màng
phổi thẩm xuất.
<i>* Những âm thở bệnh lý </i>
<i>- Âm phế quản bệnh lý: </i>
Trên ngực ngựa khỏe chỉ nghe được tiếng âm phế nang thuần, nhẹ. Còn ở các gia
súc khác, âm nghe được trên vùng ngực là âm phế quản lẫn với âm phế nang. Nếu ở
ngựa, trên vùng ngực nghe được âm phế quản (âm thô, rõ hơn âm phế nang) thì đó là
âm phế quản bệnh. Ở gia súc khác, khi trên vùng ngực chỉ nghe được âm phế quản mà
khơng có âm phế nang lẫn vào thì đó cũng là âm phế quản bệnh.
càng rõ. Gõ phổi khơng có âm gõ bệnh. Cịn âm phế quản bệnh nghe thơ, khơng lan đều,
nghe rõ cả khi hít vào, thở ra; gõ phổi thường có âm đục.
Âm phế quản bệnh khó phân rõ với âm phế nang thơ, chỉ có khác là vùng phổi âm
phế nang thơ, gõ khơng có âm đục.
Nhu mơ phổi bị thấm ướt, lịng phế quản tắc là nguyên nhân của âm phế quản bệnh
và thường thấy ở các bệnh: viêm phổi thùy, suyễn lợn, viêm phổi - màng phổi, lao, viêm
màng phổi,…
<i>- Tiếng ran (Rhonchi) </i>
Trong nhiều bệnh ở phổi, lòng phế quản chứa nhiều chất dịch thẩm xuất hoặc bị hẹp
lại, khi thở khí qua lại tạo thành tiếng gọi là tiếng ran.
+ Tiếng ran khô (Rhonchi sicca): do dịch thẩm xuất khô lại, thành phế quản sưng
Tiếng ran khơ ở một vùng phổi nhỏ: thường thấy lao phổi, ổ mủ, viêm phế quản,
viêm phổi - phế quản. Tiếng ran khô trên một vùng phổi rộng thấy ở: viêm phổi - phế
quản, khí thũng phổi, viêm phổi thùy. Gia súc non sau khi bị viêm phổi, tiếng ran khơ
cịn lại một thời gian khá lâu mặc dù bệnh đã lành.
+ Tiếng ran ướt (Rhonchi humidi): do trong lòng phế quản có dịch hoặc bọt khí.
Tiếng ra ướt nghe rất nhỏ, như tiếng bọt vỡ hay như tiếng nước chớm sôi,…phát ra ở
phế quản gần phế nang nghe rõ lúc thở ra, còn kỳ hít vào có khi nghe không được.
Tiếng ran ướt thường thấy ở các quá trình bệnh làm tổ chức phổi thấm ướt (viêm phổi,
lao phổi, thủy thũng phổi, sung huyết phổi).
<i>- Tiếng vị tóc (Crepitatio) </i>
Nghe như tiếng ran nhỏ, nhưng mịn và đều hơn. Do lòng phế nang và phế quản nhỏ
bị thấm ướt, lúc hít vào chúng dính lại và khi thở ra chúng tách ra gây tiếng vị tóc.
Tiếng vị tóc là triệu chứng của bệnh viêm phổi, thủy thũng phổi, sung huyết phổi. Nếu
dịch thẩm xuất nhiều thì tiếng vị tóc mất.
Căn cứ vào các đặc điểm sau để phân biệt tiếng vị tóc và tiếng ran nhỏ
+ Tiếng vị tóc mịn, phát ra diện rộng, cịn các tiếng ran thì thô hơn, to nhỏ không
đều, phát ra trên diện hẹp.
+ Tiếng vị tóc ổn định, cịn tiếng ran không ổn định, chỗ này mất chỗ kia xuất hiện;
+ Tiếng vị tóc phát ra thời gian ngắn, còn tiếng ran thì lâu dài, cho đến khi
<i>- Tiếng thổi vị: </i>
Phổi có ổ mủ, ổ hoại tử, lao sẽ tạo thành những hang thông với phế quản. Khi thở
khí qua lại giữa các hang và lòng phế quản tạo thành tiếng thổi vò. Ở gia súc ít thấy
triệu chứng này.
<i>- Tiếng cọ màng phổi: </i>
Màng phổi viêm, có nhiều fibrin đọng lại làm cho màng phổi viêm sần sùi, lúc thở
các lá của màng phổi cọ sát nhau gây ra tiếng cọ màng phổi. Tiếng cọ màng phổi to
nghe rất dễ, nhưng có khi nghe rất nhỏ. Khi nghe chú ý phân biệt với tiếng ran nhỏ,
tiếng vị tóc, nhu động ruột. Tiếng cọ màng phổi do viêm màng phổi thường có kèm
theo triệu chứng sờ vùng ngực gia súc đau.
Viêm màng phổi trong các trường hợp sau khơng có tiếng cọ màng phổi:
+ Dịch thẩm xuất nhiều làm cho lá thành và lá tạng tách ra.
+ Màng phổi bị dính.
+ Viêm mạn tính, màng phổi bị bào trơn.
<i>- Tiếng vỗ nước (Succusio hippocratis): </i>tiếng óc ách như nước xao động trong lồng
ngực: có thể do dịch thẩm xuất hoặc dịch thẩm lậu gây ra. Dịch thẩm xuất do viêm
màng phổi, dịch thẩm lậu do nguyên nhân toàn thân.
<i><b>Chú ý: Tiếng vỗ nước có lúc rất ổn định, ở tư thế nào của gia súc cũng nghe được. </b></i>
Tuy nhiên cũng có ca bệnh chỉ nghe được tiếng vỗ nước ở những tư thế nhất định.
<i><b>a. Ý nghĩa chẩn đoán </b></i>
Khi nghi trong xoang ngực có dịch, con vật thở khó, thở thể bụng, gõ có vùng âm
đục tập trung, nghe thấy tiếng vỗ nước hoặc tiếng cọ, lúc đó chúng ta mới tiến hành
chọc dị xoang ngực kiểm tra dịch chọc dị đó là dịch viêm hay dịch phù. Chọc dò xoang
ngực đơn giản, không nguy hiểm, nhưng đặc biệt chú ý vô trùng, nhất là chọc dò xoang
ngực ngựa.
<i><b>b. Vị trí chọc dị </b></i>
<i>- Lồi nhai lại:</i> khe sườn 6 bên trái, khe sườn 5 bên phải, trên tĩnh mạch ngoài ngực
hoặc trên dưới đường ngang kẻ từ khớp khuỷu.
<i>- Ngựa:</i> gian sườn 7 bên trái, gian sườn 6 bên phải. Trên, dưới giống loài nhai lại.
<i>- Lợn:</i> gian sườn 8 bên trái, gian sườn 7 bên phải.
<i>- Chó</i>: gian sườn 8 bên trái, gian sườn 6 bên phải.
<i><b>c. Kiểm nghiệm dịch thẩm xuất (dịch viêm) và dịch thẩm lậu (dịch phù) </b></i>
<i>* Phản ứng Mopit (Mopitz): </i>
Dùng 2 - 3ml dịch kiểm nghiệm, thêm vài giọt axit axêtic 5%
- Đục, kết tủa (phản ứng dương tính) và đây là dịch thẩm xuất
- Đục, không kết tủa (phản ứng âm tính) và đây là dịch thẩm lậu
<i>* Kiểm nghiệm qua kính hiển vi: </i>
Dịch chọc dị sau khi lấy phải được kiểm nghiệm ngay. Lấy 10ml chọc dò cho vào
- Một ít hồng huyết cầu trong một vi trường thường do chọc dò gây chảy máu. Nếu
số lượng nhiều thì có thể trong xoang ngực chảy máu.
- Nhiều tế bào bạch cầu, nhất là bạch cầu trung tính: do viêm màng phổi.
- Nhiều tế bào lympho: do lao màng phổi.
<b>3.3. KHÁM HỆ TIÊU HỐ </b>
Bệnh ở hệ thống tiêu hóa xảy ra khá phổ biến ở vật nuôi, chiếm khoảng từ 30 - 40%
trong các bệnh nội khoa. Bệnh gây ra thường do khâu chăm sóc, ni dưỡng khơng hợp
lý. Như thức ăn, nước uống không đảm bảo vệ sinh (các chất độc, độc tố nấm mốc lẫn
trong thức ăn). Chuồng trại bẩn, khơng có hệ thống chống nóng, chống lạnh và chống
ẩm. Ngồi ra cịn do các nguyên nhân khác gây nên như các bệnh truyền nhiễm gây tổn
thương ở hệ tiêu hóa (phó thương hàn, phó lao, dịch tả và các loại ký sinh trùng đường
ruột).
Khám bộ máy tiêu hóa theo thứ tự: khám ăn, khám uống, khám miệng, hầu và thực
quản, khám dạ dày, ruột, khám phân, khám gan, người ta thường khám bằng các phương
pháp: quan sát, sờ nắn, gõ, nghe. Khi cần thiết chọc dò xoang bụng, siêu âm, nội soi
xoang bụng và các xét nghiệm phân, dịch chọc dò và một số chỉ tiêu chức năng gan.
<b>3.3.1. Kiểm tra trạng thái ăn uống </b>
<i><b>a. Ăn </b></i>
<b>- Ăn kém: do rối loạn tiêu hóa. </b>
<b>- Ăn nhiều thức ăn tinh: do viêm dạ dày tăng axit. </b>
<b>- Ăn nhiều thức ăn thô: do viêm dạ dày giảm axit. </b>
<b>- Ăn nhiều: sau thời gian ốm, do rối loạn trao đổi chất. </b>
<i><b>b. Uống </b></i>
<b>- Uống ít: do tắc ruột, thủy thũng, tê liệt thần kinh mặt,… </b>
- Uống nhiều: do sốt, ỉa chảy, nôn mửa, ra nhiều mồ hôi, viêm thận mạn tính, trúng
<b>độc muối. </b>
<i><b>c. Cách lấy thức ăn, nước uống </b></i>
Ngựa dùng môi lấy thức ăn, hàm dưới đưa thức ăn vào miệng. Bò dùng lưỡi lấy
thức ăn. Lợn ngoạm từng miếng.
Lấy thức ăn khó khăn: thường thấy bệnh ở lưỡi, ở môi, niêm mạc miệng, răng, cơ
nhai, họng, các bệnh thần kinh.
Ngựa lấy thức ăn khó khăn, nhai thức ăn uể oải, nhiều khi gục đầu vào máng là triệu
chứng của viêm não, u não, não thủy thũng.
<i><b>d. Nhai </b></i>
<i>- Gia súc nhai chậm, uể oải:</i><b> do sốt, bệnh ở dạ dày, rối loạn tiêu hóa. </b>
<i><b>- Nhai đau,</b> cổ vươn ra, miệng há hốc: do viêm chân răng, răng mịn khơng đều; </i>
<b>viêm niêm mạc miệng, viêm lưỡi gặp ở bệnh lở mồm long móng. </b>
<i>- Nhai rất đau, không nhai, hai hàm răng khép chặt: do viêm niêm mạc miệng, </i>
<i>- Nghiến răng</i>: Ngựa nghiến răng do đau bụng, trúng độc, viêm não tủy truyền
nhiễm. Bò nghiến răng do viêm dạ dày cata, viêm ruột cata, liệt dạ cỏ, viêm dạ tổ ong
do ngoại vật. Lợn nghiến răng thấy ở bệnh dịch tả. Cừu nghiến răng do ấu sán não.
<i><b>e. Nuốt </b></i>
<i>- Rối loạn nhẹ:</i> đầu gia súc vươn thẳng, lắc lư, hai chân cào đất, nuốt khó khăn do
<b>viêm họng, tắc thực quản. </b>
<i>- Rối loạn nuốt nặng:</i> thức ăn trào ra đằng mũi, trào ngược thực quản do viêm họng
nặng, tắc thực quản, trong các bệnh hệ thần kinh.
<i><b>g. Nhai lại </b></i>
Bò khỏe sau khi ăn no 30 phút đến một giờ rưỡi thì bắt đầu nhai lại. Một ngày đêm
<b>nhai lại 6 - 8 lần, mỗi lần từ 50 - 60 phút. </b>
Rối loạn nhai lại: nhai lại chậm và yếu gặp trong trường hợp chướng hơi, bội thực
và nghẽn dạ lá sách. Khơng cịn phản xạ nhai lại gặp ở liệt dạ cỏ, chướng hơi, bội thực
nặng, các trường hợp trúng độc.
<i><b>h. Ợ hơi </b></i>
<i>- Ợ hơi tăng:</i> do ăn nhiều thức ăn dễ lên men, chướng hơi dạ cỏ giai đoạn đầu.
<i>- Ợ hơi giảm:</i> do dạ cỏ liệt, tắc rãnh thực quản, sốt cao, các bệnh nặng. Liệt dạ cỏ
mạn tính, hơi ợ ra hơi thối.
<i>- Khơng ợ hơi:</i> do tắc rãnh thực quản, chướng hơi dạ cỏ nặng.
Loài gia súc dạ dày đơn, hơi trong dạ dày thường được tống ra ngoài theo phân và
hấp thu vào máu. Nếu ợ hơi là triệu chứng bệnh lý gặp trong trường hợp viêm loét dạ
dày, thức ăn trong dạ dày lên men nhiều,…
<i><b>i. Nôn mửa </b></i>
Nôn mửa do phản xạ hoặc do trung khu thần kinh bị kích thích.
- Nơn mửa do phản xạ, thường do bệnh ở cuống lưỡi, họng, dạ dày, đường ruột, có
trường hợp bệnh ở màng bụng, ở tử cung cũng có thể gây nơn.
- Nơn do trung khu nơn bị kích thích trực tiếp: do viêm hành tủy, viêm màng não,
khối u não, độc tố vi trùng tác động (trong các bệnh truyền nhiễm) và trong các trường
hợp trúng độc. Đặc điểm của loại nôn này là nôn liên tục, lúc dạ dày trống vẫn nơn.
Lồi ăn thịt và lồi ăn tạp nơn là triệu chứng bệnh, thường do viêm dạ dày cata cấp
tính.
Lồi nhai lại nơn thường do dạ dày đầy hơi cấp tính, bội thực. Con vật nơn rất khó
khăn: đầu vươn thẳng, hai chân sau dạng ra, bụng thót lại, thức ăn phọt ra theo mồm,
theo đường mũi.
Ngựa nơn khó nhất: lúc nơn, bụng co rút, tồn thân tốt mồ hơi, thức ăn phun ra
theo lỗ mũi và sau khi nôn gia súc rất mệt mỏi. Ngựa nôn thường do bội thực hoặc giãn
dạ dày cấp tính.
<i>* Kiểm tra nơn cần chú ý: </i>
- Nơn một lần, sau đó khơng nơn lại gặp ở lợn, con non và lồi ăn thịt do ăn quá no.
- Nôn ngay sau lúc ăn: do bệnh ở dạ dày, ăn một lúc mới nôn do tắc ruột.
- Chất nôn lẫn máu: do viêm dạ dày xuất huyết, loét dạ dày ở lợn, hay gặp trong
bệnh phó thương hàn, dịch tả lợn.
- Chất nôn màu vàng lục (mật): do tắc ruột non.
- Chất nôn lẫn phân, mùi thối: do tắc ruột già.
<b>3.3.2. Khám miệng </b>
Chảy rãi: do trở ngại nuốt, viêm
tuyến nước bọt, ngoại vật cắm vào hàm
răng, viêm họng, sốt, lở mồm long móng,
viêm tuyến mang tai.
<i><b>a. Môi </b></i>
- Gia súc khỏe lúc đứng hai môi
ngậm kín.
- Mơi ngậm chặt: do viêm màng não,
uốn ván.
- Môi sưng: do viêm niêm mạc
miệng, dịch tả trâu bò, côn trùng đốt.
- Ở ngựa: ngựa già môi dưới thường trễ, hở lợi ra ngồi. Nếu mơi nứt thì do tụ cầu
trùng. Môi hoại thư do trúng độc thức ăn, viêm màng não truyền nhiễm.
<i><b>b. Miệng </b></i>
- Mùi trong miệng: mùi thối do viêm lợi, loét niêm mạc miệng, viêm họng. Thức ăn
đọng lại lâu, miệng thối.
- Nhiệt độ trong miệng: cho ngón tay vào miệng để có cảm giác nhiệt độ miệng.
Miệng nóng do các bệnh gây sốt cao, viêm niêm mạc miệng, viêm họng. Miệng lạnh do
mất máu, suy nhược và sắp chết.
- Độ ẩm:
+ Miệng đầy nước bọt do trở ngại nuốt, tuyến nước bọt bị kích thích, do viêm niêm
mạc miệng, viêm tuyến nước bọt, viêm họng, lở mồm long móng.
+ Miệng khô do mất nước: thấy ở bệnh viêm ruột ỉa chảy lâu ngày, sốt cao, đa niệu,
đau bụng.
- Màu sắc niêm mạc miệng thay đổi (xem phần khám niêm mạc mắt).
<i><b>Chú ý: </b></i>
- Ở trâu bị khi bị bệnh lở mồm long móng: niêm mạc miệng nổi đầy mụn nước.
- Trong bệnh dịch tả lợn, đậu cừu, niêm mạc nổi mụn mủ, bọc mủ.
- Ở ngựa do viêm miệng hóa mủ truyền nhiễm: niêm mạc nổi những mụn mủ bằng
hạt vừng, hạt đậu trong suốt, sau có máu, có mủ.
<i><b>c. Lưỡi </b></i>
Bựa lưỡi là một lớp tế bào thượng bì tróc ra đọng lại, màu xám hay màu xanh: thấy
trong hầu hết các bệnh có sốt cao, viêm đường tiêu hóa. Bựa càng dày bệnh càng nặng,
ngược lại bựa càng giảm là bệnh chuyển biến tốt.
Lưỡi sưng to là do xây xát, do có đinh gai chọc, do xạ khuẩn.
Lưỡi có nhiều mụn nước, lt là do lở mồm long móng (hình 3.4)
<i><b>d. Răng </b></i>
Chú ý độ mòn của răng và hiện tượng sâu
răng.
<b>3.3.3. Khám họng </b>
<i>Nhìn ngồi:</i> nếu viêm họng thì cổ hơi
cứng và vươn thẳng, nuốt khó, thức ăn nước
uống có thể trào ra qua mũi.
<i>Sờ nắn:</i> viêm họng thì vùng họng sưng,
nóng. Nếu hạch lâm ba sưng to thường do xạ
khuẩn.
<i>Khám trong:</i> với gia súc to thì mở miệng, dùng thìa đè lưỡi xuống; với gia cầm
vạch mỏ để xem, đối với trâu bị thì người khám phải mở miệng và kéo lưỡi gia súc ra
ngồi để nhìn rõ bên trong.
<b>3.3.4. Khám thực quản </b>
Phần thực quản vùng cổ thì nên sờ nắn và nhìn; phần sâu hơn thì phải dùng ống
<i>Nhìn bên ngoài: </i>những chỗ tắc, phồng to. Thực quản kinh luyến cơn co giật từ
dưới lên.
<i>Sờ thực quản:</i> người khám đứng bên trái gia súc, quay mặt về phía sau, tay trái cố
định rãnh thực quản, tay phải lần theo rãnh thực quản từ dưới lên trên. Nếu gia súc đau
là do thực quản bị viêm. Khi thực quản bị tắc (phần thực quản vùng cổ) thì có thể dùng
tay vuốt ngược lên
<i><b>a. Thơng thực quản </b></i>
Thông thực quản để chẩn đốn bệnh và
cịn để điều trị bệnh.
Với trâu bò, ngựa dùng cùng một loại ống
thông bằng cao su, dài 200 - 300cm, đường
kính ngồi 18 - 20mm, đường kính trong 8 -
14mm, ống thông thực quản lợn dài 95cm,
đường kính ngồi 4mm; với lợn, ống to 5 -
7mm .
<i>Thơng thực quản trâu bị:</i> cố định gia súc,
mở miệng bằng giá gỗ có đục một lỗ ở giữa để
cho ống thông. Đưa ống thông qua miệng vào thực quản, sau đó theo nhu động của thực
quản, đẩy dần ống thông vào dạ cỏ. Từ miệng đến dạ cỏ dài khoảng 120 - 140cm, nếu
khi cho ống thông vào hầu, thực quản mà gia súc nơn thì cho đầu gia súc chúi xuống và
hết nôn lại tiếp tục cho ống thơng vào. Trường hợp gia súc nơn nhiều thì phải kéo ống
<i>Thông thực quản ngựa:</i> phải cố định tốt gia súc, đun sôi ống thông cho mềm và khi
thông phải bôi trơn bằng vaselin. Theo rãnh thực quản, đo từ mũi đến sườn 16 và lấy
dây buộc ống thông làm dấu độ dài. Cho ống thông vào lỗ mũi, nhẹ nhàng đẩy vào hầu
và từ từ lần theo động tác nuốt mà đẩy ống thông vào dạ dày.
Cần chú ý những dấu hiệu sau đây để phân biệt ống thông vào thực quản hay vào
khí quản:
Vào thực quản Vào khí quản
1. Có động tác nuốt
2. Khơng ho
3. Sờ được ống thông qua thực quản
4. Đẩy ống thơng vào thấy có lực cản và
ở rãnh thực quản có hằn
5. Khơng có khí ra theo ống thơng
1. Khơng có động tác nuốt
2. Thường ho
3. Khơng sờ được
4. Đẩy nhẹ, khơng có hằn chuyển động.
mm
5. Có khí ra qua ống thơng thực quản
<i><b>Với lợn, chó, gia cầm </b></i>đều thơng thực quản qua miệng.
<i><b>Chú ý: Lúc gia súc khó thở, viêm mũi, viêm họng thì khơng nên thơng thực quản. </b></i>
<i><b>b. Chẩn đốn </b></i>
<i>- Tắc thực quản:</i> khơng cho ống thông vào được và theo độ dài ngắn của ống thơng
trong thực quản để định vị trí thực quản bị tắc.
<i>- Thực quản hẹp:</i> đẩy ống thông vào khó khăn.
<i>- Thực quản giãn:</i> ống thơng có thể lọt vào chỗ giãn, không đẩy vào được.
<i>- Thực quản bị viêm:</i> khi cho ống thông vào gia súc đau, thực quản co bóp liên tục.
<b>3.3.5. Khám vùng bụng </b>
<i><b>a. Quan sát </b></i>
Khi quan sát vùng bụng thấy thể tích
vùng bụng căng to hơn bình thường, gặp
những trường hợp sau:
<i>* Tích thức ăn dạ dày, ruột: </i>
- Trâu bò: bệnh bội thực dạ cỏ.
- Ngựa: tích thức ăn manh tràng, kết
tràng.
<i>* Tích khí do thức ăn lên men làm cho bụng căng to, da căng. </i>
- Ngựa: đầy hơi ruột.
<i>* Tích nước do thẩm xuất hoặc thẩm lậu làm cho bụng ỏng, </i>dùng tay ấn lùng nhùng
gõ có vùng âm đục nằm ngang: xơ gan cổ chướng.
<i>* Gan sưng do ổ mủ, ung thư, xơ cứng làm vùng bụng to. </i>
<i>* Vùng bụng nổi lên cục sưng: thoát vị (Hernia), ổ mủ, thủy thũng, huyết thũng. </i>
Ngược lại khi quan sát thấy thể tích vùng bụng bé gặp trong các trường hợp gia súc
bị suy dinh dưỡng, gầy yếu, ỉa chảy mạn tính, liệt dạ cỏ ở trâu bị.
<i><b>b. Sờ nắn vùng bụng </b></i>
- Ở gia súc nhỏ thành bụng mỏng, sờ nắn vùng bụng có thể chẩn đốn ruột bị lồng,
bị tắc, dị vật trong dạ dày. Cách khám: hai tay để hai bên, ấn nhẹ lần theo cung sườn từ
trước ra sau, ấn sâu có thể sờ đến các khí quan trong xoang bụng.
- Với trâu bò, sờ nắn để khám dạ cỏ, dạ tổ ong.
- Ở ngựa thành bụng dày, căng nên sờ nắn bên ngồi để khám bệnh ít có kết quả;
thường phải khám qua trực tràng. Cách khám: một tay đặt vào sống lưng làm điểm tựa,
tay còn lại ấn mạnh vào vùng bụng để khám.
Ấn vào vùng bụng thấy gia súc đau, thường gặp khi: viêm màng bụng, lồng ruột,
xoắn ruột.
Thành bụng cứng: uốn ván, viêm màng bụng, viêm não tủy truyền nhiễm,…
<b>3.3.6. Khám dạ dày loài nhai lại </b>
Dạ dày loài nhai lại bao gồm dạ cỏ, dạ
tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế. Ở gia súc
trưởng thành dạ cỏ có thể tích lớn nhất, gia
súc đang kỳ bú sữa dạ múi khế lớn hơn dạ
cỏ.
Tuy dạ dày chia làm bốn túi nhưng
chúng hoạt động mật thiết với nhau. Ví dụ:
lúc dạ cỏ co bóp mạnh, dạ múi khế tăng
cường phân tiết, độ axit tăng. Lúc dạ cỏ liệt,
độ axit dạ múi khế giảm rõ rệt.
Trong thực tế dạ dày loài nhai lại
thường mắc các bệnh: tích thức ăn dạ cỏ,
liệt dạ cỏ, chướng hơi dạ cỏ, nghẽn dạ lá
sách và viêm dạ tổ ong do ngoại vật.
<i><b>Hình 3.7. Gõ vùng dạ cỏ </b></i>
a - Vùng âm bùng hơi;
b, c - Vùng âm đục tương đối;
<i><b>a. Khám dạ cỏ </b></i>
Vị trí dạ cỏ nằm hồn tồn phía bên trái thành bụng.
<i>* Quan sát: </i>Thể tích dạ cỏ căng to hơn bình thường gặp trong trường hợp: bội thực
dạ cỏ và chướng hơi dạ cỏ. Trường hợp chướng hơi cấp tính thể tích dạ cỏ phình to vượt
q cột sống, con vật thở khó, nếu không can thiệp kịp thời con vật chết nhanh ở trạng
Thể tích dạ cỏ bé hơn bình thường gặp trong trường hợp gia súc bị đói ăn lâu ngày,
ỉa chảy cấp tính, liệt dạ cỏ.
<i>* Sờ nắn dạ cỏ: </i>Dùng nắm tay ấn vào hõm hơng phía bên trái, khi bị chướng hơi có
cảm giác như ấn vào quả bóng bơm căng chứa đầy khí. Sức đàn hồi bề mặt da dạ cỏ rất
lớn. Ngược lại khi bị bội thực ấn vào dạ cỏ thấy thức ăn trong dạ cỏ chắc như túi bột,
sức căng của bề mặt da dạ cỏ kém, thường để lại vết lõm, sau một thời gian mới trở lại
bình thường.
<i>* Gõ dạ cỏ: Ở</i> trạng thái khoẻ, gõ vùng dạ cỏ chia làm 3 phần: phía trên cùng của
dạ cỏ là âm trống do tích hơi; phần giữa dạ cỏ do lẫn hơi và thức ăn - âm đục tương đối;
phần dưới cùng của dạ cỏ tích tồn bộ thức ăn - âm đục tuyệt đối. Khi bị bội thực dạ cỏ,
<i>gõ xuất hiện toàn bộ âm đục. Ngược lại chướng hơi dạ cỏ, gõ thấy toàn bộ âm trống. </i>
<i>* Nghe dạ cỏ: </i>Dùng ống nghe đặt vào
hõm hơng phía bên trái của lồi nhai lại để
nghe nhu động của dạ cỏ. Ở trạng thái
khỏe, nhu động dạ cỏ trong 2 phút: trâu bò
2 - 5 lần; dê 2 - 4 lần; cừu 3 - 6 lần. Nghe
tiếng nhu động dạ cỏ như tiếng sấm từ xa
vọng lại (hình 3.8).
<i>- Nghe thấy nhu động dạ cỏ giảm</i> gặp
trong trường hợp cơ dạ cỏ co bóp yếu do
liệt dạ cỏ, tích thức ăn dạ cỏ, các bệnh
nặng, các bệnh làm cơ thể sốt cao.
<i>- Trường hợp nghe thấy mất hoàn toàn </i>
<i>nhu động:</i> liệt dạ cỏ, chướng hơi cấp tính, bội thực dạ cỏ, nghẽn dạ lá sách, viêm màng
bụng và các bệnh nặng.
<i>- Nhu động dạ cỏ tăng, co bóp nhiều, lực co bóp mạnh: giai đoạn đầu chướng hơi </i>
dạ cỏ, trúng độc thức ăn, ăn phải các loại thức ăn lên men mạnh, mốc, thối, hàm lượng
gluxit cao.
<i>* Xét nghiệm chất chứa trong dạ cỏ: </i>
Sau khi trâu, bò ăn từ 2 - 3 giờ bắt đầu dùng ống thông lấy dịch dạ cỏ ra kiểm tra:
<i>- Màu sắc</i> dịch dạ cỏ tuỳ thuộc vào chất chứa, thức ăn trong dạ cỏ. Nếu dịch có màu
đen, cà phê, gạch là do có q trình viêm lt trong dạ cỏ.
<i>- Nếu dịch dạ cỏ có mùi thối</i> do liệt dạ cỏ lâu ngày.
Độ pH chất chứa trong dạ cỏ ở trạng thái sinh lý dao động từ 6,8 - 7,4 và độ axít
chung từ 0,6 - 9,2 đơn vị. Khi kiểm tra thấy độ axit tăng (30 - 40 đơn vị) do quá trình
lên men trong dạ cỏ mạnh, làm độ pH giảm so với bình thường.
Kiểm tra số lượng vi khuẩn hữu ích (Infuzoria - vi khuẩn phân huỷ xenluloza )
trong dạ cỏ trên kính hiển vi ở trạng thái bình thường cho thấy: trong 1ml dịch dạ cỏ có
200.000 - 500.000 vi sinh vật. Trên một lam kính khi soi kính hiển vi đếm được trung
bình từ 15 - 20 vi sinh vật. Khi số lượng vi khuẩn hữu ích giảm, cơ thể trâu bò rơi vào
trạng thái loạn khuẩn dạ cỏ.
<i><b>b. Khám dạ tổ ong </b></i>
Ở trâu bò nước ta thường hay gặp viêm dạ tổ ong do ngoại vật. Khi bị viêm dạ tổ
Vị trí dạ tổ ong nằm trên xương mỏm kiếm, khoảng xương sườn 6 - 8, hơi nghiêng
<i>về trái. </i>
Khám dạ tổ ong nhằm mục đích phát hiện phản ứng đau của trâu, bò khi bị viêm dạ
tổ ong do ngoại vật. Trong thực tế thường dùng các phương pháp phát hiện phản ứng
đau của trâu, bò như sau:
<i>Dùng địn khiêng hoặc đoạn gậy </i>có độ dài 1m đặt sau hai chân trước vào vị trí dạ tổ
ong, hai người hai bên nâng ép lên vùng dạ tổ ong và quan sát trâu bị có phản ứng đau
hay khơng?
<i>Dắt trâu, bị lên dốc và xuống dốc để quan sát. Khi đi lên, các khí quan trong xoang </i>
bụng dồn về phía sau, dạ tổ ong khơng bị chèn ép, con vật dễ chịu. Lúc đi xuống, dạ tổ
ong bị chèn ép, nếu có ngoại vật thì trâu, bị sẽ tỏ ra đau đớn.
<i> Cho trâu, bò nhảy qua rãnh hay bờ tường và quan sát: khi bị viêm dạ tổ ong do </i>
ngoại vật trâu, bị thường đứng dừng lại khơng dám nhảy.
<i>Dắt trâu, bò quay phải hoặc quay trái đột ngột.</i> Khi bị viêm dạ tổ ong do ngoại vật,
dắt quay trái trâu, bị đau đớn và thường chùn chân, khơng bước vì dạ tổ ong bị chèn ép,
khi quay phải trâu, bị vẫn đi bình thường.
<i>Dùng Arecolin hoặc Pilocarpin tiêm vào dưới da </i>cho trâu bò, sau khi tiêm khoảng
từ 5 - 10 phút quan sát thấy trâu, bị có phản ứng đau dữ dội. Phản ứng đau dữ dội này là
do thuốc tăng cường cơ trơn dạ tổ ong co bóp mạnh tác động vào ngoại vật gây phản
ứng đau.
<i><b>c. Khám dạ lá sách </b></i>
Vị trí dạ lá sách ở bên phải xoang bụng, trong khoảng xương sườn 7 - 9, trên dưới
đường ngang kẻ từ khớp vai song song với mặt đất.
<i>Sờ nắn:</i> dùng ngón tay hay nắm tay ấn mạnh vào các gian sườn 7, 8, 9 vùng dạ lá
<b>sách. Nếu con vật tỏ ra khó chịu, đau, né tránh, thường là triệu chứng nghẽn dạ lá sách. </b>
<i>Gõ:</i> dùng búa gõ nhẹ nhàng vùng dạ lá sách. Nếu có âm đục lẫn âm bùng hơi và
khơng có phản ứng đau là trạng thái bình thường. Nếu gia súc tỏ ra khó chịu, đau là
<b>triệu chứng nghẽn dạ lá sách, viêm dạ múi khế. </b>
<i>Nghe:</i> dùng ống nghe đặt vào vị trí dạ lá sách để nghe. Tiếng nhu động của dạ lá
sách gần giống tiếng nhu động của dạ cỏ, nhưng nhỏ hơn. Sau lúc ăn nhu động của dạ lá
sách khá rõ.
<i><b>Chú ý: lúc gia súc ăn thức ăn nhiều nước thì nhu động dạ lá sách gần giống như nhu </b></i>
động ruột. Nhu động dạ lá sách mất là triệu chứng nghẽn dạ lá sách. Nếu yếu thường
<b>gặp trong các bệnh sốt cao. </b>
<i>Chọc dò:</i> dùng kim chọc dị vào vị trí dạ lá sách, quan sát khơng thấy đốc kim quay
hình con lắc hoặc dùng xi lanh bơm dung dịch MgSO4 25% vào dạ lá sách, nếu thấy
nặng tay, kết hợp với các triệu chứng lâm sàng có thể kết luận con vật bị nghẽn dạ lá
sách.
<i><b>d. Khám dạ múi khế </b></i>
Dạ múi khế nằm phần dưới bụng, sát cung sườn, từ xương sườn 12 đến mỏm kiếm
bên phải.
<i> Sờ nắn:</i> đối với trâu bò, dùng 3 đầu ngón tay ấn mạnh theo cung sườn phải vào
trong và về phía trước. Bê, nghé, dê, cừu thì cho nằm nghiêng bên trái để sờ nắn dạ múi
khế.
<i>Gõ:</i> gõ dạ múi khế có âm đục, âm bùng hơi là trạng thái bình thường.
<i>Nghe:</i> tiếng nhu động của dạ múi khế như tiếng nước chảy, gần giống nhu động
ruột. Nhu động dạ múi khế tăng khi viêm dạ múi khế; nhu động giảm khi dạ cỏ bị liệt
<b>hoặc bội thực. </b>
Đối với bê, nghé ở giai đoạn bú sữa thường hay bị rối loạn tiêu hóa do bị viêm dạ
múi khế, loét dạ múi khế, viêm ruột ỉa chảy do E.coli và Salmonella.
<b>3.3.7. Khám dạ dày đơn </b>
<i><b>a. Dạ dày ngựa </b></i>
Ngựa biểu hiện triệu chứng: cơ thể gầy sút, trạng thái uể oải, hay ngủ gật, thiếu
máu, niêm mạc vàng thường do viêm loét dạ dày.
Ngựa biểu hiện đau bụng đột ngột, nôn mửa, ngồi như chó ngồi, vùng bụng từ
khoảng sườn 15 - 17 bên trái căng đầy thường do co thắt thượng vị, giãn dạ dày cấp
tính.
Khi tiến hành thông dạ dày, hơi ra nhiều, chua, gia súc dịu những cơn đau thường là
do giãn dạ dày cấp tính. Nếu con vật vẫn đau đớn thì tìm nguyên nhân khác.
Với ngựa thể vóc nhỏ mà dạ dày bị giãn nặng, có thể khám qua trực tràng đưa tay
về phía trước thận trái, sờ gặp dạ dày tròn, đàn hồi và di động theo nhịp thở.
<i><b>b. Dạ dày lợn </b></i>
Vị trí bên trái xoang bụng. Khi quan sát thấy vùng bụng bên trái căng to thì thường
bị đầy hơi hoặc bội thực.
Khi dạ dày bị chướng hơi sờ vào như bóng khí. Khi dạ dày bị bội thực sờ vào
thấy thức ăn rắn chắc, ấn mạnh làm lợn có phản xạ nơn. Ngoài ra một số bệnh gây
viêm loét dạ dày (dịch tả lợn, phó thương hàn lợn) khi ấn mạnh vào vùng dạ dày
cũng có thể gây nơn.
<i><b>c. Dạ dày chó, mèo </b></i>
Bội thực, đầy hơi thì vùng bụng trái căng to.
Khi ấn mạnh tay vào vùng bụng, dạ dày bội thực thì thức ăn trong dạ dày cứng và
chắc như ấn vào túi bột. Còn trường hợp dạ dày bị đầy hơi ấn tay vào có cảm giác như
ấn vào túi khí. Khi ấn tay vào vùng bụng gia súc đau, giãy giụa thì do viêm màng bụng,
viêm dạ dày.
Dùng phương pháp gõ vùng bụng giúp cho việc chẩn đoán các bệnh trên.
<b>3.3.8. Khám ruột </b>
Tiếp theo dạ dày là ruột non: tá tràng, không tràng, hồi tràng và ruột già: manh
tràng, kết tràng (đại kết tràng, tiểu kết tràng), trực tràng liền với hậu môn.
Động mạch treo tràng trước và động mạch treo tràng sau cung cấp máu cho đường
ruột. Hệ lâm ba ruột rất phát triển. Thần kinh thực vật chi phối hoạt động của đường
ruột: dây phó giao cảm hưng phấn tăng nhu động và phân tiết ở ruột. Dây thần kinh giao
cảm có tác dụng ngược lại.
Do cấu tạo đường ruột ở lồi gia súc khơng giống nhau nên phương pháp khám
bệnh cũng khác nhau.
<i><b>a. Khám ruột loài nhai lại </b></i>
<i>Sờ nắn:</i> ấn mạnh vùng bụng bên phải gia súc đau đớn: do lồng ruột, xoắn ruột, thoát
vị, viêm màng bụng.
<i>Gõ:</i> tá tràng ở dưới mỏm ngang của xương khum phía bên phải; bờ trước giáp vùng
âm đục của gan, bờ sau là cung sườn.
<b>- Gõ tá tràng trâu bị có âm bùng hơi. </b>
- Manh tràng ở phía trước và phía dưới cánh xương hơng; gõ có âm đục.
- Kết tràng ở giữa vùng âm đục của gan và manh tràng; gõ có âm bùng hơi.
- Khơng tràng và hồi tràng ở mé dưới bụng sau dạ lá sách và dạ múi khế: gõ phần
trên có âm bùng hơi, phần dưới có âm đục.
Lúc gõ vùng ruột chú ý các biểu hiện tắc ruột, xoắn ruột, lồng ruột,…
<i>Nghe ruột</i>: Nhu động ruột loài nhai lại nghe mịn, tiếng nhu động yếu. Nhu động
<b>ruột mất là do tắc ruột (do thức ăn tích lại trong ruột, lồng ruột, xoắn ruột) và liệt ruột. </b>
Nhu động ruột tăng: do kinh luyến ruột, viêm dạ dày và ruột cấp tính, các nguyên
nhân gây ỉa chảy khác, gia súc bị trúng độc cấp tính.
<i>Khám trực tràng: </i>Chủ yếu để khám thai, khám bàng quang, khám thận.
Người khám phải cắt móng tay và mài thật nhẵn. Tập khám bằng tay trái vì thuận
Sờ vào trực tràng trâu, bò khỏe thấy phân nhão. Nếu có nhiều dịch nhày, lẫn máu,
mùi khắm thường gặp trong các bệnh như lồng ruột, xoắn ruột, thoát vị. Trực tràng đầy
máu thường do xuất huyết, cầu trùng, nhiệt
thán, chấn thương cơ giới.
Cho tay lần theo thành bụng để phát
hiện thoát vị, tắc ruột, xoắn ruột (ruột cuộn
thành một đám to). Ấn mạnh tay gia súc đau
do ruột lồng thành một đoạn ruột thẳng,
cứng. Nếu tắc ruột do phân gây táo bón thì
sờ vào có cảm giác rất cứng.
Ngồi ra có thể khám một số bộ phận
khác như bàng quang, tử cung, buồng trứng
và thận phải.
<i><b>b. Khám ruột ngựa, la, lừa </b></i>
Quan sát: vùng bụng phải chướng to do
tích hơi ở ruột già; vùng bụng thóp lại do ỉa
chảy mạn tính, đói ăn.
<i>Sờ nắn:</i> áp dụng với ngựa nhỏ, những con gầy và chú ý hiện tượng thoát vị, viêm
màng bụng.
<i>Gõ: chia bụng trái làm 3 phần: phần trên là tiểu kết tràng, phần giữa là ruột non và </i>
phần dưới là đại kết tràng. Bên phải kẻ đường ngang từ xương cánh hông xuống dưới,
Vùng ruột non bình thường gõ có âm đục tương đối. Vùng tiểu kết tràng khi ruột
trống gõ có âm bùng hơi; đầy phân - âm đục. Nếu tắc ruột vùng đại kết tràng gõ có vùng
âm đục mở rộng. Khi ruột tích đầy hơi gõ xuất hiện âm trống chiếm ưu thế.
Vùng manh tràng: phần trên là âm bùng hơi, phần dưới là âm đục tương đối hay âm
bùng hơi. Khi manh tràng tích thức ăn gõ xuất hiện âm đục. Ngược lại khi manh tràng
tích hơi gõ xuất hiện âm trống.
<i>Nghe:</i> bên phải, vùng hõm hông nghe được tiếng nhu động của manh tràng; phía
dưới theo cung sườn là tiếng nhu động của đại kết tràng. Phía bụng trái nghe lần lượt từ
trên xuống là tiếng nhu động của tiểu kết tràng, của ruột non và dưới cùng là tiếng nhu
động của đại kết tràng.
Tần số nhu động của ruột già: 4 - 6 lần/phút, ruột non 8 - 12 lần/phút. Tiếng nhu
động của ruột non nghe rõ gần như tiếng nước chảy. Ruột già nhu động nhẹ, tiếng yếu
không rõ.
Nhu động của ruột phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất thức ăn, quá trình viêm
nhiễm trong đường ruột.
- Nhu động ruột tăng: do thức ăn, nước uống quá lạnh, thức ăn bị nhiễm độc, viêm
ruột; giai đoạn đầu đầy hơi ruột.
- Nhu động ruột giảm do ỉa chảy lâu ngày, đầy hơi ruột nặng, ruột liệt, tắc, viêm
ruột nặng, thần kinh phó giao cảm quá ức chế.
<i>Khám qua trực tràng</i>: thường để chẩn đoán hội chứng đau bụng ngựa (do tắc ruột,
Ruột non ngựa, la, lừa, xếp trong xoang bụng theo thứ tự: tá tràng, không tràng, hồi
tràng.
Ruột già: xếp trong xoang bụng theo thứ tự: manh tràng, đại tràng phía dưới bên
phải, gấp khúc hồnh mô; đại kết tràng dưới bên trái, gấp khúc chậu hơng; đại kết tràng
trên bên trái gấp khúc hồnh mô; đại kết tràng trên bên phải; tiếp đến là manh nang của
đại kết tràng, tiểu kết tràng và trực tràng.
Khi tiến hành khám phải cố định gia súc chắc chắn. Cố định gia súc trong gióng,
buộc hai chân sau kéo về phía trước và kéo đi sang một bên. Dùng tay phải để khám
và thụt cho hết phân trong trực tràng trước khi khám. Chụm 5 đầu ngón tay lại, đưa vào
trực tràng, nhẹ nhàng đẩy tay về phía trước.
- Nếu cơ vịng hậu mơn giãn: do gia súc ỉa chảy lâu ngày, nằm lâu ngày, xương
khum bị tổn thương.
- Trường hợp trực tràng có nhiều chất nhày lẫn máu: do tắc ruột, xoắn ruột, lồng
ruột, viêm ruột xuất huyết, cầu trùng.
- Nếu trực tràng có máu tươi thường tác động cơ giới gây xuất huyết ở trực tràng.
- Cho tay đến bờ trước xương chậu gặp tiểu kết tràng, phía dưới là bàng quang. Nếu
vùng tiểu kết tràng ruột đánh thành túi dài, đầy những cục phân cứng: tắc ruột do táo
bón.
Vùng bụng trái là khu đại kết tràng. Ngay dưới xương chậu, phía dưới hơi nghiêng
về bên trái là gấp khúc chậu hơng. Nếu bị tắc ruột thì đại kết tràng bên trái đoạn trên,
đoạn dưới và gấp khúc chậu hông chứa đầy phân căng to chiếm hết khoang bụng trái.
Kết tràng đầy hơi, bụng căng. Nên chú ý trường hợp kết tràng tắc và phần trước lại
đầy hơi.
Ruột non hay xoắn với gấp khúc chậu hông của kết tràng bên trái hay với gốc manh
tràng.
Nếu cơ hoành bị thủng, ruột chảy vào xoang ngực, xoang bụng trở nên rỗng, áp lực
rỗng và ruột di chuyển nhẹ theo động tác thở.
Trong xoang bụng, nếu ruột non lồng vào nhau tạo thành những khúc như lạp sườn,
ấn mạnh gia súc đau.
Manh tràng bị tắc tạo thành túi to như quả bưởi lớn, phần trên là khí, dưới cứng
thường có sỏi.
Manh tràng đầy hơi chướng to chiếm cả xoang bụng.
Ruột non bị tắc thường ít gặp.
<i>Chú ý</i> khi khám thành bụng nếu thấy thành bụng không trơn, ấn gia súc đau là do
viêm màng bụng.
<i><b>c. Khám ruột non gia súc nhỏ </b></i>
<i>Khám ruột lợn </i>
- Ruột non bên phải, ruột già bên trái.
- Bụng chướng to: do đầy hơi, bội thực. Bụng xẹp do ỉa chảy lâu ngày.
- Dùng hai tay ép hai bên thành bụng, ấn mạnh vào vùng bụng, thấy tụ lại cục cứng
<i>Khám ruột dê, cừu </i>
<i>Khám ruột chó, mèo </i>
- Khi khám có thể cho con vật đứng hay nằm. Dùng đầu ngón tay ấn mạnh vùng
bụng, con vật đau do tắc ruột, lồng ruột, xoắn ruột, viêm ruột. Sờ vào thấy phân đọng lại
cục xếp thành chuỗi trong xoang bụng do táo bón. Sờ vào vùng bụng có cảm giác bùng
nhùng do tích dịch trong xoang bụng.
- Gõ để phát hiện ruột đầy hơi, táo bón.
- Nghe thấy nhu động ruột giảm, mất do con vật bị tắc ruột, viêm màng bụng.
- Với chó có thể dùng X - quang và phương pháp nội soi, siêu âm vùng bụng.
<b>3.3.9. Khám phân </b>
Phân gia súc gồm bã thức ăn (chất xơ, protit, lipit,…), chất tiết của tuyến tiêu hóa,
tế bào thượng bì niêm mạc ruột tróc ra, chất khống và một số vi sinh vật thường có
trong đường ruột. Do vậy, việc khám phân có ý nghĩa lớn trong chẩn đoán.
<i><b>a. Khám phân bằng mắt thường </b></i>
<i>Số lượng:</i> tùy thuộc vào số lượng và chất lượng thức ăn.
- Trâu bò khỏe một ngày đêm thải khoảng 15 - 35 kg phân, ngựa: 15 - 20 kg, dê,
cừu: 2 - 3 kg, lợn: 1 - 3 kg, chó: 0,5 kg. Lượng phân của lồi gia súc ăn thịt ít hơn của
lồi ăn cỏ.
- Các trường hợp ỉa chảy phân nhiều nước, số lượng tăng. Gia súc bị táo bón phân
- Trong hầu hết các bệnh có sốt cao đều gây táo bón và lượng phân ít.
<i>Độ cứng:</i> có liên quan đến lượng thức ăn và tình trạng tiêu hóa của đường ruột.
Phân trâu bị tỷ lệ nước khoảng 85%, nhão, đi ngoài thành từng bãi. Phân ngựa, tỷ lệ
nước khoảng 75%, phân hình ống ruột, đi ngồi thành hịn trịn. Phân dê, cừu khơ, tỷ lệ
nước khoảng 5,5%, đi ngồi thành viêm trịn, cứng. Phân lợn hình ống ruột, phân gia
cầm khơ, hình chóp bên ngồi có lớp màng trắng.
- Các nguyên nhân gây tăng nhu động ruột - viêm ruột, nhiễm độc tố, lạnh,…gây ỉa
chảy, phân nhão và nhiều.
- Nhu động ruột giảm, phân tiết ít gây táo bón (do liệt ruột, viêm ruột cata,…) thì phân
khơ cứng và ít.
<i>Màu sắc:</i> phụ thuộc rất nhiều màu sắc thức ăn và tuổi gia súc.
- Phân màu trắng ở gia súc non: thường thấy ở bệnh phân trắng (do không tiêu, do
Colibacillosis), phó thương hàn.
- Phân nhạt màu: do sắc tố mật ít trong bệnh viêm gan, tắc ống mật.
- Phân táo bón thường màu đen, do gia súc bị sốt cao.
<i><b>Chú ý: màu phân còn thay đổi do uống thuốc. </b></i>
<i>Mùi:</i> phân loài ăn thịt thối, phân các loài gia súc khác không thối.
- Phân thối thường do rối loạn tiêu hóa, đường ruột có q trình lên men, thối rữa.
- Tăng niêm dịch dạ dày do phân tiết trên niêm mạc đường ruột tăng, táo bón lâu
ngày, viêm cata ruột già. Tắc ruột, phân toàn niêm dịch lẫn máu.
- Phân có màng giả do những sợi huyết (fibrin), huyết cầu, những mảnh tổ chức
niêm mạc ruột bong ra, dính với nhau tạo thành, theo phân ra ngồi thành từng mảng
hoặc theo hình ống ruột.
- Màng giả là triệu chứng viêm ruột nặng và tiên lượng điều trị khơng tốt.
- Mủ, có khi cả những mảnh tổ chức nhỏ lẫn trong phân do niêm mạc ruột, niêm
mạc dạ dày bị loét bong tróc ra.
- Phân lẫn máu: do ký sinh trùng (cầu trùng, lê dạng trùng), loét ruột, xoắn ruột,
lồng ruột, viêm nặng, các bệnh truyền nhiễm như nhiệt thán, dịch tả,…
<i>- Phân lẫn những bọt khí: do rối loạn tiêu hóa và lên men trong đường ruột. </i>
- Phân gia súc có thể có những mảnh vật lạ do gia súc ăn bậy gặp trong bệnh dại,
thiếu khống.
<i><b>b. Hóa nghiệm phân </b></i>
Một số ca bệnh cần phải xét nghiệm phân để giúp cho q trình chẩn đốn được
chính xác (độ kiềm toan trong phân, máu trong phân, sắc tố mật trong phân, axit hữu cơ
trong phân,...). Nhưng trong thực tế lâm sàng người ta thường xét nghiệm:
<i>* Độ toan, kiềm của phân:</i> phụ thuộc vào thành phần và tính chất của thức ăn. Gia
súc ăn cỏ, bề mặt của phân có tính toan yếu, bên trong phân có tính kiềm. Phân lồi ăn
Trong ruột, thức ăn giàu protit phân giải, phân thường kiềm tính, thức ăn giàu lipit
và gluxit lên men tạo ra nhiều axit béo, phân mang tính toan.
Phương pháp xét nghiệm: nhúng giấy quỳ vào nước cất cho ướt sau đó áp nhẹ vào
phân và đọc kết quả.
Hoặc: lấy 2 - 3g phân cho vào ống nghiệm, rồi thêm vào 10ml nước cất, ngốy cho
tan đều và để n trong phịng 6 - 8 giờ. Quan sát phần nước bên trên, nếu thấy trong có
nghĩa là toan, đục là kiềm.
<i>* Máu trong phân:</i> xét nghiệm phát hiện máu trong phân được sử dụng trong trường
hợp nghi phân có máu mà mắt thường khơng nhìn thấy được.
Thuốc thử: 1/ Benzidin 1% trong axit acetic đặc (glacian, pha và dùng ngay).
2/ Nước oxy già (H2O2) 3%.
Cách làm: lấy 2 - 3g phân kiểm nghiệm cho vào trong ống nghiệm, thêm vào 3 -
4ml nước cất, ngoáy cho tan rồi đun sôi. Để nguội, lấy vài giọt hỗn dịch trên vào một
ống nghiêm khác, cho thêm 10 - 12 giọt 1% Benzidin, nước oxy già cùng lượng 3%.
Nếu hỗn dịch xuất hiện màu xanh có nghĩa là dương tính (trong phân có máu).
Có thể làm: lấy 3g phân, 1ml axit acetic đặc, 1ml ete (ether) etylic (ethylic), lắc đều
và để yên. Hút vài giọt phần trong ở trên và thêm vào 10 - 20 giọt 1% Benzidin, nước
oxy già cùng lượng. Hỗn dịch xuất hiện màu xanh nghĩa là phản ứng dương tính.
Các phản ứng tìm máu với thuốc thử Benzidin đều dựa trên nguyên tắc trong hồng
cầu có men oxydaza, ở mơi trường toan tính giải phóng oxy trong nước oxy già dưới
Gia súc ăn các loại thức ăn như thịt, tiết, gan,… hai ngày sau phản ứng tìm máu
trong phân vẫn có kết quả dương tính. Do vậy, lúc cần xét nghiệm máu trong phân của
chó, mèo phải chú ý kiểm tra khẩu phần thức ăn của chúng 1 - 2 ngày trước.
<b>3.3.10. Chọc dò xoang bụng </b>
<i><b>a. Ý nghĩa chẩn đoán </b></i>
Khi quan sát thấy con vật bụng to, thở khó, gõ vào vùng bụng thấy âm đục song
song với mặt đất, chúng ta tiến hành chọc dò xoang bụng lấy dịch ra để kiểm tra xem
dịch đó là dịch viêm hay dịch phù, từ đó chẩn đốn được nguyên nhân gây ra bệnh và
đưa ra phương pháp điều trị thích hợp.
<i><b>b. Phương pháp chọc dị </b></i>
Khi chọc dò xoang bụng phải cố định
gia súc thật chắc chắn.
Vị trí chọc ở hai bên thành bụng, cách
đường trắng 2 - 3cm, cách xương mỏm kiếm
10 - 15cm về phía sau. Ở ngựa nên chọc về
bên trái để tránh manh tràng. Ở trâu, bò chọc
bên phải để tránh dạ cỏ.
Tùy gia súc to nhỏ, dùng kim số 16, 14
để chọc.
<i><b>Chú ý: kim chọc dò được nối liền ống hút khi cần thiết để hút dịch. </b></i>
- Phải sát trùng tốt dụng cụ chọc dị, nhất là đối với ngựa và chó.
- Cắt sạch lông, sát trùng bằng cồn iod 5%.
- Chọc kim thẳng góc với thành bụng, đẩy nhẹ vào tránh chọc thủng khí quan bên
trong. Ở gia súc khoẻ dịch chọc dò trong xoang bụng có khoảng 2 - 5ml, dịch trong suốt.
+ Nếu gia súc đau bụng mà dịch chọc dò ra nhiều, màu vàng thì có thể ruột biến vị.
+ Dịch chọc dị có máu, nhiều chất nhầy thì có thể do gia súc bị xoắn ruột.
+ Dịch đục, nhiều niêm dịch, sợi huyết thì có thể do gia súc bị viêm màng bụng.
+ Dịch chọc ra tồn máu thì có thể do vỡ gan, lách hay mạch quản lớn.
+ Nếu dịch lẫn mảnh thức ăn, mùi chua, máu thì có thể do vỡ dạ dày.
+ Dịch chọc dị có nước tiểu thì có thể do vỡ bàng quang.
<i><b>Chú ý: phản ứng Rivanta để phân biệt dịch phù (dịch thẩm lậu) và dịch viêm (dịch </b></i>
thẩm xuất) (xem phần “chọc dò xoang ngực”).
<b>3.3.11. Khám gan </b>
<i><b>a. Ý nghĩa chẩn đoán </b></i>
Khám gan để phát hiện các trường hợp viêm gan, xơ gan và rối loạn chức năng của
gan. Ở gia súc gan thường bị viêm, thoái hoá, xơ gan,…Đặc biệt ở trâu, bò nước ta tỷ lệ
nhiễm sán lá gan rất nặng, thường gây tổn thương ở gan dẫn đến cơ thể gầy yếu, ỉa
chảy, năng suất lao động và hiệu quả chăn nuôi kém.
Những bệnh gan ở gia súc và gia cầm tiến triển cấp tính, triệu chứng rõ (viêm gan
<i><b>b. Vị trí khám gan </b></i>
<i>Trâu bò:</i> gan nằm ở vùng bên phải, từ xườn 6 đến xườn cuối. Phần sau gan lộ ra
ngoài phổi, tiếp giáp với thành bụng khoảng xườn 10 - 12.
Gõ từ xườn 10 - 12 trên dưới đường kẻ ngang từ mỏm xương hông là vùng âm đục
của gan. Phía sau là vùng tá tràng, phía trước là phổi. Gan sưng to, vùng âm đục mở
rộng về phía sau, có thể kéo đến xườn 12, trên đường ngang kẻ từ mỏm xương ngồi, về
phía dưới âm đục của gan có thể đến trên đường ngang kẻ từ khớp vai.
Trường hợp gan sưng rất to, lòi ra ngồi cung sườn, làm cho hõm hơng bên phải
nhô cao. Sờ được bằng tay một cục cứng chuyển động theo nhịp thở.
Gan trâu bò sưng to: do viêm mạn tính, lao gan, xơ do sán lá gan, ổ mủ, ung thư.
Ở những bò sữa cao sản, gan sưng to thường do trúng độc thức ăn dẫn đến rối loạn
trao đổi chất lâu ngày gây nên.
<i>Vùng gan ở dê</i>, cừu giống ở trâu bò.
- Gan sưng to, gõ theo cung xườn bên trái khoảng gian sườn 7 - 10, bên phải: 10 -
17. Khi ấn tay theo cung sườn có thể sờ thấy gan cứng, chuyển động theo nhịp thở. Gan
sưng to do viêm mạn tính, ổ mủ, khối u.
- Khi khám vùng gan ở ngựa cần chú ý các triệu chứng lâm sàng khác: hoàng đản,
tim đập chậm, thành phần nước tiểu thay đổi rõ. Gia súc ủ rũ, hôn mê.
<i>Gia súc nhỏ:</i> để gia súc đứng và quan sát so sánh hai bên bụng. Sờ theo cung sườn,
ấn từ nhẹ đến nặng. Chú ý gan to nhỏ, độ cứng và phản ứng đau.
<i>Chó:</i> gan bên phải từ sườn 10 - 13, gan bên trái đến sườn 12. Gan chó thay đổi vị trí
theo độ dày của dạ dày. Gan chó sưng to là do
viêm, tụ máu; gan chó bị leucosis sưng rất to, lồi
hẳn ra ngồi cung sườn.
<i>Gan lợn:</i> khám giống ở chó, bằng cách sờ nắn
và gõ kết quả không rõ.
<i><b>c. Các xét nghiệm cơ năng </b></i>
Gan tổng hợp phần lớn protein huyết thanh,
albumin, globulin, fibrinogen, protrombin. Ở gan
diễn ra quá trình chu chuyển amin, hình thành sản
phẩm cuối cùng của trao đổi amin là ure. Gan tham
gia tích cực vào q trình đơng máu bằng cách tạo
ra fibrinogen, protrombin, heparin.
Gan dự trữ khối lượng lớn lipit cho cơ thể, nơi hình thành các phospholipit,
cholesterol. Các axit béo được oxy hóa thành các sản phẩm như thể xeton và các axit
đơn giản khác cũng xảy ra ở gan. Vitamin A, B1 và K được tạo thành trong gan.
Các chất độc từ các tổ chức, khí quan, sản phẩm của quá trình lên men trong đường
ruột, các sản phẩm của quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Tất cả những chất cặn bã đó
đều qua gan và bằng các phản ứng hóa học phức tạp, bị phá hủy chuyển thành các chất
không độc và bài thải ra ngoài cơ thể.
Tế bào gan bị tổn thương nhất định kéo theo chức năng của nó rối loạn.
Khám bệnh gan, ngồi các phương pháp phát hiện tổn thương thực thể cịn có các
phương pháp phát hiện chức năng - gọi là các xét nghiệm chức năng.
Hiện nay có hàng trăm nghiệm pháp chức năng, tùy theo yêu cầu chẩn đoán cụ thể
để chọn phương pháp thích hợp.
<b>3.4. KHÁM HỆ THỐNG TIẾT NIỆU </b>
Khám bệnh ở các cơ quan hệ thống tiết niệu của gia súc chủ yếu là các bệnh ở thận
và ở bàng quang. Ngoài ra tiến hành xét nghiệm nước tiểu để có tư liệu giúp chẩn đoán
bệnh ở đường tiết niệu cũng như bệnh ở tồn thân (hình 3.12)
<b>3.4.1. Khám động tác đi tiểu </b>
Nước tiểu từ các thận tiểu cầu chảy về bể
thận, rồi theo ống dẫn liên tục xuống bàng
quang. Trong bàng quang nước tiểu tích tụ đầy
đến mức độ nào đó, làm căng bàng quang sẽ gây
kích thích đi tiểu, tống nước tiểu ra ngồi.
Khám động tác đi tiểu: tư thế đi tiểu, lượng
nước tiểu và các biểu hiện khác thường.
<i><b>a. Tư thế đi tiểu </b></i>
Gia súc khỏe đi tiểu đều có sự chuẩn bị, như
đang nằm thì đứng dậy, ngừng làm việc, ngừng
ăn,…
Bò cái khi đi tiểu, hai chân sau dạng ra, đi cong, bụng thóp lại; trâu bò đực lại
Ngựa lúc đi tiểu, hai chân sau dạng ra, hơi lùi về phía sau và phần thân sau thấp
xuống.
Lợn cái đi tiểu giống trâu, bò cái. Lợn đực đi tiểu từng giọt liên tục.
Nếu đường dẫn nước tiểu có bệnh, tư thế gia súc đi tiểu thay đổi. Ví dụ: khi viêm
niệu đạo, gia súc đi tiểu đau, rên rỉ, đầu quay nhìn bụng, hai chân sau chụm lại.
<i><b>b. Số lần đi tiểu </b></i>
Trong một ngày đêm, trâu, bò đi tiểu 5 - 10 lần; ngựa 5 - 8 lần; dê, cừu 1 - 3 lần;
chó, lợn: 2 - 3 lần. Chó đực khi ngửi thấy mùi nước tiểu là đi tiểu.
Chú ý các triệu chứng sau:
<i>- Đi tiểu ít</i> (Oliguria): số lần đi tiểu ít, lượng nước tiểu ít. Nước tiểu màu sẫm, tỷ
trọng cao. Do viêm thận cấp tính, các bệnh làm cho cơ thể mất nước nhiều - ỉa chảy
nặng, ra nhiều mồ hôi, sốt cao, dịch thẩm xuất và dịch thẩm lậu nhiều, nôn mửa liên tục.
<i>- Không đi tiểu (Anuria): không đi tiểu do thận, như lúc viêm thận cấp tính nặng thì </i>
bàng quang trống. Có thể chẩn đốn qua trực tràng. Gia súc khơng đi tiểu được do bàng
quang, nếu bị vỡ bàng quang thì gia súc đau đớn, nước tiểu tích lại trong xoang bụng,
chẩn đốn qua trực tràng và chọc dị xoang bụng.
Nếu do co thắt cơ vùng bàng quang, liệt bàng quang, tắc niệu đạo thì nước tiểu căng
<i><b>đầy bàng quang, chẩn đoán phân biệt qua trực tràng. Chú ý: Ở gia súc nhất là trâu bò </b></i>
đực giống hay bị viêm bàng quang xuất huyết dẫn đến tắc niệu đạo.
<i>- Đi đái dắt (Pollakiuria): đi đái nhiều lần từng ít một (ngược lại đi đái nhiều lần, </i>
<i>- Đa niệu là triệu chứng viêm thận mạn tính, hấp thụ tiêu dịch thẩm xuất trong cơ </i>
thể. Uống nhiều nước, uống thuốc lợi tiểu cũng gây đa niệu. Gia súc đa niệu nước tiểu
màu nhạt, tỷ trọng thấp, trong suốt.
<i>- Đi đái không cầm được (Enuresis): đi đái khơng có động tác chuẩn bị, nước tiểu </i>
chảy rỉ liên tục. Do không điều tiết được động tác đi tiểu và thường gặp trong các
trường hợp liệt cơ vòng co thắt bàng quang, cột sống lưng bị tổn thương; gia súc hôn
mê, nằm lâu ngày.
<i>- Đi đái đau (Stranguria): gia súc đi đái thường rên, đầu quay nhìn bụng, đuôi cong </i>
chân cào đất,...thường gặp ở các bệnh: viêm bàng quang, viêm niệu đạo, tắc niệu đạo,
viêm tuyến tiền liệt.
<b>3.4.2. Khám thận </b>
Ở gia súc người ta thường chỉ chú ý bệnh viêm thận (Nephritis), bệnh thận
(Nephrosis) và bệnh viêm bể thận (Pyelitis).
Chẩn đốn những bệnh trên thường khó vì gia súc khơng biết nói, triệu chứng đau
vùng thận thường bị bỏ qua.
<i><b>a. Những triệu chứng chung khi thận bị bệnh </b></i>
- Thủy thũng ở mi mắt, bìu đái, dưới bụng, bốn chân,…Do bệnh ở thận, bài tiết trở
ngại, NaCl tích lại nhiều trong máu, trong tổ chức và albumin trong máu theo nước tiểu
ra ngoài nhiều... làm thay đổi áp lực keo của máu, của tổ chức, gây thủy thũng.
- Động tác đi tiểu, lượng nước tiểu, tính chất nước tiểu thay đổi. Trong nước tiểu có
thể có huyết sắc tố, những cặn bệnh lý khác,…
- Trúng độc ure do chất độc, chất thải của trao đổi chất trong cơ thể không thải ra
ngồi, tích lại trong tổ chức cơ thể gây ra. Khi trúng độc, gia súc ủ rũ, tiêu hoá rối loạn,
nơn, có khi ỉa chảy. Động tác hơ hấp thay đổi, thở khó có trường hợp viêm phổi, thủy
thũng phổi. Trúng độc ure nặng, bệnh súc hôn mê, chết.
- Tim thay đổi: huyết áp cao, tiếng tim thứ hai tăng; trường hợp nặng, tiếng tim thứ
hai tách đôi, tâm thất trái nở dày, mạch cứng.
Đáy mắt gia súc viêm thận có sự thay đổi đáng chú ý: vi mạch quản sung huyết,
thần kinh thị giác thủy thũng; xung quanh thể vàng những điểm xuất huyết xen lẫn
những điểm trắng.
<i><b>b. Nhìn và sờ nắn vùng thận </b></i>
- Đối với gia súc nhỏ, nhìn vùng thận có thể phát hiện những thay đổi khi thận có
bệnh. Vị trí của thận nằm hai bên cột sống.
- Ngựa: thận trái từ xương sườn thứ 17 - 18 đến đốt sống lưng 2 - 3, thận phải từ
xương sườn thứ 14 - 15 đến xương sườn cuối cùng.
- Lợn: thận nằm dưới đốt sống lưng 1 - 4.
- Loài ăn thịt: Thận trái nằm ở đốt sống lưng 2 - 4, thận phải ở đốt 1 - 3.
Khi khám: gia súc nhỏ để đứng tự nhiên, gia súc lớn cố định và khám qua trực
tràng.
<i>Sờ nắn bên ngoài:</i> tay trái người khám để nhẹ lên vùng khum lưng làm điểm tựa;
tay phải gõ nhẹ lên sống lưng theo vùng thận và theo dõi phản ứng của gia súc. Viêm
thận nặng, gõ vùng thận gia súc đau - tránh xa.
<i>Sờ qua trực tràng: </i>
- Với trâu bò: lần thẳng tay về phía trước, sờ được thận trái treo dưới cột sống, di
động. Thận sưng to do viêm, mặt quả thận gồ ghề: do viêm thận mạn tính, lao thận. Quả
thận bé là bị teo.
- Với ngựa: thẳng tay lần đến đốt sống lưng thứ 2 - 3 thì sờ được thận trái. Ấn nhẹ
quả thận, gia súc đau - tỏ ra khó chịu: do viêm thận cấp tính hoặc ổ mủ. Quả thận to, sờ
lùng nhùng: thận thủy thũng (ở gia súc rất ít thấy). Thận cứng, gồ ghề: do u thận.
- Khám thận gia súc nhỏ: hai tay hai bên theo cột sống vùng khum, lần mạnh sờ
vùng thận, chú ý gia súc có biểu hiện đau đớn. Lợn có tầng mỡ dầy, sờ nắn bên ngồi để
khám thận kết quả khơng rõ.
<i><b>c. Thử nghiệm chức năng thận </b></i>
Trong thực tiễn thú y thường không cần thiết phải tiến hành thử nghiệm chức năng.
Do vậy, việc nghiên cứu về mặt này cũng không được chú ý.
<b>3.4.3. Khám bàng quang </b>
Bàng quang nằm ở phần dưới xương chậu: ở trâu bị hình quả lê, ở ngựa hình trịn;
lúc chứa đầy nước tiểu to bằng cái bát.
Cho tay qua trực tràng hướng xuống xoang chậu có thể sờ được bàng quang lúc đầy
nước tiểu. Gia súc khỏe, bàng quang bình thường: ấn nhẹ tay vào bàng quang có nước
+ Nếu bàng quang xẹp, nhưng gia súc lại bí đái thì cần thiết chọc dị xoang bụng:
- Xoang bụng có nước tiểu: do vỡ bàng quang.
- Xoang bụng trống: bí đái do thận (viêm thận cấp tính nặng).
+ Bàng quang căng đầy nước tiểu:
- Ấn mạnh tay vào bàng quang, nước tiểu chảy ra, thôi ấn nước tiểu thôi chảy: do
liệt bàng quang.
- Bí đái: ở gia súc trong nhiều ca bệnh do táo bón (khi móc hết phân ở trực tràng thì
hết bí đái).
- Sờ ấn bàng quang gia súc đau: do viêm bàng quang cấp tính, sỏi niệu đạo. Ở ngựa
phải chú ý viêm màng bụng.
<i>* Soi bàng quang (khám bàng quang gia súc cái) </i>
- Kính soi bàng quang gồm một cán bằng kim loại gắn với một bóng đèn nhỏ.
- Trước khi soi, nên thông bàng quang lấy hết nước tiểu, rửa sạch bằng nước sinh
lý, nhất là những ca bệnh nước tiểu đục có lẫn máu, mủ.
- Soi bàng quang phát hiện vùng viêm, loét, sỏi trong bàng quang.
- Với gia súc thể vóc nhỏ có thể chiếu hoặc chụp bằng X - quang và siêu âm.
<b>3.4.4. Khám niệu đạo </b>
- Niệu đạo con đực bị tắc: viêm, bị sỏi.
- Niệu đạo con cái: viêm, tắc, hẹp.
- Khám niệu đạo con đực: phần niệu đạo nằm trong xoang chậu thì khám qua trực
tràng, nhưng khó khăn, đoạn vịng qua dưới xương ngồi thì sờ nắn bên ngồi.
- Niệu đạo con cái mở ra trên mặt dưới âm đạo, cho ngón tay vào sờ nắn qua âm đạo.
<i>* Thơng niệu đạo </i>
Trong nhiều ca chẩn đốn cần thơng niệu đạo. Thơng niệu đạo cịn để điều trị viêm
tắc niệu đạo.
Dụng cụ thông: ống thông niệu đạo các loại, tùy gia súc to nhỏ.
Chuẩn bị: rửa thật sạch ống thông, nhất là trong lòng ống. Bôi vaselin phần ống
thông nằm trong niệu đạo.
Thơng niệu đạo trâu bị đực: vì có đoạn niệu đạo hình chữ S nên khó thơng. Khi cần
thiết phải gây tê tại chỗ bằng 15 - 20ml novocain 3% và dùng ống thông mềm.
Nếu thông niệu đạo con cái thì phải cắt nhẵn ngón tay trỏ để khi cố định cửa niệu
đạo không gây xây xát âm hộ.
<i>- Thơng niệu đạo trâu, bị cái, ngựa cái: </i>
<i><b>Chú ý: cố định tốt gia súc, rửa sạch âm hộ gia súc. </b></i>
Người thông đứng sau gia súc, tay phải cầm ống thơng. Cho ngón trỏ tay trái vào
âm hộ tìm lỗ niệu đạo, rồi dùng đầu ngón tay cố định. Cho ống thơng vào theo ngón tay
trỏ. Lần dần ống thơng làm sao ống thơng lọt được vào cửa niệu đạo mà ngón tay đang
cố định. Khi đã chắc chắn ống thông vào lỗ niệu đạo, kéo ngón tay ra và đồng thời đẩy
ống thông vào. Đến bàng quang nước tiểu lập tức chảy ra.
Rửa sạch dương vật và kéo quy đầu ra, dùng vải gạc bọc lại để cố định. Cho ống
thông vào từ từ cho đến lúc nước tiểu chảy ra.
<b>3.4.5. Xét nghiệm nước tiểu </b>
Nước tiểu xét nghiệm phải hứng lúc gia súc đi tiểu, khi cần thì thơng bàng quang để
lấy.
<i><b>Hình 3.13. Hứng nước tiểu để kiểm nghiệm </b></i>
1,2. Ngựa đực; 3. Ngựa cái; 4. Bò cái
Nước tiểu lấy xong phải kiểm tra ngay. Nếu để qua đêm thì phải bảo quản tốt, tốt
nhất là trong tủ lạnh, cứ 1 lít nước tiểu cho vào 5ml chloroform hoặc một ít timon
(thylmol) hay benzen để phủ trên một lớp mỏng chống thối.
Nước tiểu để xét nghiệm vi trùng thì lấy phải tuyệt đối vô trùng và không cho chất
chống thối.
Trước khi xét nghiệm nước tiểu nên tinh khiết nước tiểu bằng cách lọc qua giấy lọc.
<i><b>a. Những nhận xét chung </b></i>
<i>* Số lượng nước tiểu </i>
Trâu, bị một ngày đêm thải từ 6 - 12 lít nước tiểu, nhiều nhất 25 lít. Nước tiểu màu
vàng nhạt, mùi khai nhẹ, trong suốt, để lâu màu thẫm lại chuyển sang màu nâu.
Lợn một ngày đêm thải 2 - 4 lít, nước tiểu màu vàng, trong suốt, mùi khai, để lâu
Chó thải 0,5 - 2 lít, màu vàng nhạt, để lâu lắng ít cặn.
Lượng nước tiểu thay đổi rất nhiều theo chế độ ăn uống, theo thức ăn, khí hậu và
chế độ làm việc.
Với cơ thể gia súc, lượng nước tiểu liên quan mật thiết với chức năng thận, tim,
phổi, đường ruột và q trình ra mồ hơi.
Gia súc đái ít, lượng nước tiểu ít: thường thấy ở các bệnh có sốt cao, viêm thận cấp
tính, bệnh ra nhiều mồ hôi, viêm màng phổi thẩm xuất, viêm màng bụng thẩm xuất,
trong các ca nôn mửa, ỉa chảy nặng, mất nhiều máu. Không đi tiểu (xem phần “động tác
đi tiểu”).
Đi đái nhiều, lượng nước tiểu tăng: do viêm dịch thấm xuất hấp thu, kỳ tiêu tan
trong viêm phổi thùy, viêm thận mạn tính.
Số lượng nước tiểu (lít) của gia súc trong 1 ngày đêm:
Trâu bò 6 - 12
Ngựa 3 - 6
Dê, cừu 0,5 - 1
Lợn 2 - 4
Chó 0,25 - 1
Mèo 0,1 - 0,2
Thỏ 0,04 - 0,1
<i>* Màu sắc nước tiểu </i>
Cho nước tiểu vào cốc thủy tinh, che đằng sau một tờ giấy trắng để quan sát. Nước
- Đi đái ít, nước tiểu ít thì tỷ trọng cao, màu sẫm.
- Nước tiểu thẫm gần như đỏ: thấy trong các bệnh sốt cao, viêm thận cấp tính, viêm
gan, các bệnh truyền nhiễm, huyết bào tử trùng.
- Nước tiểu loãng, nhạt: thấy ở chứng đa niệu.
- Nước tiểu đỏ: vì có hồng cầu, huyết sắc tố (xem phần “Xét nghiệm huyết niệu”).
- Nước tiểu màu vàng: thấy ở chứng bilirubinuria và urobilinuria.
- Nước tiểu có màu trắng: trong nước tiểu có nhiều hạt mỡ hoặc trụ mỡ. Chú ý
Lipuria hay có ở chó.
<i>Chú ý màu của thuốc:</i> uống antipirin nước tiểu màu đỏ; uống Satonin nước tiểu màu
vàng đỏ, tiêm Xanh metylen (methylen blue) nước tiểu có màu xanh.
<i>* Độ trong: </i>
Quan sát nước tiểu trong bình thủy tinh.
- Nước tiểu của ngựa, la, lừa đục vì có nhiều canxi carbonat và canxi phosphat
không tan, để lâu sẽ lắng cặn. Nếu nước tiểu các gia súc trên trong là triệu chứng bệnh.
- Nước tiểu các gia súc khỏe trong, không lắng cặn. Nếu đục, lắng nhiều cặn là triệu
chứng bệnh. Vì trong nước tiểu có nhiều niêm dịch, các tế bào hồng cầu, các tế bào
thượng bì, các mảnh tổ chức, cặn bệnh lý làm nước tiểu đục.
<i>* Xét nghiệm nước tiểu đục </i>
1. Cho nước tiểu đục qua giấy lọc, nước tiểu trong suốt chứng tỏ nước tiểu đục do
cặn bệnh lý khơng tan.
2. Cho ít axit acetic, nước tiểu nổi bọt và trở thành trong suốt chứng tỏ đục do muối
carbonat, nếu nước tiểu không sinh bọt nhưng cũng trong suốt chứng tỏ do các muối
phosphat.
3. Đun sôi hoặc cho kiềm vào, nước tiểu trong suốt: do có nhiều muối urat; đun sơi
vẫn đục, cho thêm HCl lỗng thì nước tiểu ở trên trong chứng tỏ do nhiều muối oxalat.
4. Thêm KOH 20% vào nước tiểu đục trở thành trong suốt dạng thạch lỗng chứng
tỏ do có mủ lẫn vào.
5. Cho ete hoặc cồn (ethylic) cùng lượng với nước tiểu, nước tiểu trở nên trong suốt
chứng tỏ trong nước tiểu có nhiều hạt mỡ.
Qua các bước trên nước tiểu vẫn đục thì do có nhiều vi trùng.
<i>* Độ nhớt </i>
Nước tiểu khai do lên men ure thành amoniac: do nước tiểu tắc ở bàng quang (bệnh
liệt bàng quang, tắc niệu đạo).
Nước tiểu thối: do viêm bàng quang hoại thư.
<i>* Tỷ trọng nước tiểu </i>
Lọc nước tiểu qua các vải gạc rồi cho vào cốc thủy tinh, nhẹ nhàng cho tỷ trọng kế
vào. Nếu nước tiểu q ít thì pha thêm nước tự nhiên vào và kết quả tính bằng cách:
nhân (x) hai số sau cùng với số lần pha loãng nước tiểu.
Ví dụ: Số đọc trên tỷ trọng kế = 1,025, nước tiểu được pha lỗng 2 lần thì tỷ trọng
thực: 1,050 (25 x 2).
<b> Tỷ trọng nước tiểu của gia súc. </b>
Bò 1,025 - 1,050
Ngựa 1,025 - 1,055
Dê, cừu 1,015 - 1,065
Lợn 1,018 - 1,022
Chó 1,020 - 1,050
mèo 1,020 - 1,040
Thỏ 1,010 - 1,015
Tỷ trọng nước tiểu tăng có nghĩa là nước tiểu đặc: do thiếu nước vì gia súc ra nhiều
mồ hơi, nơn mửa, viêm thận cấp, suy tim và viêm thẩm xuất.
Nước tiểu loãng là tỷ trọng giảm: do thức ăn nhiều nước, viêm thận mạn tính, xeton
huyết ở bị, hấp thu dịch thẩm xuất.
<i><b>b. Hoá nghiệm nước tiểu </b></i>
Hiện nay, trong Thú y hố nghiệm nước
tiểu ngồi việc sử dụng các phương pháp cổ
điển người ta còn sử dụng giấy Test và máy
<i><b>* Abumin niệu (Albuminuria) </b></i>
Gọi albumin niệu là do thói quen, thật
ra phải gọi là protein niệu (proteinuria) vì
nếu có albumin trong nước tiểu thì có cả
globulin.
Các xét nghiệm albumin trong nước tiểu
đều dựa trên nguyên tắc protein sẽ kết tủa khi gặp nhiệt độ cao, axit hoặc kim loại nặng.
Nước tiểu kiểm nghiệm phải trong suốt. Nếu đục phải lọc, nếu kiềm phải toan hoá,
nhất là nước tiểu ngựa.
<i><b>Các xét nghiệm định tính: </b></i>
<i>- Đun sơi:</i> Trong 1 ống nghiệm có 5ml nước tiểu, 2 - 3 giọt axit acetic 10%, lắc đều
và đun từ từ trên ngọn lửa đèn cồn. Nếu nước tiểu đục, cho thêm 1 - 2 giọt axit nitric
25%, không mất đục - phản ứng dương tính. Độ mẫn cảm của phương pháp 1/30.000 -
1/40.000.
<i><b>Chú ý: khi toan hoá nước tiểu theo liều lượng trên. Nếu toan hóa quá nhiều axit, </b></i>
protein sẽ bị hoà tan, kết quả xét nghiệm sẽ sai.
Căn cứ độ đục theo phương pháp đun sơi để tính lượng protein trong nước tiểu:
Ký hiệu Hàm lượng protein trong nước tiểu Phản ứng trong ống nghiệm
- Khơng có Trong suốt
± 0,01 - ít hơn Đục mờ
0,01 - 0,05 Vẩn đục yếu
+ 0,1 Đục và tủa khoảng 1/10 cột nước tiểu
+++ 0,2 - 0,3 Kết tủa như bơng, cao khoảng ¼ cột nước tiểu
++++ Rất nhiều 0,5 - 1,0 Kết tủa thành cục, cao khoảng1/2 cột
2 - 3 Đông hoàn toàn
<i>- Phương pháp dùng axit nitric (phương pháp Heller) </i>
Trong ống nghiệm: 3 - 5ml axit nitric 50% và theo thành ống cho tiếp 2 - 3ml nước
tiểu kiểm nghiệm (đã toan hố). Nếu vịng tiếp xúc vẫn đục trắng (phản ứng dương
tính). Trường hợp lượng protein ít, vịng đục xuất hiện sau 2 - 3 phút. Độ nhạy của
<b>phương pháp: 0,033%. </b>
<i>- Phương pháp dùng axit sunphosalicilic 20% (axit sunfosalicilic) - phương pháp </i>
<i>Rock - Williame) </i>
Trong ống nghiệm: 5ml nước tiểu rồi nhỏ thêm 10 giọt axit sunphosalicilic 20%.
<b>Nước tiểu vẩn đục như mây, có thể kết tủa: phản ứng dương tính). </b>
Nếu là albumo (albumone) với axit sunphosalicilic 20% cũng cho kết tủa nhưng đun
<b>sôi thì hết, để nguội lại xuất hiện. </b>
Độ nhạy của phương pháp: 1/60.000. Phương pháp này dùng phổ biến trong lâm
sàng, đặc biệt khi kiểm nghiệm nước tiểu kiềm tính.
<i>- Phương pháp dùng cồn </i>
Trong ống nghiệm 5ml nước tiểu, rồi nhẹ nhàng theo thành ống nghiệm cho 1 lớp
<b>cồn. Nếu vòng tiếp xúc cho kết tủa trắng thì phản ứng dương tính. </b>
<i><b>Ý nghĩa chẩn đốn: </b></i>
Trong nước tiểu gia súc khơng có protein, các phương pháp tìm albumin đều cho
<b>kết quả âm tính. Nếu có albumin niệu là triệu chứng cần chú ý. </b>
Albumin niệu từ thận do cơ năng siêu lọc của thận bị rối loạn, protein trong máu
<b>theo nước tiểu ra ngoài - gọi là albumin niệu thật. </b>
Albumin niệu thật sinh lý: do lao động quá sức, thời gian chửa, do quá lạnh, có lúc
do ăn quá nhiều protein,…loại albumin này xuất hiện thời gian ngắn, trong nước tiểu
<b>khơng có cặn bệnh lý. </b>
Albumin niệu ngoài thận - Albumin niệu giả: do viêm bể thận, viêm bàng quang,
<b>viêm niệu đạo. </b>
Để phân biệt albumin niệu thật với albumin niệu giả cần xét nghiệm cặn nước tiểu
<b>và kết hợp với bệnh cảnh. </b>
Bệnh lan tràn từ thận đến bể thận, bàng quang gây albumin niệu thì gọi là albumin
<b>niệu hỗn hợp. </b>
Trong lâm sàng albumin niệu thường là triệu chứng thận tổn thương. Nhưng chú ý
là số lượng albumin trong nước tiểu không tỷ lệ thuận với mức độ bệnh ở thận.
<i><b>* Xét nghiệm hồng cầu và huyết sắc tố (Hemoglobin) trong nước tiểu </b></i>
Các xét nghiệm dưới đây đều cho kết quả phản ứng dương tính khi trong nước tiểu
có hồng cầu, huyết sắc tố hoặc sắc tố của cơ thể (mioglobin).
<i>- Phương pháp dùng thuốc thử Benzilin (phương pháp Adler) </i>
Trong một ống nghiệm: một ít bột benzilin bằng hạt kê và 2ml axit acetic đặc, lắc
cho đều. Thêm vào 2ml H2O2 3%, lắc đều. Rồi cho nước tiểu kiểm nghiệm vào từ từ
theo thành ống. Vòng tiếp xúc xuất hiện màu xanh - phản ứng dương tính.
Nếu máu trong nước tiểu ít, có thể làm theo cách sau để dễ nhận kết quả:
Trong 1 ống nghiệm: 10ml nước tiểu đun sơi để phá vỡ men oxy hố, thêm 10 giọt
axit acetic để toan hoá nước tiểu. Cho 3ml ete etylic lắc đều rồi để yên để ete nổi lên
trên. Hút lấy phần ete trong có phần huyết sắc tố để làm phản ứng benzilin theo các
bước như trên. Độ nhạy của phản ứng: 1/40.000.
<i>- Phương pháp dùng thuốc thử Pyramidon </i>
Trong ống nghiệm: 0,5ml axit acetic đặc, 2ml nước tiểu, lắc đều; thêm vào 2ml
pyramidon 5% (trong cồn) và 0,5ml H2O2 3%. Hỗn hợp biến thành màu tím - phản ứng
dương tính.
<i>- Phương pháp dùng Phenolphtalein (phương pháp Collo) </i>
Trong ống nghiệm: 3ml nước tiểu và 3ml thuốc thử Phenolphtalein, trộn đều rồi
thêm 1ml H2O2 5%. Vịng tiếp xúc đỏ tím - phản ứng dương tính.
Thuốc thử: 1. Phenolphtalein 2 g
2. KOH 20 g
3. Bột kẽm 10 g
4. Nước cất 100ml.
<i><b>Ý nghĩa chẩn đoán: </b></i>
Huyết niệu xuất hiện khi ở thận hoặc bể thận, ống thận, bàng quang, niệu đạo tổn
<b>thương, xuất huyết. </b>
Huyết niệu do thận: vỡ thận, viêm thận cấp tính. Nhiều bệnh truyền nhiễm gây xuất
huyết: nhiệt thán, dịch tả trâu bò, dịch tả lợn, phó thương hàn. Huyết niệu do thận thì
<b>nước tiểu sẫm, cặn có nhiều cục máu, có tế bào thượng bì thận. </b>
<b>Huyết niệu do bể thận: sỏi bể thận, giun thận, viêm bể thận xuất huyết. </b>
Huyết niệu do bàng quang: viêm bàng quang, sỏi bàng quang, loét niệu đạo, viêm
<b>niệu đạo chảy máu,... Để chẩn đoán phân biệt cần xét nghiệm cặn nước tiểu. </b>
Để phân biệt các trường hợp xuất huyết ở đường tiết niệu bằng cách: hứng 3 cốc
nước tiểu ở 3 thời điểm. Nước tiểu giai đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai đoạn cuối của
quá trình đi tiểu, quan sát màu sắc của 3 cốc.
- Nếu màu của cốc đầu đậm - do xuất huyết ở niệu đạo.
- Cốc sau đậm - xuất huyết ở bàng quang.
<b>- Nếu cả 3 cốc có màu đỏ như nhau thì xuất huyết ở thận hoặc bể thận. </b>
Huyết sắc tố niệu là do hồng cầu vỡ quá nhiều trong cơ thể và đi ra ngoài theo
nước tiểu.
<i><b>Phân biệt huyết niệu và huyết sắc tố niệu: </b></i>
<i>Huyết niệu </i> <i>Huyết sắc tố niệu </i>
Mắt thường
Để lắng
Kiểm kính
Lọc nhiều lần
Đục
Hồng cầu lắng
Hồng cầu nguyên vẹn
Mất màu
Trong suốt
Khơng có
Hồng cầu vỡ từng mảng
Khơng mất màu
<i><b>* Xét nghiệm đường trong nước tiểu: </b></i>
<i>- Phương pháp Heines </i>
Nguyên tắc: nếu có đường sẽ khử Cu++ thành Cu+ trong Cu2O kết tủa màu gạch hay
màu vàng đậm.
Phương pháp này có độ nhậy cao và thích hợp để kiểm nghiệm nước tiểu gia súc
nhất là nước tiểu ngựa.
Thuốc thử Heines:
1. Hoà 13,3g CuSO4 tinh khiết trong 400ml nước cất.
2. Hoà 50g KOH trong 400ml nước cất.
3. 15ml glyxelin tinh khiết trong 200ml nước cất.
<i>- Phương pháp Nylander </i>
Nguyên tắc: trong môi trường kiềm Sous nitras bismuth bị đường khử oxy để thành
oxy bismuth hoặc bismuth kết tủa màu nâu hoặc màu đen.
Thuốc thử: 1. Sous nitras bismuth 2,0 g.
2. Kali - natri tartrat 4,0g.
3. Kali hydroxyt (KOH) 100ml.
Hoà tan lọc qua giấy lọc, bảo quản trong chai thuỷ tinh màu.
Xét nghiệm: Cho vào ống nghiệm 3 - 5ml nước tiểu kiểm nghiệm, thêm 1 - 2ml
<b>nước tiểu Nylander, đun sôi. Hỗn dịch biến thành màu nâu đen (phản ứng dương tính). </b>
<i><b>Chú ý: nếu nước tiểu có nhiều indican và các sắc tố khác, lúc đun cũng có kết tủa </b></i>
màu đen. Vì vậy, trước khi kiểm nghiệm cho ít HCl 25% và bột xương lắc đều lọc và
loại đi. Nước tiểu có nhiều nhầy (muxin) cũng có thể cho phản ứng dương tính giả.
<i>- Phương pháp Benedict </i>
Phương pháp này giống như phương pháp Heines nhưng có ưu điểm là axit uric.
Muối urat và các cặn hữu cơ khơng có khả năng khử oxy trong thuốc thử Benedict.
Trong thuốc thử Benedict:
1) 173g Natri xitrat (Na2C6H5O7.11H2O) và 90g Natri carbonat khan (hoặc 180g
Natri carbonat kết tinh) trong 600ml nước cất, đun nhẹ, lắc cho tan, lọc hết cặn rồi cho
thêm nước cất đến 850ml.
2) 17,3g CuSO4.5H2O trong 100ml nước cất, lắc cho tan rồi cho thêm nước cất đến
150ml.
Trộn dung dịch 1 với dung dịch 2, lắc đều.
Xét nghiệm: Trong 1 ống nghiệm gồm 1,5ml thuốc thử Benedict và 3 giọt nước tiểu
kiểm nghiệm. Lắc đều và đun nóng trong 2 phút. Kết tủa màu gạch cua: phản ứng
dương tính.
Có thể dựa vào kết quả phản ứng với thuốc thử Benedict để tính lượng đường trong
nước tiểu.
Màu dung dịch Kết quả Nồng độ đường trong nước tiểu %
Không thay đổi - 0
Màu xanh không tủa ± Từ 0,1 - 0,3
Kết tủa xanh + 0,5
Màu vàng ++ 1,0
Màu đỏ da cam +++ 1,5
<i><b>Ý nghĩa chẩn đoán: </b></i>
Các phương pháp xét nghiệm trên phát hiện glucoza. Trong nước tiểu động vật,
ngồi glucoza cịn có fructoza, lactoza, levuloza, pentoza. Chú ý các chất vitamin C,
creatinin, axit uric cũng khử oxy như glucoza, nên phản ứng dương tính với các xét
<b>nghiệm glucoza. </b>
<b>Các xét nghiệm đường niệu dương tính là triệu chứng bệnh lý và đường niệu sinh lý. </b>
Đường niệu sinh lý: khi ăn quá nhiều đường, đường huyết cao vượt ngưỡng thận và
các trường hợp: gia súc sợ hãi, hưng phấn, lạnh đột ngột. Nước tiểu gia súc có chửa có
<b>đường lactoza và hiện tượng này mất đi sau khi gia súc đẻ sau 2 - 3 tuần. </b>
Đường niệu bệnh lý: thường thấy ở các bệnh thần kinh. Chó dại, sung huyết não,
viêm não tuỷ, các trường hợp trúng độc (trúng độc oxyt carbon, trúng độc thuỷ ngân,
trúng độc chloral hydrat). Một số bệnh truyền nhiễm gây tổn thương ở thận và kích
thích thần kinh trung ương. Viêm thận mạn tính xuất hiện đường niệu. Đường niệu ở
ngựa, chó là triệu chứng bệnh đái đường (Diabet).
<i><b>* Xét nghiệm thể xeton trong nước tiểu </b></i>
Thể xeton trong nước tiểu thường có 3 chất:
Trong thú y thường chỉ xét nghiệm định tính.
<i>- Phương pháp Lieben: </i>
Phản ứng của Lugol với axeton trong môi trường kiềm sẽ cho kết tủa màu vàng mùi
iodoform.
Xét nghiệm: cho vào 1 ống nghiệm 10ml nước tiểu, vài giọt Lugol, vài giọt KOH
10%. Kết tủa màu vàng đục, mùi iodoform (phản ứng dương tính).
<i>- Phương pháp Lange: </i>
Trong môi trường kiềm axeton kết hợp với nitroferricyanic tạo thành hỗn hợp màu
đỏ tím.
Một cách khác: cho vào ống nghiệm 3ml nước tiểu, 1ml thuốc thử Natri
nitroferricyanat (natri nitroferricyanat 0,3 g, amon nitrat 30g và 80ml nước cất).
Lắc đều rồi nhỏ từ từ theo thành ống nghiệm 2 - 3ml nước amoniac đặc. Vòng tiếp
xúc xuất hiện màu đỏ (phản ứng dương tính).
<i><b>Ý nghĩa chẩn đoán: </b></i>
Lượng xeton trong gia súc khoẻ rất ít: 1 lít nước tiểu ngựa có 0,38 - 3,56 mg%;
nước tiểu bị có 0,2 - 2,4 mg%.
Hàm lượng xeton tăng trong máu - chứng xeton huyết; xeton trong nước tiểu tăng -
chứng xeton niệu (ketonuria).
Xeton niệu là triệu chứng rối loạn trao đổi chất lipit và gluxit. Trong thú y, xeton
niệu được chú ý trong bò sữa, là triệu chứng quan trọng của chứng xeton huyết của bò
(Ketonemia).
Xeton niệu còn thấy trong bệnh liệt sau khi đẻ, nằm lâu ngày, đái đường (Diabet).
<i><b>c. Xét nghiệm cặn nước tiểu </b></i>
Làm tiểu bản: ly tâm nhẹ hay để lắng cặn. Hút một giọt cặn nước tiểu cho lên phiến
kính rồi đậy lamen; thêm 1 giọt lugol để dễ phân biệt tế bào thượng bì với tế bào bạch cầu.
Có thể phiết kính, cố định bằng cồn metylic (methanol), nhuộm bằng thuốc nhuộm
Giemsa hoặc xanh methylen 1%. Kiểm nghiệm dưới kính hiển vi.
<i>* Những cặn hữu cơ: </i>
- Tế bào thượng bì thận: hình trịn hay vng, trong ngun sinh chất có nhiều hạt
nhỏ, nhân tròn. Tế bào to bằng bạch cầu, tróc ra từ thận tiểu cầu. Có nhiều tế bào
thượng bì thận là do viêm thận cấp tính.
- Tế bào thượng bì bể thận và ống thận: to hơn tế bào thượng bì thận, gấp 3 - 4 lần
tế bào bạch cầu. Tế bào hình quả lê, hình bầu dục. Khi viêm bể thận các tế bào này xuất
hiện nhiều.
- Tế bào thượng bì bàng quang: đa dạng giống vẩy cá, nhân trịn. Loại tế bào tróc ra
từ tầng sâu vách bàng quang thì hình nhỏ hơn. Có nhiều tế bào loại này là do viêm bàng
quang.
<i><b>Chú ý: trong nước tiểu thường có tế bào niêm mạc âm đạo gần giống như tế bào </b></i>
bàng quang, nhưng to hơn, hình đa giác, thường có 1 - 2 nhân.
- Tế bào hồng cầu: nhiều trong nước tiểu do đường tiết niệu chảy máu. Nếu do viêm
thận xuất huyết thì trong nước tiểu cịn có cục máu đỏ, trụ hồng cầu, tế bào thượng bì.
Chảy máu ở bể thận, ở bàng quang thì cặn nước tiểu khơng có những thành phần đó.
- Tế bào bạch cầu: cũng như hồng huyết cầu, thay đổi hình dạng theo tính chất nước
tiểu. Trong nước tiểu toan tính, bạch cầu co trịn lại, nhưng vẫn to hơn hồng cầu nhiều.
Để phân biệt với tế bào thượng bì thận, cho 1 giọt lugol vào phiến kính, bạch cầu có
màu nâu, tế bào thượng bì màu vàng nhạt.
Bạch huyết cầu nhiều trong nước tiểu là triệu chứng của viêm thận, viêm bể thận,
viêm niệu đạo.
- Trụ niệu: Khi thận có bệnh, những tế bào thượng bì thận, những huyết cầu bài
xuất ở các tổ chức bệnh dính lại với nhau bởi niêm dịch, protein,…trong ống dẫn ở thận
<b>tạo thành những vật thể hình ống với những kết cấu khác nhau tạo thành trụ niệu. </b>
<i><b>Hình 3.15. Cặn hữu cơ và trụ niệu trong nước tiểu </b></i>
- Trụ thượng bì: do tế bào thượng bì ở thận khi thận bị viêm, tróc ra thối hố dính
lại với nhau mà thành.
- Trụ trong: thành phần chủ yếu là niêm dịch và protein huyết thanh bài xuất khi
thận viêm cấp tính và viêm mạn tính. Trụ trong dưới kính hiển vi hình thù khơng rõ,
ống thẳng hoặc cong queo.
- Trụ hồng cầu: chủ yếu là do hồng huyết cầu và sợi huyết (Fibrin) kết dính lại với
nhau. Dưới kính hiển vi, nhiều hồng huyết cầu cịn hình ảnh ngun khá rõ
- Trụ hồng cầu xuất hiện trong nước tiểu do viêm thận, viêm phổi thuỳ, huyết
truyền nhiễm,…
- Trụ hạt: do tế bào thượng bì thận tróc ra, thối hố kết dính với nhau thành từng
mảng dài hoặc gây thành từng đoạn ngắn, trong suốt. Trụ hạt là triệu chứng viêm thận
- Trụ mỡ: là trụ thượng bì hay trụ hạt thối hố thành từng đoạn dài ngắn trong có
hạt mỡ nhỏ trống, do thận biến tính.
- Trụ giả: giống trụ sáp nhưng có niêm dịch, CaCO3, muối urat kết tụ lại thành, kết
cấu không rõ. Trụ giả thường thấy ở bệnh viêm cata ống dẫn nước tiểu.
<i>* Cặn vơ cơ:</i> Trong chẩn đốn thú y, xét nghiệm cặn vô cơ không thông dụng. Nhận
xét cặn vơ cơ qua hình thái kết tinh và qua hố nghiệm.
<i>Trong nước tiểu lồi ăn cỏ thường có các cặn vơ cơ sau: </i>
- Canxi carbonat (CaCO3) kết tinh hình trịn nhỏ có tua ra hoặc hình đá mài. Khi
nước tiểu lồi ăn thịt, lồi hỗn thực có kết tủa nhiều CaCO3 là triệu chứng bệnh.
Xét nghiệm: cặn nước tiểu có hình đá mài thì nghi có CaCO3. Thêm vài giọt axit
acetic thì kết tinh CaCO3 mất và sủi bọt CO2.
- Muối phosphat [Ca3(PO4), Mg3(PO4)] trong nước tiểu kiềm tính kết tủa hình thái
khơng nhất định hoặc thành từng hạt li ti màu tro. Trong nước tiểu toan tính, các muối
phosphat kết tủa thành hình 3 cạnh, từng bó, hình tròn.
- Amoni - Magnesi phosphat (NH4MgPO4. H2O) kết tinh hình trụ nhiều gốc, hình
lơng vũ và xuất hiện nhiều khi viêm bể thận, viêm bàng quang.
- Amoni urat [C5H3(NH4)2N2O] kết tinh hình phiến, hình tua.
<i>Trong nước tiểu lồi ăn thịt có các loại sau đây: </i>
- Canxi oxalat (CaC2O4.3H2O) kết tinh hình cầu, hình phiến tám mặt. Nhiều canxi
- Canxi sunphat (CaSO4): hình trịn lăng trụ dài, hình kim từng bó.
- Axit uric (C5H4N4O3): hình đá mài, hình lá cây. Axit uric nhiều: thường thấy ở các
bệnh sốt cao.
- Muối urat, chủ yếu là kali urat, natri urat, kết tinh thành hạt nhỏ, màu vàng nâu.
Muối urat nhiều do có q trình phân giải protit mạnh.
<i><b>Xét nghiệm phân biệt cặn vô cơ trong nước tiểu </b></i>
Loại cặn Màu sắc Với axit acetic Với HCl Với KOH Đun sôi Với NH4OH
CaCO3
Không màu
Vàng nhạt
+
Có khí
+
Có khí -
Muối phosphat Màu trắng tro + + - -
NH4MgPO4.H2O Không + + - -
C5H3(NH4)2N4O3 Vàng + + + + +
CaC2O4.3H2O Không _ + - -
CaSO4 Không - - -
C5H4N4O3 Vàng - - + - +
<b>3.5. KHÁM HỆ THỐNG THẦN KINH </b>
Hệ thống thần kinh thực hiện sự thống nhất hoạt động của các khí quan, tổ chức
trong cơ thể, giữ thăng bằng giữa cơ thể và ngoại cảnh. Một cơ thể bị bệnh thì các cơ
năng, nhất là cơ năng phản xạ bảo vệ của hệ thần kinh rối loạn. Bệnh phát sinh và q
trình phát triển của bệnh lý ít nhiều phản ánh trong trạng thái hoạt động của hệ thống
thần kinh.
Mục đích chủ yếu khám hệ thống thần kinh là nhằm phát hiện bệnh ở hệ thống đó,
ngồi ra qua rối loạn của hệ thống thần kinh để phán đốn tính chất, mức độ và quá
trình phát triển của bệnh ở các khí quan, hệ thống khác trong cơ thể, góp phần chẩn
đoán, tiên lượng và điều trị đúng.
Khám hệ thống thần kinh theo thứ tự:
- Khám đầu và cột sống
- Khám cơ năng thần kinh trung khu, cơ năng thần kinh vận động
- Khám cảm giác da, khí quan cảm giác
- Khám hoạt động phản xạ
- Khám hệ thần kinh thực vật
- Xét nghiệm dịch não tủy
<b>3.5.1. Khám đầu và cột sống </b>
Não trong xương sọ, tủy sống trong cột xương sống, không khám trực tiếp được mà
phải khám qua đầu và cột sống.
Sự tổn thương ở sọ và cột xương sống, khối u ở não, cịi xương, mềm xương,…có
thể làm hình dáng xương sọ, cột sống thay đổi. Do vậy, khi khám đầu và cột sống cần
chú ý hình dáng, độ cứng của xương sọ và cột sống.
<i>Nhiệt độ vùng đầu tăng cao</i>: thường gặp trong các trường hợp viêm màng não, viêm
não tủy truyền nhiễm, cảm nắng cảm nóng.
<i>Phần mềm bao quanh xương sống sưng to, đau:</i> thường gặp khi gãy cột sống
<i>Xương sống văn vẹo: </i>thường gặp trong trường hợp còi xương, mềm xương, người
khám sờ nắn rất dễ phát hiện.
<i>Gõ hộp sọ có âm đục:</i> khi não có khối u, ấu sán.
<b>3.5.2. Khám chức năng thần kinh trung khu </b>
Trong nhiều bệnh, chức năng của vỏ đại não rối loạn và biểu hiện ra bên ngoài bằng
những triệu chứng hưng phấn, ức chế.
<i><b>a. Ức chế </b></i>
Ức chế là khả năng cảm thụ đối với kích
thích yếu, phản xạ với các kích thích bên
ngoài giảm hoặc mất. Ức chế thường phát ra
sau hưng phấn. Tuỳ mức độ nơng sâu, ức chế
có các mức sau:
<i>Ủ rũ</i>: Ức chế nhẹ, gia súc uể oải (như ngơ
<i>Ngù li bì:</i> Gia súc nằm yên, đầu hơi
ngẩng, mắt nhắm. Thường phải dùng kim
châm, đánh bằng roi, dội nước lạnh con vật
mới tỉnh. Ngủ li bì là triệu chứng cơ năng vỏ
đại não ức chế sâu, thường xuất hiện trong các
bệnh có sốt cao, viêm não tủy truyền nhiễm,
não tích nước, kỳ cuối bệnh xuất huyết não;
trong các ca trúng độc xeton huyết, bại liệt sau
khi đẻ ở bò, trúng độc urê, các ca viêm gan
nặng. (Hình 3.17)
<i> Hôn mê:</i> Cơ năng thần kinh bị tê liệt, các
phản xạ mất, cơ toàn thân nhão, đồng tử mở
rộng, cảm giác da mất,... cơ năng thần kinh
thực vật rối loạn (tần số hô hấp, tần số mạch
chậm; nhịp thở, nhịp tim không đều).
Hôn mê thường gặp trong các trường hợp:
Trúng độc urê, chứng xeton huyết, các ca viêm
gan nặng. Ngủ li bì, hơn mê cịn xuất hiện ở
giai đoạn cuối các bệnh truyền nhiễm (dịch tả
lợn, đóng dấu lợn, tụ huyết trùng,...).
<i><b>b. Hưng phấn </b></i>
Ngược với trạng thái ức chế, hưng phấn
khi vỏ đại não bị kích thích mạnh, gia súc lồng lộn, cắn xé, chảy nước dãi (hình 3.19).
Thần kinh hưng phấn trong trường hợp này là do những kích thích bên trong tăng, phản
xạ đối với kích thích bên ngoài lại giảm. Hưng phấn xuất hiện trong bệnh viêm não tủy
truyền nhiễm, viêm màng não, sung huyết não, các trường hợp trúng độc, chứng đau
bụng ở ngựa.
<i><b>Chú ý: Trong nhiều ca bệnh xuất hiện cả triệu chứng thần kinh ức chế và hưng </b></i>
phấn. Thường sau triệu chứng hưng phấn là ức chế hoặc ngược lại.
<i><b>Hình 3.16. Trạng thái ủ rũ </b></i>
<i><b>Hình 3.17. Trạng thái ngủ li bì </b></i>
Ngựa hưng phấn lồng lên, lao về
phía trước, băng qua những vật cản; có
lúc quay vịng quanh. Chó bị bệnh dại
chạy lồng lộn, cắn xé, chảy nước rãi
(hình 3.19).
<b>3.5.3. Khám chức năng vận động </b>
Qua sát và nhận xét những biểu
hiện khác thường lúc gia súc đứng, lúc
đi, trạng thái cơ (bắp thịt).
<i><b>a. Trạng thái cơ (bắp thịt) </b></i>
Trong trạng thái bình thường, do
những kích thích từ bên ngồi khơng
ngừng tác động lên thần kinh thụ cảm
trên da, thông qua thần kinh tủy sống, cơ thể đáp lại những phản xạ liên tục các bắp cơ
ln như có một trương lực giữ một độ căng nhất định.
* Trạng thái cơ trong trường hợp bệnh lý:
Cơ căng giảm, các bắp thịt chùng, lúc gia súc
đi quan sát rất rõ. Dùng tay kéo chân gia súc ra
phản xạ kéo trở lại yếu. Lúc đi, chân lê phía sau.
Cơ căng giảm hay mất do thần kinh hoặc tủy
sống bị tổn thương, do bệnh ở tiểu não.
Bắp cơ căng, các bắp thịt co cứng nổi rõ,
nhất là vùng cơ bụng. Lực căng cơ tăng do trung
khu vận động hay thần kinh vận động tổn thương.
Trong bệnh uốn ván; trúng độc, một số ca bệnh
gây đau đớn mạnh, kỳ hưng phấn bệnh viêm não
tủy truyền nhiễm, cơ co cứng toàn thân (hình
3.20).
<i><b>Chú ý: Khi khám trạng thái cơ nên chú ý vùng cơ trên thân và cơ bốn chân. </b></i>
<i><b>b. Tính hiệp đồng vận động </b></i>
Gia súc khoẻ thì đứng, đi lại, các hoạt động khác đều có phối hợp nhịp nhàng giữa
các bắp thịt và các khí quan vận động nhờ có hiệp đồng vận động của hệ thống thần
kinh. Điều tiết hiệp đồng vận động này do trung khu vận động ở vỏ đại não, trung khu ở
tiểu não, các khí quan cảm thụ, thần kinh tiền đình, thị giác. Gia súc bị bệnh, một trong
các trung khu trên bị tổn thương thì vận động bị rối loạn.
Rối loạn tính hiệp đồng vận động: Gia súc đứng tư thế khác thường, các khớp co
không đều, 4 chân chụm lại, có lúc 4 chân lại dạng ra để giữ thăng bằng. Lúc nằm thì
nghiêng về một bên hay úp bụng xuống đất. Lúc đi thân hình lảo đảo, bước khơng vững,
bước dài bước ngắn không đối xứng. Điều tiết vận động vẫn còn nhưng phản xạ chậm
nên vận động thiếu hiệp đồng.
Rối loạn hiệp đồng vận động thường vì gốc lưng thần kinh tuỷ sống bị tổn thương,
hoặc bệnh ở tiền đình, ở tiểu não. Vận động khơng hiệp đồng thường thấy ở gia cầm,
đầu cong lui phía sau, quay quanh, đi lại lảo đảo.
<i><b>c. Tê liệt </b></i>
Cơ năng vận động yếu hoặc mất hồn
tồn gọi là tê liệt. Có hai loại tê liệt:
Tê liệt do thần kinh ngoại vi: giây thần
kinh vận động bắt đầu từ gốc bụng ở tủy
sống đến các sợi vận động chi phối các bắp
cơ. Bất kỳ một vị trí nào trên đường thần
kinh đó bị tổn thương đều gây tê liệt vùng
cơ dưới đó (hình 3.21).
Vị trí tổn thương càng gần tủy sống,
vùng cơ tê liệt càng rộng. Triệu chứng
chung của loại tê liệt này là cơ teo, lực căng giảm, gia súc đi lại không vững, chân bước
loạng choạng dễ ngã, vận động không theo ý muốn. Phản xạ da và gân thường mất. Nếu
ngay gốc bụng tủy sống tổn thương thì bắp cơ bị liệt phân vùng rất rõ và đau đớn.
Tê liệt do thần kinh trung khu: tổn
thương ở trung khu vận động của đại não
Nếu một vùng cơ hay một chân bị tê liệt (Monoplegia) do tổn thương ở trung khu
vận động và cũng có thể do tổn thương ở dây thần kinh ngoại vi.
Một nửa thân bị tê liệt (Hemipiegia) do tổn thương ở não.
<i><b>Hình 3.21. Trạng thái tê liệt </b></i>
<i>Từng khí quan đối xứng nhau tê liệt (Paraplegia) như hai chân trước, hai chân sau,... </i>
do tổn thương ở tuỷ sống (hình 3.22).
<i><b>d. Co giật (Spasmus) </b></i>
Cơ vận động không theo ý muốn gọi là co giật. Cơ co giật do vỏ đại não hay trung
khu dưới vỏ đại não hưng phấn.
Cơ co giật từng cơn: Từng cơ, một chùm cơ co giật từng cơn nhanh và ngắn.
Thường cơn co giật phát ra nhanh rồi tắt, cũng có lúc kéo dài. Thường gặp các loại co
- Một vài bó cơ co giật rồi lan ra: chùm cơ khuỷu co giật rồi lan đến cơ bả vai, cơ
cổ, cơ ngực. Loại co giật này thường có trong các bệnh có sốt cao, bệnh gây đau đớn
(viêm dạ tổ ong do ngoại vật, viêm bao tim, viêm gan).
- Run rẩy (Tremor): từng đám cơ co giật nhẹ giống cơ run khi gặp lạnh. Cơ run rõ
khi con vật vận động, trong trạng thái yên tĩnh cơ run nhẹ hay mất. Cơ run rẩy ở gia súc
xuất hiện trong các trường hợp trúng độc, bệnh cấp tính ở não tuỷ.
- Động kinh (Epilepsia) hay co giật toàn thân: Thường bắt đầu ở vùng cơ vai, cơ cổ,
cơn co giật lan ra toàn thân. Hoạt động thần kinh rối loạn nặng, mắt trắng dã, đi ngoài
rối loạn. Động kinh do tổn thương ở vỏ đại não và thường xuất hiện trong các ca trúng
độc, thiếu sinh tố (vitamin) ở gia súc non,
trong một số bệnh truyền nhiễm có sốt cao.
- Cơ co cứng (Spasmus Tonicus): Cơ co
và giữ mãi ở trạng thái co cứng. Đầu bị kéo
co lại, răng cắn chặt, không nuốt được đều
do cơ co cứng. Ngựa viêm não, đầu con vật
bị kéo co về phía sau. Ở bị triệu chứng đó
xuất hiện trong viêm màng não, liệt sau khi
đẻ, chứng xeton huyết. Hai hàm răng cắn
chặt trong bệnh uốn ván, trúng độc
strychninsunfat (hình 3.23).
<b>3.5.4. Khám cảm giác ở da </b>
Nhận cảm từ da theo đường thần kinh đến tuỷ sống, đến hành tuỷ, đại não và sau đó
phản ứng đáp ứng đột ngột trở lại da. Trên đường thần kinh đó bất kỳ điểm nào tổn
Khám cảm giác da gia súc khó chính xác vì con vật khơng đứng n, dễ bị những
kích thích bên ngồi. Nên khám nhẹ nhàng, gia chủ đứng bên cạnh và bịt mắt con vật
lại. Dùng que nhỏ kích thích nhẹ vào da, bắt đầu từ vùng cổ, vai rồi quan sát. Gia súc
khoẻ khi bị kích thích đầu quay trở lại, co chân, tai vểnh. Kích thích vào vành tai con
vật khó chịu phản ứng rất rõ.
Kiểm tra cảm giác đau: dùng kim chích từ nơng đến sâu; bắt đầu từ vùng bờm, hai
bên cổ, hai bên ngực, hai bên thành bụng. Quan sát mức độ con vật phản ứng: đầu quay
lại, tai vểnh, chân co lên.
* Khi khám cảm giác da cần chú ý các triệu chứng sau đây:
- Da mẫn cảm: Dùng kim chích nhẹ hay ấn bằng đầu ngón tay, con vật biểu hiện
đau đớn như da co lại, con vật tránh xa, khó chịu. Vùng da mẫn cảm khi da bị viêm,
thần kinh cảm giác tổn thương. Màng tủy sống, gốc lưng của thần kinh tủy sống viêm,
vùng da tương ứng đau kịch liệt.
- Cảm giảm da giảm: Bằng những kích thích nhẹ con vật khơng có phản ứng. Chỉ
dùng kim châm mạnh, nhổ lông, dẫm lên móng chân con vật mới có cảm giác đau.
Triệu chứng này thường do thần kinh cảm giác tê liệt, đường thần kinh dẫn truyền tổn
thương.
- Cảm giác da một bên thân giảm hay mất: do tổn thương trên đường dẫn truyền từ
vỏ đại não đến hành tuỷ.
- Cảm giác da hai bên thân đối nhau mất: do tổn thương ở tủy sống. Tuỷ sống bị dập
đứt, bị chèn ép, viêm nặng, do bị tổn thương không liên hệ được với não, cảm giác da
phần thân sau đó bị mất.
- Cảm giác da mất ở một vùng: tổn thương thần kinh ngoại vi chi phối vùng da đó.
Nhiều bệnh ở hệ thần kinh như u não, liệt sau khi đẻ, viêm não,... con vật hôn mê, cảm
giác da giảm hay mất.
<b>3.5.5. Khám các khí quan cảm giác </b>
Cơ năng của các khí quan cảm giác rối loạn thường do bệnh ở khí quan đó hoặc
bệnh ở thần kinh trung khu.
<i><b>a. Khám thị giác </b></i>
Chú ý mu mắt, kết mạc, nhãn cầu, đồng
tử và võng mạc.
Mu mắt trễ: Do thần kinh mặt, thần
kinh cơ kéo mắt bị tổn thương. Trong viêm
não truyền nhiễm, mu mắt trễ là triệu chứng
bệnh giai đoạn nặng.
Mu mắt sưng to, mọng do tổn thương
cơ gới, viêm. Một số bệnh truyền nhiễm
(loét da quăn tai ở trâu bò, dịch tả lợn, bạch
hầu ở gà), do độc tố phá hoại mạch máu làm
mu mắt sưng mọng. Mu mắt sưng mọng trong chứng đau bụng ngựa do quá đau đớn vật
lộn. Bệnh nặng con vật nằm liệt lâu, liệt sau khi đẻ, mu mắt trễ ((hình 3.24).
Nhãn cầu lồi ra ngoài: do ngạt thở, quá đau đớn.
Nhãn cầu co giật: Nhãn cầu như luôn động theo một hướng này hoặc hướng khác,
do tổn thương ở tiền đình, tiểu não. Nhãn cầu lệch biểu hiện thần kinh cơ mắt tổn
thương.
Phản xạ của đồng tử. Thần kinh thị giác mà trung khu ở phần trước củ não sinh tư,
điều khiển hoạt động của mắt: lúc gặp ánh sáng mạnh qua hoạt động của thần kinh cơ
kéo mặt co, đồng tử thu hẹp lại; ở chỗ tối đồng tử mở rộng ra.
Lúc khám, phải bịt mắt gia súc lại hoặc cho vào chỗ tối dùng đèn pin để soi và quan
sát phản xạ của đồng tử.
Đồng tử thu hẹp: do áp lực trong sọ
não tăng gây ức chế thần kinh giao cảm;
trong các bệnh tích dịch sọ não, viêm
màng não, xuất huyết não. Đồng tử hẹp,
nhãn cầu lệch do tổn thương ở dây thần
kinh giao cảm hay ở trung khu giao cảm
(hình 3.25).
Đồng tử mở rộng: Khi dùng đèn pin
soi đồng tử không thu hẹp, hoặc chỉ thu
hẹp một ít, do thần kinh điều tiết mắt bị
liệt, thường gặp trong các bệnh: viêm
não tủy truyền nhiễm ở ngựa, u não, ổ
mủ não; trong một số ca trúng độc hoặc
quá đau đớn.
Giác mạc đục: trong bệnh cúm ở ngựa, lê dạng trùng, loét da quăn tai ở trâu bò.
Những ca nặng có thể thấy viêm giác mạc, loét giác mạc.
Khám thị võng mạc: tiêm Atropin cho đồng tử mở rộng rồi dùng đèn pin soi để
khám. Thị võng mạc viêm: đục, không rõ, mạch quản nổi rõ, do ứ máu và những điểm
tro trong viêm võng mạc. Thị võng mạc viêm thường gặp trong bệnh viêm màng não,
loét da quăn tai trâu bò, viêm não - tủy truyền nhiễm và còn thấy trong những bệnh làm
áp lực sọ não tăng.
Gia súc non thiếu vitamin A thì đáy mắt vàng xanh nhạt, đục, có những điểm đen
nổi rải rác.
<i><b>b. Khám thính giác </b></i>
Người khám đứng ở vị trí mà gia súc khơng thấy, ht sáo hay gọi khẽ con vật quay
lại ngay. Thần kinh thính giác tai trong tổn thương thì khả năng nghe giảm. Nếu bệnh ở
tai giữa hay tai ngồi, thính giác bình thường. Giai đoạn đầu viêm não tủy truyền nhiễm
thính giác rất mẫn cảm. Tổn thương ở hành tuỷ, vỏ đại não thính giác giảm, có khi mất.
<b>3.5.6. Kiểm tra phản xạ </b>
Phản xạ của động vật là kết quả của hoạt động thần kinh: cơ quan cảm thụ nhận
kích thích, xung động thần kinh được truyền đến thần kinh trung khu và vỏ đại não; từ
vỏ đại não xung động thần kinh trở lại bắp cơ, da, các khí quan phản ứng đáp lại. Kiểm
tra phản xạ nhằm mục đích khám thần kinh ngoại vi, thần kinh trung khu và tình trạng
chung của cơ thể.
- Phản xạ tai: Dùng chiếc lông gà hay mảnh giấy cuộn trịn kích thích trong vành
tai, gia súc khoẻ thì quay đầu lại ngay.
- Phản xạ hội âm: Kích thích nhẹ dưới khấu đi, đi sẽ cụp xuống ngay che âm
môn.
- Phản xạ hậu môn: Kích thích quanh hậu mơn cơ vịng hậu mơn co thắt lại.
- Phản xạ hạ nang: Kích thích da phía trong hạ nang sẽ có phản ứng co kéo dịch
hoàn lên cao.
- Phản xạ ho: Dùng hai ngón tay cái và trỏ ấn mạnh vào phần giữa đốt sụn thứ nhất
của khí quản, gia súc ho ngay.
- Phản xạ hắt hơi: Kích thích nhẹ vào niêm mạc mũi, mũi nhăn lại và hắt hơi.
- Phản xạ giác mạc mắt: Dùng mảnh giấy mềm kích thích giác mạc, mắt nhắm lại.
- Phản xạ gân (hay kiểm tra gân đầu gối), mục đích để khám cơ năng tủy sống
(trung khu cung phản xạ gân đầu gối ở khoảng đốt sống 3 - 4 xương sống lưng).
Cách kiểm tra: Đại gia súc nằm nghiêng, kéo chân sau lên một tý rồi gõ nhẹ vào đầu
gối, chân sau duỗi ra ngay. Tuỳ theo tình trạng thần kinh cảm thụ, thần kinh vận động,
não và hành tủy mà các phản xạ tăng giảm hoặc mất.
- Phản xạ giảm, mất do não, hành tủy, dây thần kinh cảm thụ, thần kinh vận động bị
tổn thương.
<b>Tóm tắt nội dung: Khái niệm chung về bệnh và bệnh nội khoa gia súc, những </b>
nguyên nhân gây bệnh, các thời kỳ tiến triến của bệnh, khái niệm về điều trị học và các
<b>Mục tiêu: Giúp cho sinh viên hiểu được khái niệm chung về bệnh cũng như khái </b>
niệm về bệnh nội khoa gia súc, các nguyên nhân gây bệnh và các thời kỳ tiến triển của
bệnh. Giúp sinh viên nắm được các nguyên tắc điều trị và các phương pháp điều trị ở
vật nuôi mắc bệnh.
<b>4.1. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH </b>
Khái niệm về bệnh phụ thuộc chủ yếu vào hai yếu tố:
- Trình độ văn minh của xã hội đương thời.
- Thế giới quan (bao gồm cả triết học của mỗi thời đại).
Một số quan niệm về bệnh bao giờ cũng chi phối chặt chẽ các nguyên tắc chữa
bệnh, phịng bệnh. Do vậy nó có vai trị rất lớn trong thực hành.
<b>4.1.1. Một số khái niệm về bệnh trong lịch sử </b>
<i><b>a. Thời kỳ mông muội </b></i>
Người nguyên thuỷ khi biết tư duy cho rằng bệnh là sự trừng phạt của các đấng siêu
linh đối với con người ở trần thế.
Với quan niệm như vậy thì người xưa chữa bệnh chủ yếu bằng cách dùng lễ vật để
cầu xin. Cụ thể cầu xin trực tiếp hoặc thông qua những người làm nghề mê tín dị đoan.
Bao giờ cũng vậy, giá trị của lễ vật luôn luôn nhỏ hơn giá trị của điều cầu xin.
Tuy nhiên, trên thực tế người nguyên thuỷ đã bắt đầu biết dùng thuốc, không phải
mặc số phận cho thần linh.
<i><b>b. Thời kỳ các nền văn minh cổ đại </b></i>
Ấn Độ,... Trong xã hội hồi đó đã xuất hiện tơn giáo, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật,
khoa học (gồm cả y học) và triết học.
Nền y học lúc đó ở một số nơi đã đạt được những thành tựu lớn về y lý cũng như về
phương pháp chữa bệnh và đã đưa ra những quan niệm về bệnh riêng.
<i>* Thời kỳ Trung Quốc cổ đại </i>
Khoảng 2 hay 3 ngàn năm trước công nguyên, y học chính thống Trung Quốc chịu
ảnh hưởng lớn của triết học đương thời, cho rằng vạn vật được cấu tạo tố 5 nguyên tố:
Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, tồn tại dưới dạng 2 mặt đối lập (âm và dương) trong quan
hệ hỗ trợ hoặc áp chế lẫn nhau (tương sinh hoặc tương khắc).
<i>Các nhà y học cổ đại Trung Quốc cho rằng bệnh là sự mất cân bằng âm dương và </i>
<i>sự rối loạn quan hệ tương sinh tương khắc của Ngũ Hành trong cơ thể. </i>
Từ đó, ngun tắc chữa bệnh là điều chỉnh lại, kích thích mặt yếu (bổ), áp chế mặt
mạnh (tả).
<i>* Thời kỳ văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại </i>
- Muộn hơn ở Trung Quốc hàng ngàn năm
- Y học cổ đại ở nhiều nước Châu Âu cũng chịu ảnh hưởng khá rõ của Trung Quốc,
nổi bật nhất là ở Hy Lạp - La Mã cổ đại.
Gồm hai trường phái lớn:
<i>Trường phái Pythagore (600 năm trước công nguyên)</i>: Dựa vào triết học đương thời
cho rằng vạn vật do 4 nguyên tố tạo thành với 4 tính chất khác nhau: thổ (khơ), khí
(ẩm), hoả (nóng), thuỷ (lạnh). Trong cơ thể, nếu 4 yếu tố đó phù hợp về tỷ lệ, tính chất
và sự cân bằng: sẽ tạo ra sức khoẻ; nếu ngược lại, sẽ sinh bệnh. Cách chữa bệnh cũng là
điều chỉnh lại, bổ sung cái thiếu và yếu, loại bỏ cái mạnh và thừa.
<i>Trường phái Hippocrat (500 năm trước công nguyên)</i> không chỉ thuần tuý tiếp thu
và vận dụng triết học như Pythagore mà tiến bộ và cụ thể hơn đã quan sát trực tiếp trên
cơ thể sống. Hippocrat cho rằng cơ thể có 4 dịch lớn, tồn tại theo tỷ lệ riêng, có quan hệ
cân bằng với nhau để tạo ra sức khoẻ. Đó là:
<i>- Máu đỏ: do tim sản xuất, mang tính nóng; ơng nhận xét rằng khi cơ thể lâm vào </i>
<i>hồn cảnh nóng (sốt) thì tim đập nhanh; mặt, da đều đỏ bừng</i>. Đó là do tim tăng cường
sản xuất máu đỏ.
- Dịch nhày: không màu, do não sản xuất, thể hiện tính lạnh; xuất phát từ nhận xét:
<i>khi cơ thể bị lạnh thì dịch mũi chảy ra rất nhiều; ngược lại, khi niêm dịch xuất tiết </i>
<i>nhiều cũng là lúc cơ thể nhiễm lạnh. </i>
- Máu đen: do lách sản xuất, mang tính ẩm.
- Mật vàng: do gan sản xuất, mang tính khơ.
<i>* Thời kỳ các nền văn minh khác </i>
- Cổ Ai Cập
Dựa vào thuyết Pneuma (sinh khí) cho rằng khí đem lại sinh lực cho cơ thể. Cơ thể
phải thường xuyên hô hấp để đưa sinh khí vào. Bệnh là do hít phải khí xấu, khơng trong
sạch. Từ đó, các nhà y học đề ra những nguyên tắc chữa bệnh.
- Cổ Ấn Độ
Y học chính thống chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học đạo Phật cho rằng cuộc
sống là một vòng luân hồi (gồm nhiều kiếp), mỗi kiếp trải qua 4 giai đoạn: sinh, lão,
bệnh, tử. Như vậy, bệnh là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, các nhà y học cổ Ấn
Độ vẫn sáng tạo ra nhiều phương thuốc công hiệu để chữa bệnh.
<i><b>c. Thời kỳ Trung cổ và Phục hưng </b></i>
<i>* Thời kỳ Trung cổ </i>
Các quan điểm tiến bộ bị đàn áp nếu trái với những tín điều trong kinh thánh, khoa
học lâm vào tình trạng trì trệ và thụt lùi. Các nhà khoa học tiến bộ (Brno, Gallile,...) bị
khủng bố.
Quan niệm chính thống về bệnh tỏ ra rất mê muội (sự trừng phạt của chúa đối với
tội lỗi của con người), không coi trọng chữa bệnh bằng thuốc (thay bằng cầu xin), y lý
phải tuân theo các giáo lý của nhà thờ (mỗi vị thánh trấn giữ một bộ phận trong cơ
thể), một số giáo sĩ cấm đọc sách thuốc,... Những nhà y học có quan điểm tiến bộ bị
ngược đãi.
<i>* Thời kỳ Phục Hưng </i>
Nhiều thuyết tiến bộ về y học liên tiếp xuất hiện. Tính duy vật tuy cịn thơ sơ, tính
biện chứng vẫn cịn máy móc, nhưng so với thời kỳ y học cổ truyền thì đã có những
bước tiến nhảy vọt vật chất. Các thuyết đều cố vận dụng các thành tựu mới nhất của
khoa học khác: cơ, lý, hoá, sinh, sinh lý, giải phẫu.
<i>Thuyết cơ học (Descarte):</i> cơ thể như một cỗ máy, ví tim như cái máy bơm, mạch
máu là các ống dẫn; các xương như những đòn bẩy và hệ cơ như các lực. Bệnh được ví
như trục trặc của "máy móc".
<i>Thuyết hố học (Sylvius 1614 - 1672):</i> coi bệnh tật là sự thay đổi tỷ lệ các hoá chất
trong cơ thể, hoặc sự rối loạn các phản ứng hoá học.
<i>Thuyết lực sống (Stalil, 1660 - 1734):</i> các nhà sinh học hồi đó cho rằng các sinh vật
có những hoạt động sống và khơng bị thối rữa là nhờ trong chúng có cái gọi là lực sống.
Lực sống cũng chi phối sức khoẻ và bệnh tật của cơ thể bằng lượng và chất của nó.
<i>* Thế kỷ 18 - 19 </i>
<i>Thuyết bệnh lý tế bào:</i> Wirchow vĩ đại là người sáng lập môn giải phẫu bệnh cho
rằng bệnh là do các tế bào bào tổn thương, hoặc các tế bào tuy lành mạnh nhưng thay
đổi số lượng (heterometric), vị trí (heterotopic) và về thời điểm xuất hiện
(heterocromic).
<i>Thuyết rối loạn hằng định nội môi</i>: Claud Benard - nhà sinh lý học thiên tài, người
sáng lập môn y học thực nghiệm (tiền thân của sinh lý bệnh) đã đưa thực nghiệm vào y
học một cách hệ thống và sáng tạo, đã đưa ra khái niệm "hằng định nội môi", cho rằng
bệnh xuất hiện khi có rối loạn cân bằng này trong cơ thể
<b>4.1.2. Quan niệm về bệnh hiện nay </b>
<i><b>a. Hiểu về bệnh qua quan niệm về sức khoẻ </b></i>
<i>WHO/OMS 1946 đưa ra định nghĩa "sức khoẻ là tình trạng thoải mái về tinh thần, </i>
<i>thể chất và giao tiếp xã hộ, chứ không phải chỉ là vô bệnh, vơ tật</i> ". Đây là định nghĩa
mang tính mục tiêu xã hội, "để phấn đấu", được chấp nhận rất rộng rãi.
Tuy nhiên dưới góc độ y học, cần có những định nghĩa phù hợp và chặt chẽ hơn.
<i>Các nhà y học cho rằng "Sức khoẻ là tình trạng lành lặn của cơ thể về cấu trúc, chức </i>
<i><b>b. Những yếu tố để định nghĩa bệnh </b></i>
Đa số các tác giả đều đưa vào khái niệm bệnh những yếu tố sau:
Sự tổn thương, lệch lạc, rối loạn trong cấu trúc và chức năng (từ mức phân tử, tế
bào, mô, cơ quan đến mức toàn cơ thể). Một số bệnh trước kia chưa phát hiện được tổn
thương siêu vi thể, nay đã quan sát được. Một số bệnh đã được mô tả đầy đủ cơ chế
phân tử như bệnh thiếu vitamin B1.
Do những nguyên nhân cụ thể có hại, đã tìm ra hay chưa tìm ra.
Cơ thể có q trình phản ứng nhằm loại trừ tác nhân gây bệnh, lập lại cân bằng, sửa
chữa tổn thương. Trong cơ thể bị bệnh vẫn có sự duy trì cân bằng nào đó, mặc dù nó đã
lệch ra khỏi giới hạn sinh lý. Hậu quả của bệnh tuỳ thuộc vào tương quan giữa quá trình
gây rối loạn, tổn thương và quá trình phục hồi, sửa chữa.
Bệnh làm giảm khả năng thích nghi với ngoại cảnh.
Với người, các tác giả đề nghị thêm: bệnh làm giảm khả năng lao động và khả năng
hoà nhập xã hội.
Định nghĩa ở mức này rất có ích trong thực tiễn: để phân lập một bệnh và để đề ra
tiêu chuẩn chẩn đốn nó. Tìm cách chữa và xác định thế nào là khỏi bệnh và mức độ khỏi.
Cố nhiên ngoài định nghĩa chung "thế nào là một bệnh", mỗi bệnh cụ thể cịn có
một định nghĩa riêng của nó để khơng thể nhầm lẫn với bất kỳ bệnh nào khác. Chẳng
hạn định nghĩa viêm phổi, lỵ, hen, sởi,...
Cụ thể nhất là xác định bệnh ở mỗi cơ thể bệnh cụ thể
Dù một bệnh nào đó đã có định nghĩa chung, ví dụ bệnh viêm phổi, nhưng viêm
phổi ở cơ thể A không giống ở cơ thể B.
Loại định nghĩa này rất có ích trong điều trị hàng ngày. Nó giúp thầy thuốc chú ý
đến từng cơ thể bệnh riêng biệt.
<b>4.1.3. Khái niệm về bệnh nội khoa thú y </b>
Bệnh nội khoa thú y hay còn gọi là bệnh thơng thường, là những bệnh khơng có tính
chất truyền nhiễm, không lây lan từ con này sang con khác. Ví dụ: Bệnh viêm ruột cata,
bệnh viêm thận, bệnh viêm phổi là những bệnh nội khoa.
Bệnh nội khoa và bệnh truyền nhiễm có sự khác nhau về:
<i><b>a. Nguyên nhân gây bệnh </b></i>
Nguyên nhân gây bệnh nội khoa gồm nhiều yếu tố (môi trường, thời tiết, thức ăn,
chăm sóc ni dưỡng,...).
<i>Ví dụ:</i> Bệnh viêm phế quản phổi ở gia súc do nhiều yếu tố gây nên:
- Do chăm sóc ni dưỡng gia súc kém
- Do gia súc bị nhiễm lạnh đột ngột
- Do kế phát từ một số bệnh khác (kế phát từ bệnh giun ở phế quản,...)
- Do gia súc hít phải một số khí độc trong chuồng ni (H2S, NH3,...)
Nguyên nhân gây bệnh truyền nhiễm là vi sinh vật và chỉ có một. Ví dụ: bệnh tụ
<i><b>b. Tính chất lây lan </b></i>
Bệnh nội khoa: khơng có sự lây lan giữa con vật khoẻ với con vật ốm khi tiếp xúc
với nhau, hoặc khi con vật khỏe tiếp xúc trực tiếp với chất thải của con vật ốm. Ví dụ ở
bệnh viêm ruột, bệnh viêm phổi, bệnh viêm thận,...
<i><b>c. Sự hình thành miễn dịch </b></i>
Ở bệnh nội khoa: khơng có sự hình thành miễn dịch của cơ thể sau khi con vật bệnh
khỏi bệnh. Do vậy, trong q trình sống con vật có thể mắc một bệnh nhiều lần. Ví dụ:
bệnh viêm thận cấp, bệnh viêm ruột, bệnh viêm phổi,...
Ở bệnh truyền nhiễm: hầu hết các bệnh truyền nhiễm có sự hình thành miễn dịch
của cơ thể khi con vật bệnh khỏi bệnh. Do vậy, trong quá trình sống con vật hiếm khi
mắc lại bệnh đó nữa. Ví dụ khi gà mắc bệnh Newcastle và khỏi bệnh thì con gà đó hiếm
khi mắc lại bệnh này nữa.
<b>4.2. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH </b>
<i>* Nguyên nhân: </i>có thể do mầm bệnh hoặc các yếu tố khác của môi trường xung
quanh. Nhóm nguyên nhân do mầm bệnh bao gồm: vi sinh vật, ký sinh trùng
Vi sinh vật gây bệnh bao gồm: vi khuẩn (vi trùng), virus (siêu vi trùng), nấm.
F <i> Gọi là vi sinh vật vì chúng là những sinh vật vô cùng nhỏ bé, mắt thường khơng </i>
<i>thể nhìn thấy được. </i>
F <i> Virus nhỏ hơn vi khuẩn rất nhiều. </i>
F Bệnh do vi khuẩn gây ra thì có thể
<i>điều trị bằng kháng sinh </i>
<i>Bệnh do vi khuẩn gây ra ở vật nuôi: </i>
- Bệnh Tụ huyết trùng trâu bò, lợn, gia cầm.
- Bệnh Đóng dấu lợn.
- Bệnh Lợn nghệ.
<i>Bệnh do virus gây ra ở vật nuôi: </i>
- Bệnh Lở mồm long móng
- Bệnh Dịch tả lợn.
- Bệnh Newcastle (Gà rù).
<i>Bệnh do nấm gây ra ở vật nuôi: </i>
- Bệnh Nấm phổi gia cầm
- Bệnh Ngộ độc thức ăn do độc tố nấm.
<i>* Tác hại: </i>Bệnh do vi sinh vật gây
ra thường lây lan nhanh, gây thiệt hại
lớn về kinh tế bởi vì:
- Làm ốm, chết nhiều vật nuôi
- Tốn kém cho việc phịng, trị bệnh.
<i><b>Hình 4.1. Vi khuẩn yếm khí </b></i>
Bệnh do ký sinh trùng: ký sinh trùng là những sinh vật sống ký sinh (ăn bám) ở cơ
thể vật nuôi. Gồm 2 loại: nội ký sinh trùng và ngoại ký sinh trùng.
<i>Nội ký sinh trùng:</i> sống ký sinh ở bên trong cơ thể vật nuôi. Ví dụ: giun đũa, sán lá
ruột lợn sống ký sinh trong ruột lợn (hình 4.2).
Tác hại:
- Cướp đoạt chất dinh dưỡng, hút máu
- Gây tổn thương các cơ quan nội tạng.
- Trực tiếp hoặc gián tiếp làm lây truyền mầm bệnh khác. Làm con vật gầy yếu dần,
nặng hơn có thể bị chết.
<i>Ngoại ký sinh trùng</i>: sống ký sinh ở bên ngoài cơ thể vật ni.
Ví dụ: con ghẻ sống ký sinh ở da lợn (hình 4.3)
Tác hại:
- Hút máu
- Gây tổn thương da, tạo lối vào
cho các mầm bệnh khác
- Gây ngứa ngáy, khó chịu làm con
vật kém ăn gầy dần.
<i>* Nhóm nguyên nhân do các yếu tố </i>
<i>khác của môi trường xung quanh </i>
<i> - Do chất độc </i>
+ Ăn phải cây cỏ độc: một số loại
cây cỏ thực vật có độc chất, khi gia súc
ăn phải sẽ bị ngộ độc. Ví dụ: nếu gia súc
ăn nhiều lá sắn tươi, vỏ củ sắn sẽ bị ngộ
độc, nặng hơn có thể bị chết.
+ Bị rắn độc, nhện độc cắn. Cần lưu ý khi chăn thả vật ni ở nơi gị hoang, bụi rậm
dễ bị các loại rắn độc, nhện độc cắn dẫn tới vật ni có thể bị chết.
<i>- Do ăn phải hố chất độc: </i>Vật ni có thể bị ngộ độc do ăn phải thuốc trừ sâu, bả
chuột, phân hoá học hoặc một số loại hoá chất độc khác.
<i> - Do chất lượng thức ăn kém </i>
+ Thức ăn bị ôi thiu, mốc.
+ Thức ăn có quá nhiều muối.
+ Do uống phải nguồn nước bị nhiễm độc:
+ Nhiễm các loại hoá chất độc, thuốc trừ sâu
+ Nhiễm các kim loại nặng: thuỷ ngân, chì,...
<i>- Do ni dưỡng, chăm sóc và sử dụng. </i>
+ Do nuôi dưỡng kém
+ Thiếu thức ăn, đặc biệt là trong vụ đông giá rét làm cho vật nuôi gầy yếu, dễ mắc bệnh.
+ Thành phần thức ăn khơng cân đối dẫn đến vật ni cịi cọc, chậm lớn, táo bón, ỉa
chảy, mềm xương. Ví dụ: lợn nái ni con mà thiếu khống thì dễ bị liệt chân.
+ Nước uống không đủ hoặc bị nhiễm bẩn dễ làm cho con vật mắc bệnh.
<i>- Do chăm sóc kém </i>
Chăm sóc khơng chu đáo, khơng cẩn thận
cũng là nguyên nhân làm vật nuôi gầy yếu và
dễ bị mắc bệnh (hình 4.4). Ví dụ: chuồng
ni q chật chội, quá bẩn, quá ẩm ướt, quá
nóng hoặc bị gió lùa vào mùa đơng.
- Đánh nhau
- Bị tai nạn khi chăn thả, làm việc
- Con non mới đẻ yếu ớt bị mẹ hoặc con
khác đè, dẫm lên
- Bắt giữ, vận chuyển thô bạo dễ làm con
cái sẩy thai.
- Vệ sinh đỡ đẻ kém dễ làm cho con mẹ và vật sơ sinh bị uốn ván,...
<i>- Do sử dụng không hợp lý: </i>
+ Không hợp lý về thời gian: phải làm việc quá sớm về mùa đông, quá muộn về
mùa hè.
+ Phải làm việc quá sức
+ Gia súc trong thời kỳ chửa đẻ, gia súc non phải làm việc nặng.
- Do thời tiết bất lợi:
+ Thời tiết phù hợp sẽ cho con vật khoẻ mạnh, ít mắc bệnh. Nhưng khi thời tiết bất
lợi, con vật dễ mắc bệnh.
<i>+ Quá rét: làm vật nuôi tốn nhiều năng lượng để chống rét nên gầy yếu, dễ nhiễm bệnh. </i>
+ Quá nóng: làm cho con vật ni khó chịu, ỉa phân nhiều nước, chuồng trại ẩm ướt
sức khoẻ giảm sút là cơ hội tốt cho mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh.
<b>4.3. CÁC THỜI KỲ TIẾN TRIỂN CỦA MỘT BỆNH </b>
Một bệnh thường tiến triển gồm 4 thời kỳ, nhưng có khi thiếu một thời kỳ nào đó.
<i>Thời kỳ ủ bệnh (tiềm tàng):</i> là khoảng thời gian từ khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ
thể con vật đến khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên. Nhưng ngày nay bằng các biện pháp
hiện đại, nhiều bệnh đã được chẩn đoán ngay từ thời kỳ này. Nhiều bệnh quá cấp tính
do các tác nhân q mạnh, có thể khơng có thời kỳ này (chết do bỏng, điện giật, mất
máu quá lớn, các bệnh ở thể quá cấp tính,...).
Thời gian ủ bệnh ngắn hay dài phụ thuộc vào mầm bệnh và sức khoẻ của con vật,
có thể là 3 - 5 ngày, cũng có thể là 10 - 15 ngày hoặc dài hơn.
Hiểu biết về sự ủ bệnh ở vật ni có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong:
- Cách ly, nhập đàn
- Tiêm chủng vacxin
<i>Ví dụ: </i>Vật ni nhìn thấy khoẻ mạnh bình thường, sau khi mang về vài ngày thì bị
ốm, lây sang các con khác. Hoặc khi tiêm chủng vacxin, con vật khoẻ mạnh bình
thường, sau vài ngày thấy phát bệnh.
F <i> Qua hai ví dụ trên có thể suy đốn rằng những con vật trên đang ủ bệnh và </i>
<i>chúng sẽ ốm sau đó vài ngày. </i>
<i>Thời kỳ khởi phát</i>: xuất hiện một số triệu chứng đầu tiên (khi chẩn đốn chính xác).
ở thời kỳ này xét nghiệm có vai trị rất lớn.
<i>Thời kỳ toàn phát:</i> xuất hiện triệu chứng đầy đủ và điển hình nhất. Tuy nhiên vẫn có
những thể khơng điển hình.
<i>Thời kỳ kết thúc</i>: có thể khác nhau tuỳ bệnh, tuỳ cá thể (khỏi, chết, di chứng, trở
thành mạn tính).
Tuy nhiên, nhiều bệnh hoặc nhiều thể bệnh có thể thiếu một hay hai thời kỳ nào đó.
Ví dụ: bỏng tồn thân, hoặc điện giật khơng có thời kỳ ủ bệnh.
<b>4.4. ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐIỀU TRỊ HỌC </b>
<b>4.4.1. Khái niệm về điều trị học </b>
Khái niệm về điều trị học có liên quan rất mật thiết với sự hiểu biết của con người về
ngun nhân và cơ chế sinh bệnh. Chính vì vậy, cũng như các khái niệm khác, khái niệm
về điều trị luôn thay đổi qua các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử loài người.
<i>Ở thời kỳ mông muội</i>: với khả năng tư duy và hiểu biết của con người với thế giới tự
nhiên còn hết sức hạn chế, người ta cho rằng vạn vật đều do đấng thần linh, siêu nhiên
tạo ra. Do đó, bệnh tật là sự trừng phạt của đấng thần linh, là sự quấy phá, ám ảnh của
<i>ma tà, quỷ qi. Chính vì vậy, quan niệm về điều trị ở thời kỳ này là tế lễ, cúng khấn và </i>
<i>cầu xin các đấng thần linh hoặc nhờ các đấng thần linh xua đuổi tà ma để ban cho </i>
<i>được khỏi bệnh. </i>
Đến thời kỳ văn minh cổ đại: con người đã biết sản xuất và sử dụng các cơng cụ lao
động bằng kim loại, từ đó với các trực quan của mình, người Trung Quốc cổ đại đã cho
<i>rằng: Vạn vật trong tự nhiên đều được cấu thành 5 nguyên tố (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ). </i>
<i>Ở thời kỳ hiện đại</i>: Khi trình độ khoa học đã có những bước phát triển vượt bậc trên
nhiều lĩnh vực, con người đã có những hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về bệnh nguyên
học và sinh bệnh học thì quan niệm về điều trị cũng chuẩn xác và khoa học hơn. Và từ
<i>đó người ta đưa ra những khái niệm về điều trị học có tính khoa học. </i>
Điều trị học là môn học nhằm áp dụng những phương pháp chữa bệnh tốt nhất, an
toàn nhất tác động đối với cơ thể bệnh để làm cho cơ thể đang mắc bệnh nhanh chóng
hồi phục trở lại bình thường và mang lại sức khoẻ và khả năng làm việc, như:
- Dùng thuốc (như dùng kháng sinh trong điều trị nhiễm khuẩn, bổ sung canxi,
phospho và vitamin D trong bệnh mềm xương và cịi xương,...).
- Dùng hố chất (như dùng xanh methylen trong điều trị trúng độc HCN, dùng
Na2SO4 hoặc MgSO4 trong tẩy rửa ruột ở bệnh viêm ruột hay trong chướng hơi dạ cỏ,
tắc nghẽn dạ lá sách).
- Dùng lý liệu pháp (như dùng ánh sáng, dùng nhiệt, dùng nước, dùng dòng điện,...).
- Điều tiết sự ăn uống và hộ lý tốt (như trong bệnh xeton huyết phải giảm thức ăn
chứa nhiều protein, lipit và tăng thức ăn thô xanh, trong bệnh viêm ruột ỉa chảy phải
giảm thức ăn xanh chứa nhiều nước và thức ăn tanh,...).
<b>4.4.2. Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị học </b>
Điều trị học hiện đại là kế thừa sự nghiệp của các nhà y học lỗi lạc (Bôtkin,
Pavlop,...). Dựa trên quan điểm cơ bản là “Cơ thể là một khối thống nhất, hoàn chỉnh,
<i><b>a. Nguyên tắc sinh lý </b></i>
<i>- Điều chỉnh khẩu phần thức ăn (ví dụ: trong chứng xeton huyết phải tăng lượng </i>
<i>gluxit và giảm lượng protein, lipit trong khẩu phần thức ăn; trong bệnh viêm ruột ỉa </i>
<i>chảy</i> phải giảm khẩu phần thức ăn xanh nhiều nước và thức ăn tanh,...).
- Tạo điều kiện tiểu khí hậu thích hợp (ví dụ: trong bệnh cảm nóng, cảm nắng phải
để gia súc nơi thoáng và mát).
- Giảm bớt kích thích ngoại cảnh (ví dụ: trong bệnh uốn ván, chó dại thì phải tránh
ánh sáng, nước, các kích thích tác động mạnh)
- Tìm mọi biện pháp để tăng sức đề kháng cơ thể, tăng cường sự bảo vệ của da và
niêm mạc (bằng dùng vitamin A, vitamin C), tăng cường thực bào của bạch cầu, tăng sự
<b>hình thành kháng thể, tăng sự giải độc của gan và thận,... </b>
<i><b>b. Nguyên tắc chủ động tích cực </b></i>
Theo ngun tắc này địi hỏi người thầy thuốc phải thấm nhuần phương châm “chữa
bệnh như cứu hoả”. Tức là phải:
- Khám bệnh sớm
- Chẩn đoán bệnh nhanh
- Điều trị kịp thời
- Điều trị liên tục và đủ liệu trình
Chủ động ngăn ngừa những diễn biến của bệnh theo các chiều hướng khác nhau (Ví
dụ: trong bệnh chướng hơi dạ cỏ sẽ dẫn tới tăng áp lực xoang bụng và chèn ép phổi làm
cho gia súc ngạt thở mà chết. Do vậy, trong quá trình điều trị cần theo dõi sự tiến triển
của quá trình lên men sinh hơi trong dạ cỏ.
Kết hợp các biện pháp điều trị để thu được hiệu quả điều trị cao. Ví dụ: trong bệnh
viêm phổi ở bê, nghé có thể dùng một trong các biện pháp điều trị sau:
- Dùng kháng sinh tiêm bắp kết hợp với thuốc trợ sức, trợ lực và các thuốc điều trị
triệu chứng.
- Dùng kháng sinh kết hợp với Novocain ở nồng độ 0,25 - 0,5% phong bế hạch sao.
Trong 2 phương pháp này thì phương pháp phong bế có hiệu quả điều trị và hiệu quả
kinh tế cao nhất. Do vậy ta nên chọn phương pháp điều trị thứ hai.
<i><b>c. Nguyên tắc tổng hợp </b></i>
Trong bệnh bội thực dạ cỏ, ngoài biện pháp dùng thuốc làm tăng nhu động dạ cỏ
còn phải dùng thuốc làm nhão thức ăn trong dạ cỏ, trợ sức, trợ lực và tăng cường giải
độc cho cơ thể cịn phải làm tốt khâu hộ lý chăm sóc (cụ thể: để gia súc ở tư thế đầu cao
đuôi thấp, xoa bóp vùng dạ cỏ thường xuyên).
<i><b>d. Nguyên tắc điều trị theo từng cơ thể (điều trị phải an tồn và hợp lý) </b></i>
Cùng một loại kích thích bệnh nguyên nhưng đối với từng cơ thể thì sự biểu hiện về
bệnh lý có khác nhau (sự khác nhau đó là do sự phản ứng của từng cơ thể và do cơ năng
bảo vệ, loại hình thần kinh của mỗi con vật có khác nhau). Do vậy trong điều trị cần
phải chú ý tới trạng thái của từng con bệnh để đưa ra phác đồ điều trị thích hợp, tránh
Sử dụng thuốc nào hoặc một phương pháp điều trị nào trước hết phải chú ý đến vấn
đề an tồn (trước hết phải khơng có hại). Từ lâu đời nay nó vẫn là một phương châm
hàng đầu mỗi khi tiến hành điều trị. Tất nhiên trong điều trị đơi khi cũng có thể xảy ra
những biến chứng hoặc những tác dụng phụ không mong muốn, nhưng phải lường trước
và phải hết sức hạn chế sự xuất hiện của chúng ở mức tối đa cho phép và phải có sự
chuẩn bị đối phó khi chúng xuất hiện.
Mỗi khi tiến hành điều trị cho bất cứ con bệnh nào, phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng.
Cho thuốc gì phải dựa trên cơ sở chẩn đốn bệnh chính xác và tồn diện, phân biệt bệnh
chính và bệnh phụ, nguyên nhân và triệu chứng, thể bệnh và biến chứng, cơ địa và hoàn
cảnh của con bệnh. Điều này làm được tốt hay không là tuỳ thuộc vào độ chuyên môn
của người thầy thuốc, kiến thức và bệnh học, kinh nghiệm hành nghề của từng người.
Chất lượng điều trị phụ thuộc phần lớn vào độ chính xác của chẩn đốn, sự theo dõi sát
sao của người thực hiện y lệnh và khả năng đánh giá tiên lượng bệnh của thầy thuốc.
Ví dụ. Trong bệnh bội thực dạ cỏ thuốc có tác dụng làm tăng nhu động dạ cỏ mạnh
nhất là pilocarpin, nhưng ở gia súc có chửa thì khơng dùng được (vì nó sẽ gây sẩy thai).
Cho nên, để khơng gây sẩy thai và con vật vẫn khỏi bệnh thì người bác sĩ phải trực tiếp
khám bệnh và đưa ra phác đồ điều trị thích hợp.
Tóm lại, theo nguyên tắc này người ta đã đưa ra những chỉ định và chống chỉ định
khi dùng thuốc, liều lượng thuốc cho từng loại, từng cá thể, tuổi của gia súc,... Nhằm
mục đích là tạo điều kiện cho con bệnh nhanh chóng trở lại khỏe mạnh bình thường và
khơng gây tác hại gì cho cơ thể.
<i><b>e. Điều trị phải có kế hoạch </b></i>
<i>Biết bệnh: </i>là có chẩn đốn rõ ràng, có trường hợp ngun nhân biết được ngay, dễ
dàng do đó có thể điều trị ngay nguyên nhân, đó là trường hợp lý tưởng. Nhưng cũng có
trường hợp khi chưa biết ngay ngun nhân, lúc này phải có hướng tìm bệnh ngay từ lúc
đầu và sau sẽ điều chỉnh lại chẩn đoán.
Biết bệnh về phương diện điều trị học còn là biết khả năng của y học hiện nay có
thể giải quyết được bệnh hay khơng. Nếu là trường hợp bệnh thuộc loại có thể điều trị
khỏi hẳn được thì lúc này nên khẩn trương điều trị. Nếu là trường hợp bệnh chưa có thể
chữa được chắc chắn thì phải cho loại thải
<i>Biết con bệnh: </i>Biết bệnh cũng chưa đủ để điều trị mà còn cần phải biết con bệnh.
Trong việc điều trị bệnh, người thầy thuốc có một vai trị quan trọng. Họ phải có kiến
thức y học rộng, phải nắm được những điều cần biết tối thiểu về các chuyên khoa
khác, có như vậy mới tránh được thiếu sót trong cơng tác hàng ngày, nhất là đối với
những trường hợp cấp cứu.
<i>Biết thuốc: </i>Thầy thuốc phải nắm vững những thuốc mình dự định dùng trong điều
trị. Do vậy, biết bệnh, biết con bệnh cũng chưa đủ mà cần biết rõ thuốc và phương pháp
điều trị để áp dụng cho đúng chỉ định, đạt hiệu quả tối ưu. Cụ thể là cần phải biết dược
tính, liều lượng, khả năng tác dụng của thuốc, nắm chắc cách sử dụng thuốc như uống,
tiêm, truyền, thuốc dán, thuốc đạn, thuốc nhỏ.
Về biệt dược (hiện nay có rất nhiều, từ nhiều nguồn trong nước và nước ngoài) cần
phải biết hoạt chất là gì, liều lượng tối đa, tối thiểu. Về thuốc độc, cần biết thuốc bảng
nào của quy chế thuốc độc, liều lượng tối đa cho một lần và cho 24 giờ.
<i><b>f. Điều trị phải được theo dõi chặt chẽ </b></i>
<i>- Theo dõi tác dụng của thuốc </i>
Phải theo dõi chặt chẽ để xem thuốc có tác dụng hay không, đặc biệt chú ý khi cho
thuốc đúng quy cách nhưng bệnh không thuyên giảm, không khỏi. Trong trường hợp
này, nên kiểm tra xem chủ con bệnh có thực hiện đúng như trong đơn thuốc hay khơng,
thuốc cịn thời hạn hay đã quá hạn, đã bị hư hỏng, thuốc pha chế có đúng tiêu chuẩn
dược điển hay không. Cũng nên kiểm tra lại chế độ ăn uống, chế độ nghỉ ngơi. Có
trường hợp cần xét lại chẩn đốn xem có biến chứng mới xuất hiện hay không.
<i>- Trường hợp dùng nhiều thuốc cùng một lúc </i>
Khi dùng nhiều thuốc cùng một lúc, phải lưu ý đến khả năng tương kỵ thuốc.
Tương kỵ thuốc là ảnh hưởng tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều vị thuốc với nhau,
dẫn tới sự biến đổi một phần hoặc toàn bộ các tính chất lý hoá của thuốc trong đơn
thuốc hoặc tác dụng chữa bệnh của những vị thuốc chính trong đơn thuốc đó.
<i>- Việc theo dõi các tai biến có thể xảy ra </i>
Cơng tác điều trị phải là một việc tính tốn kỹ lưỡng, cân nhắc giữa nguy hiểm do
bệnh và nguy hiểm do thuốc gây ra. Có những nguy hiểm bất ngờ khơng lường trước
được. Cũng có những nguy hiểm có thể biết trước được nhưng thầy thuốc và con bệnh
có thể chấp nhận được vì khơng thể có giải pháp nào hơn được. Có những tai biến do
thuốc quá liều. Đáng chú ý là những trường hợp không phải là quá liều tối đa quy định
trong dược lý, dược điển mà quá liều so với tình trạng con bệnh. Vì những lý do trên,
khi đã tiến hành điều trị phải có theo dõi sát sao.
<b>4.4.3. Các phương pháp điều trị </b>
Trong quá trình đấu tranh với bệnh tật, con người có một số kinh nghiệm truyền lại
từ đời này qua đời khác với sự phát triển của y học nói riêng và khoa học nói chung,
những kinh nghiệm đó được sàng lọc cho đến ngày nay. Những phương pháp điều trị
hiệu quả được cải tiến và nâng cao khơng
ngừng. Những phương pháp ít hiệu quả hoặc
có hại được loại bỏ dần dần, những bài thuốc
và kỹ thuật phòng chữa bệnh càng đa dạng
phong phú. Điều trị học là môn học được
<i>thay đổi, bổ sung nhiều nhất với thời gian. </i>
Có nhiều phương pháp điều trị, nhìn
chung các nhà điều trị học chia làm hai loại
dùng phổ biến nhất, đó là điều trị học bằng
thuốc và điều trị học bằng vật lý. Trong mỗi
loại đó có nhiều kỹ thuật khác nhau.
<i><b>a. Điều trị bằng thuốc </b></i>
<i>* Thuốc lấy nguyên liệu từ thảo mộc (hình 4.5) </i>
Từ rất lâu đời, nhân dân và thầy thuốc đã biết sử dụng những thành phần từ cây cỏ
để chữa bệnh. Người ta cũng đã dùng lá cây, rễ cây, thân cây, vỏ cây, nụ và hoa để làm
ra các thuốc chữa bệnh. Hiện nay vẫn còn sử
dụng nguồn dược liệu phong phú này nhưng
với trình độ khoa học cao hơn, người ta đã chiết
xuất hoạt chất, phối hợp các loại thảo mộc với
nhau, tạo ra những dạng bào chế cho thích hợp.
Ngay cả những nước có một nền công nghiệp
dược phẩm phát triển hiện nay cũng có xu
hướng trở lại sử dụng thuốc nguồn gốc thảo
mộc dưới dạng giản đơn mỗi khi tình hình bệnh
tật cho phép.
<i><b>Hình 4.5. Thuốc được chế từ thảo mộc </b></i>
<i>* Thuốc sản xuất từ hoá chất (hình 4.6) </i>
Trong y học hiện đại, hố trị liệu tiến rất mạnh và rất nhanh, nhờ những thành tựu to
lớn trong khoa học. Xu hướng này ngày càng phát triển vì nó cho phép sản xuất tập
trung có tính chất công nghiệp nên sản lượng thường rất lớn, hoạt chất lại hằng định và
dễ lượng hố. Khơng những thế việc tổng hợp nhiều chất cho phép nhân ra nhiếu chủng
loại thuốc, tạo điều kiện cho sự phát triển nhiều loại biệt dược phù hợp với từng thể loại
bệnh. Việc bảo quản, vận chuyển các loại thuốc này dễ dàng hơn thuốc thảo mộc. Đối
với phần lớn thuốc do sản xuất được với quy mô lớn nên giá thành cũng rẻ, góp phần
đáng kể vào việc điều trị bệnh cho đại đa số.
<i>* Thuốc lấy nguyên liệu từ động vật (hình 4.7) </i>
Ngay từ cổ xưa, người ta đã biết sử dụng cao
xương, sừng hươu nai, tê giác, dùng các phủ tạng
một số động vật để chữa bệnh. Một số sản phảm
động vật được sử dụng như sữa ong chúa, nọc ong,
nọc rắn, mật gấu, tắc kè,...
Hướng sử dụng loại nguyên liệu nguồn gốc
động vật rất thịnh hành trong y học cổ truyền - y
học hiện đại cũng dùng một số phủ tạng động vật,
có xử lý theo phương pháp hoá học để chữa trị như
tinh chất giáp trạng, cao gan, huyết thanh chữa uốn
ván, bạch hầu, tinh chất bào thai.
<i>* Thuốc có nguồn gốc hormon </i>
Hormon là các chất sinh học có tác dụng rất đặc hiệu, đối với cơ thể dưới dạng rất
nhỏ với liều lượng rất thấp. Rất nhiều nội tiết được chiết xuất từ các tuyến nội tiết của
động vật (Oestrogen, Insulin,...) hoặc tổng hợp (Corticoid) và đã đem lại nhiều kết quả
tốt. Nhờ tổng hợp được nên thuốc rẻ, tai biến ngày càng ít so với những lần đầu tiên
dùng hormon lấy từ sinh vật để chữa bệnh.
<i>* Thuốc có nguồn gốc từ nấm (Hình. 4.8) </i>
Các thuốc kháng sinh là một phát minh vĩ đại
của con người trong việc bảo vệ cơ thể chống lại
với vi khuẩn. Nó đánh dấu một giai đoạn rất quan
trọng trong việc giải quyết các bệnh nhiễm
khuẩn, sau khi Pasteur tìm ra các vi sinh vật gây
bệnh này. Chất kháng sinh nấm đầu tiên
Penicillin do Fleming người Anh tìm ra năm
1942. Từ đó đến nay rất nhiều thuốc kháng sinh
được ra đời. Việc tìm kiếm các thuốc kháng sinh
có nguồn gốc vi sinh vật, hoặc tổng hợp, hoặc bán tổng hợp. Sự ra đời của kháng sinh bên
<i><b>Hình 4.7. Thuốc lấy nguyên liệu </b></i>
<i><b>từ động vật </b></i>
cạnh tác dụng tích cực cũng đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, nhất là hiện tượng kháng kháng
sinh của vi khuẩn, hiện tượng dị ứng ngày càng hay gặp làm cho việc sử dụng phải rất
thận trọng.
<i>* Các vitamin </i>
Vitamin là những chất hữu cơ, có phân tử lượng thấp, cơ thể không tự tổng hợp
được, phần lớn phải lấy từ ngồi vào, có hoạt tính với lượng nhỏ, rất cần thiết cho sự
<i><b>b. Phương pháp điều trị bằng vật lý </b></i>
Điều trị vật lý là một chuyên khoa trong y học dùng các yếu tố vật lý để phòng và
chữa bệnh. Các phương pháp này xuất hiện đã lâu đời. Vận động thể lực dưới dạng
Yoga, võ thuật, khí cơng đã có từ rất sớm, từ 4000 đến 5000 năm. Châm cứu có trước
cơng nguyên tới trên 2000 năm. Người Ai Cập cổ xưa đã dùng cách "phơi nắng" và
"ngâm bùn" ở sông Nil để chữa bệnh. Người Hy Lạp cổ xưa ưa chuộng thể dục thể thao,
phòng và chữa bệnh. Các phương pháp nhiệt và nước rất thịnh hành ở những thế kỷ đầu
công nguyên.
Trong nhân dân các nước từ Âu sang Á đều còn lưu lại nhiều phương pháp lý liệu
dân gian như xoa bóp, chích lể, chườm nóng, đắp lạnh. Những điều đó nói lên phương
pháp vật lý đã góp phần vào việc giữ gìn và tăng cường sức khoẻ cho con người.
Trong quá trình điều trị người ta thường sử dụng các yếu tố vật lý sau: ánh sáng,
dòng điện, nhiệt độ, nước,...những yếu tố này thông qua phản xạ thần kinh làm tăng
cường trao đổi chất cục bộ, tăng cường tuần hoàn cục bộ, giảm đau cục bộ, làm tiêu
viêm, tăng quá trình hình thành mơ bào mới, do vậy làm vết thương mau lành. Các
phương pháp điều trị bằng vật lý thường dùng là:
<i>* Điều trị bằng ánh sáng </i>
<i>- Dùng ánh sáng tự nhiên (ánh sáng mặt trời): </i>
<i>Cơ chế: </i> Trong ánh sáng mặt trời có tia tử ngoại có tác dụng chuyển 7 -
dehydrocholesterol ở tổ chức dưới da thành vitamin D3, từ đó giúp cho quá trình hấp
thu canxi và phospho ở ruột được tốt. Ngồi ra, nó cịn làm sung huyết mạch quản
ngoại biên. Do vậy, làm tăng cường tuần hồn máu, từ đó làm tăng cường quá trình
trao đổi chất. Hơn nữa nó cịn có tác dụng làm đơng vón và phân hủy protein của vi
khuẩn. Do vậy, nó cịn có tác dụng diệt khuẩn.
<i>+ Ứng dụng</i>: ánh sáng mặt trời được ứng dụng rộng rãi trong phòng bệnh và điều trị
bệnh cho vật nuôi, như: phòng trị bệnh còi xương, mềm xương, bệnh lợn con phân
trắng, sát trùng chuồng trại,...
<i>+ Thời gian sử dụng ánh sáng</i>: tuỳ theo mức độ phân bố ánh sáng mặt trời của từng
vùng, từng mùa mà thời gian sử dụng ánh sáng mặt trời
khác nhau. Cụ thể ở nước ta, thời gian sử dụng ánh
sáng từ 30 phút đến 5 giờ.
Mùa hè: Buổi sáng thời gian sử dụng ánh sáng từ 6
giờ sáng đến 9 giờ sáng. Buổi chiều từ 4 giờ chiều đến
6 giờ chiều.
Mùa đông: sáng từ 8 - 11h, chiều từ 1 - 3h.
<i>- Dùng ánh sáng nhân tạo: </i>
Người ta thường dùng ánh sáng điện thường, ánh
+ Dùng ánh sáng của đèn Solux (hình 4.9)
Bóng đèn có cơng suất từ 300 - 1000W, sức
nóng của tóc đèn có thể lên tới 2.500 - 2.8000C,
trong bóng đèn có chứa hơi azot, nitơ. Do vậy, áp
lực của bóng đèn bằng 1/2 atmotphe. Đèn solux
thường được dùng trong các phịng điều trị và có
thể mang lưu động được.
Thời gian và khoảng cách chiếu sáng: mỗi lần
chiếu từ 25 - 40 phút, ngày chiếu
1 - 2 lần, đèn để cách da vật nuôi từ 0,5 - 0,7m.
Cơng dụng: do có sự tập trung ánh sáng vào
cục bộ nên da nơi bị chiếu có hiện tượng sung
huyết, tăng cường tuần hoàn cục bộ. Do đó nó có
tác dụng tiêu viêm, giảm đau đối với vật nuôi.
Ứng dụng: thường dùng để điều trị trong các bệnh (viêm cơ, áp xe, viêm khớp,
viêm phổi,...).
<i><b>Hình 4.9. Đèn solux </b></i>
<i>+ Dùng ánh sáng đèn hồng ngoại (hình 4.10) </i>
Ánh sáng hồng ngoại được phát ra do đốt nóng dây may xo của các lị sưởi điện, khi
may xo nóng đỏ thì nhiệt độ lên tới 300 - 7000C.
Tác dụng: như ánh sáng điện thường nhưng có độ chiếu sâu hơn. Do vậy, thường
Khoảng cách và thời gian chiếu sáng: đèn để cách mặt da khoảng 0,5 - 0,7 mét, mỗi
lần chiếu từ 20 - 40 phút.
<i>+ Dùng ánh sáng đèn tử ngoại </i>
Tia tử ngoại được phát ra từ bóng đèn làm bằng thạch anh, trong bóng đèn có chứa
khí Ar (Argon) và thuỷ ngân. Nơi thuỷ ngân có áp suất là 1/1000 atmotphe.
Cơ chế: khi có dịng điện chạy qua thì khí Ar sinh ra hiện tượng điện ly và phóng
điện bắn vào các phân tử của hơi thuỷ ngân làm cho một phần phân tử của thuỷ ngân
ion hố, cịn một phần phát ra ánh sáng và ánh sáng này gọi là tia tử ngoại.
Tác dụng:
+ Làm biến đổi 7 dehydrocholesterol → vitamin D3 và ergosterol → vitamin D2.
+ Làm đơng vón và phân huỷ protein của vi sinh vật. Do vậy, có tác dụng sát trùng,
tiêu độc.
+ Làm sung huyết và giãn mạch quản. Do vậy, xúc tiến q trình tuần hồn và trao
đổi chất cơ thể, từ đó làm tăng số lượng hồng cầu, bạch cầu trong máu, làm tăng hiện
tượng thực bào và hàm lượng globulin trong cơ thể.
<i>Cách chiếu: </i>
Với đại gia súc, xác định hàm lượng ánh sáng bằng cách dùng tấm bìa dài 20cm,
rộng 7cm có đục 5 lỗ, mỗi lỗ có diện tích 1cm2. Sau đó đặt tấm bìa lên thân gia súc, tiếp
theo lấy tấm bìa khác che lên lần lượt cho hở từng lỗ một rồi chiếu (mỗi lỗ hở chiếu với
khoảng thời gian 15 - 20 phút) đến thời gian mà mặt da đỏ lên thì thơi. Khoảng cách đèn
Với tiểu gia súc và gia cầm, chiếu toàn đàn, khoảng cách đèn đối với tiểu gia súc và
gia cầm là 1 mét, thời gian chiếu từ 10 - 15 phút, ngày chiếu 3 lần.
<i>Những chú ý khi dùng đèn tử ngoại: </i>
Sau khi chiếu xong phải để phòng điều trị thơng thống (vì khi chiếu đèn thường
xun sinh ra khí O3, mà khí này kích thích rất mạnh niêm mạc (chủ yếu là niêm mạc
đường hô hấp). Vì vậy, dễ gây viêm đường hơ hấp.
<i>* Điều trị bằng dòng điện </i>
Cơ thể con người cũng như gia súc đều là môi trường dẫn điện (do trong cơ thể có
nước và các phân tử keo, các tinh thể). Do vậy, trong điều trị người ta cũng dùng dòng
điện. Phổ biến là sử dụng dòng điện một chiều (dòng ganvanich), dòng điện xung thế
thấp, tần số thấp (dòng Pharadic, dòng Ledue, dòng Bernard,...), các dòng cao tần (dòng
d'<sub> Arsonval, dòng thân nhiệt, sóng ngắn, vi sóng,...) tĩnh điện và ion khí. </sub>
<i>- Sử dụng dòng điện một chiều (hình </i>
<i>4.11) </i>
Qua hệ thống nắn dòng mà dòng điện
xoay chiều được chuyển thành dòng điện
một chiều với hiệu điện thế 60V và cường độ
dòng điện 6A.
Cách tiến hành: Dùng máy điện châm,
mắc một cực ở nơi bị viêm và một cực ở
chân gia súc. Thời gian để cho dòng điện
Tác dụng: Cải thiện quá trình trao đổi chất cơ thể, làm hồi phục chức năng tế bào,
dây thần kinh. Do vậy, thường dùng để điều trị các trường hợp bại liệt do dây thần kinh.
Gây sung huyết ở nơi đặt điện cực. Cho nên, có tác dụng tiêu viêm, giảm đau ở nơi
cục bộ.
<i><b>Chú ý: Không sử dụng cho các trường hợp viêm mạn tính, viêm có mủ. </b></i>
<i>* Điều trị bằng siêu âm </i>
Siêu âm có tác dụng tổng hợp; giãn mạch, giảm co thắt, giảm đau là kết quả của sự
ma sát vi thể và sự dao động cao tần được củng cố bằng tác dụng tăng nhiệt độ do hấp
thu năng lượng sóng siêu âm. Tác dụng trên dinh dưỡng chuyển hoá là kết quả của sự
tăng cường tuần hoàn tại chỗ, tăng hoạt động các men, thay đổi cấu trúc các phân tử lớn
tạo nên các chất mới, có tác dụng kích thích sự sắp xếp lại cấu trúc phân tử tế bào.
<i>* Điều trị bằng nhiệt </i>
Các phương pháp sử dụng nóng (chườm nóng, ngâm nước nóng) gây phản ứng giãn
mạch. Tuỳ mức độ kích thích mà phản xạ này sẽ chỉ có tác dụng khu trú tại chỗ đặt,
kích thích nóng hay lan rộng ra một bộ phận của cơ thể theo kiểu phản xạ đứt đoạn hay
lan rộng ra tồn thân. Chườm nóng có tính chất an thần và điều hoà các rối loạn chức
năng hệ thần kinh, giảm nhẹ đau và co thắt cơ.
Tác dụng của phương pháp lạnh ngắn (chườm lạnh, ngâm nước lạnh) là làm tăng
hưng phấn thần kinh, còn các phương pháp lạnh kéo dài làm lạnh tổ chức, ảnh hưởng
trên thần kinh nằm ở sâu. Lạnh cản trở sự phát triển của quá trình viêm cấp, làm giảm
<i>* Điều trị bằng vận động và xoa bóp </i>
Vận động là một biện pháp phịng bệnh và điều trị, góp phần nâng cao hiệu quả điều
trị, bao gồm: xoa bóp, vận động và điều trị cơ học. Xoa bóp là cách dùng những động
tác của tay tác động trên cơ thể con bệnh với mục đích điều trị (ví dụ: xoa bóp vùng dạ
cỏ khi dạ cỏ bị bội thực; xoa bóp những nơi bị liệt trên cơ thể).
Vận động có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ mọi hoạt động của cơ thể, khơng riêng
gì đối với cơ bắp mà cịn có tác dụng duy trì và tái lập lại hằng định nội mơi tốt nhất (ví
dụ: trong bệnh liệt dạ cỏ, bệnh bội thực dạ cỏ cần phải cho gia súc vận động nhiều lần
trong ngày).
<b>4.4.4. Phân loại điều trị </b>
Dựa trên triệu chứng, tác nhân gây bệnh, cơ chế sinh bệnh mà người ta chia ra làm 4
loại điều trị.
<i><b>a. Điều trị theo nguyên nhân bệnh </b></i>
Loại điều trị này thu được hiệu quả điều trị và hiệu quả kinh tế cao nhất. Bởi vì đã
xác định chính xác ngun nhân gây bệnh, từ đó dùng thuốc điều trị đặc hiệu đối với
ngun nhân bệnh đó.
Ví dụ: Khi xác định gia súc bị trúng độc sắn (HCN), dùng xanh methylen 0,1% tiêm
để giải độc.
Ví dụ: Khi xác định một vật nuôi mắc bệnh tụ huyết trùng, dùng Streptomycin hoặc
Kanamycin để điều trị.
<i><b>b. Điều trị theo cơ chế sinh bệnh </b></i>
Đây là loại điều trị nhằm cắt đứt một hay nhiều giai đoạn gây bệnh của bệnh để đối
phó với sự tiến triển của bệnh theo các hướng khác nhau.
Ví dụ: Trong bệnh viêm phế quản phổi (quá trình viêm làm cho phổi bị sung huyết
và tiết nhiều dịch viêm đọng lại trong lịng phế quản gây trở ngại q trình hơ hấp dẫn
đến gia súc khó thở, nước mũi chảy nhiều, ho). Do vậy, khi điều trị ngoài việc dùng
kháng sinh tiêu diệt vi khuẩn còn dùng thuốc giảm ho và giảm dịch thấm xuất để tránh
hiện tượng viêm lan rộng.
<i><b>c. Điều trị theo triệu chứng </b></i>
Loại điều trị này hay được sử dụng, nhất là trong thú y. Vì đối tượng bệnh là gia
súc, hơn nữa chủ của bệnh súc không quan tâm và theo dõi sát gia súc nên việc chẩn
đoán đúng bệnh ngay từ đầu là rất khó. Do vậy, để hạn chế sự tiến triển của bệnh và
nâng cao sức đề kháng của con vật trong thời gian tìm nguyên nhân gây bệnh, người ta
phải điều trị theo triệu chứng lâm sàng thể hiện trên con vật.
Ví dụ: khi gia súc có triệu chứng phù, triệu chứng này do rất nhiều nguyên nhân:
do bệnh viêm thận, do bệnh tim, do bệnh ký sinh trùng đường máu, do bệnh sán lá
gan, do suy dinh dưỡng. Do vậy, trong thời gian xác định nguyên nhân chính, người ta
dùng thuốc lợi tiểu, giảm phù và thuốc trợ lực, thuốc nâng cao sức đề kháng cho cơ
thể. Khi đã xác định được rõ nguyên nhân thì dùng thuốc điều trị đặc hiệu đối với
nguyên nhân đó.
<i><b>d. Điều trị theo tính chất bổ sung </b></i>
Loại điều trị này dùng để điều trị những bệnh mà nguyên nhân là do cơ thể thiếu
Ví dụ: bổ sung vitamin (trong các bệnh thiếu vitamin); bổ sung máu, chất sắt (trong
bệnh thiếu máu và mất máu); bổ sung các nguyên tố vi lượng (trong các bệnh thiếu các
nguyên tố vi lượng); bổ sung canxi, phospho trong bệnh còi xương, mềm xương; bổ
sung nước và chất điện giải trong bệnh viêm ruột ỉa chảy.
<b>4.5. TRUYỀN DỊCH </b>
Đây là một trong các phương pháp
điều trị bổ sung, nhằm bổ sung nước và
các chất điện giải mà cơ thể đã bị mất
trong các trường hợp bệnh lý.
Trong điều trị bệnh cho gia súc ốm,
việc truyền máu thường rất hiếm (chỉ sử
dụng với các gia súc quý). Nhưng việc
dùng các dung dịch để truyền cho con vật
ốm là rất cần thiết và thường dùng, vì nó
góp phần quan trọng để nâng cao hiệu
quả điều trị.
<b>4.5.1. Các dung dịch thường dùng </b>
<b>trong điều trị bệnh cho gia súc </b>
<i>a. Dung dịch muối đẳng trương (nước muối sinh lý 0,9%): dùng trong các trường </i>
hợp khi cơ thể mất máu cấp tính, viêm ruột ỉa chảy cấp, nôn mửa nhiều). Tiêm dưới da
hoặc truyền vào tĩnh mạch. Liều lượng tuỳ thuộc vào mục đích điều trị.
<i>b. Dung dịch muối ưu trương (NaCl 10%): có tác dụng làm tăng cường tuần hồn </i>
<i>c. Dung dịch Glucoza ưu trương (10 - 40%): dùng trong trường hợp khi gia súc quá </i>
yếu, tăng cường giải độc cho cơ thể (khi cơ thể bị trúng độc), tăng cường tiết niệu và
giảm phù. Tiêm truyền trực tiếp vào tĩnh mạch. Liều lượng tuỳ theo mục đích điều trị.
<i>d. Dung dịch Glucoza đẳng trương (5%): dùng trong trường hợp khi cơ thể bị suy </i>
nhược và mất nước nhiều. Tiêm dưới da hoặc tiêm truyền trực tiếp vào tĩnh mạch. Liều
lượng tuỳ theo mục đích điều trị.
<i>e. Dung dịch Oresol: dùng trong trường hợp bệnh làm cơ thể bị mất nước và chất </i>
điện giải. Cho uống. Liều lượng tuỳ theo mục đích điều trị.
<i>f. Dung dịch Ringerlactat: dùng trong trường hợp bệnh làm cơ thể bị mất nước và </i>
chất điện giải. Tiêm dưới da hoặc tiêm truyền trực tiếp vào tĩnh mạch. Liều lượng tùy
theo mục đích điều trị.
<b>4.5.2. Phương pháp truyền dịch </b>
Dụng cụ dùng cho truyền dịch: bộ dây truyền và chai dịch truyền.
Phương pháp truyền dịch: trước tiên cắm bộ dây truyền vào chai dịch truyền, sau đó
lấy máu ở tĩnh mạch rồi đưa dịch truyền vào cơ thể.
<b>4.5.3. Một số chú ý trong khi truyền dịch </b>
- Dung dịch truyền phải được tuyệt đối vơ trùng.
- Nhiệt độ dung dịch truyền phải
bằng nhiệt độ cơ thể.
- Tốc độ truyền dịch tuỳ thuộc vào
trạng thái cơ thể (Nếu trạng thái cơ thể
yếu thì truyền dịch với tốc độ chậm).
<i>Chuẩn bị các thuốc cấp cứu</i>: Có thể
dùng một trong các loại thuốc:
(Cafeinnatribenzoat 20%, Long não nước
10%, Adrenalin 0,1%, canxi clorua 10%).
- Theo dõi con vật trong khi truyền
dịch và sau khi truyền dịch 30 phút.
- Khi con vật có hiện tượng sốc, chống thì ngừng truyền dịch và tiêm thuốc cấp cứu.
Hệ hơ hấp bao gồm: lỗ mũi, xoang mũi, thanh quản, khí quản, phổi và đảm nhiệm
các chức năng sau:
- Nhiệm vụ chủ yếu của hệ hô hấp là trao đổi khí (lấy oxy từ ngồi vào cung cấp
cho các mơ bào và thải khí carbonic từ mơ bào ra ngoài).
- Ngoài ra hệ hơ hấp cịn làm nhiệm vụ điều hoà thân nhiệt (một phần hơi nước
trong cơ thể đi ra ngồi theo đường hơ hấp).
Sự sống tồn tại được là nhờ sự hoạt động nhịp nhàng của hệ hô hấp. Hoạt động của
hệ hô hấp phụ thuộc vào:
- Sự chỉ đạo của hệ thần kinh trung
ương.
- Cơ hoành, cơ liên sườn, cơ bụng.
Sự hô hấp của cơ thể muốn bình
thường thì địi hỏi các bộ phận của hệ hơ
hấp phải bình thường. Ngồi ra nó cịn
phụ thuộc vào một số yếu tố và điều kiện
khác (thần kinh chi phối trung khu hơ
hấp phải bình thường, khơng khí phải
trong sạch, máu vận chuyển trong phổi
không trở ngại, cơ quan tham gia hơ hấp
phải bình thường).
Nếu trong các khâu trên chỉ cần một
khâu khơng bình thường dễ làm rối loạn
q trình hơ hấp. Sự rối loạn về hơ hấp có hai mặt:
<i>* Rối loạn sự thở ngoài</i><b>: là sự rối loạn trao đổi oxy và khí carbonic trong các mạch </b>
quản ở phế nang. Sự rối loạn này là do:
- Rối loạn trung khu hô hấp (khi trung khu hô hấp bị tổn thương, ứ huyết, bị khối u,
bị kích thích bởi các chất độc,...).
- Sự thay đổi cấu trúc của hệ hô hấp (lỗ mũi, thanh quản, khí quản bị hẹp).
- Thành phần khơng khí thay đổi (O2, CO2). Ví dụ: khi hàm lượng O2 trong khơng
khí thiếu → tần số hơ hấp giảm. Khi hàm lượng CO2 trong khơng khí tăng → tần số hô
hấp tăng).
- Thành phần của máu thay đổi (số lượng hồng cầu thay đổi hay pH của máu thay
đổi → rối loạn hô hấp)
<i>* Rối loạn sự thở trong</i>: tức là sự rối loạn trao đổi khí giữa máu và mơ bào trong cơ
thể. Sự rối loạn này là do rối loạn trao đổi chất trong các mô bào, rối loạn về các tuyến
nội tiết, khi cơ thể trúng độc bởi một số hoá chất (HCl, HCN,...).
Bệnh ở hệ hô hấp thường xảy ra nhiều vào thời kỳ giá rét và chiếm khoảng 30 -
40% trong các bệnh nội khoa. Bệnh thường làm cho gia súc chậm lớn, giảm năng suất
làm việc, thậm chí cịn làm cho gia súc chết.
<i><b>5.1. BỆNH CHẢY MÁU MŨI (Rhinorrhagia) </b></i>
<b>5.1.1. Đặc điểm </b>
Do mũi hay các khí quan lân cận của
mũi bị tổn thương làm cho máu đi ra khỏi
mạch quản chảy ra lỗ mũi. Trong nhân y
gọi là bệnh chảy máu cam.
Tuỳ theo mức độ tổn thương của các
khí quan mà máu chảy ra lỗ mũi nhiều
hay ít và máu chảy ra một bên lỗ mũi hay
cả hai bên lỗ mũi (hình 5.2)
<b>5.1.2. Nguyên nhân </b>
<i><b>a. Nguyên nhân cục bộ </b></i>
- Niêm mạc mũi bị tổn thương (do
tác động cơ giới: thông ống không đúng kỹ thuật, cây cỏ cứng đâm vào, hoặc do các vật
nhọn, cứng đâm vào).
- Do giòi, đỉa, vắt bám vào niêm mạc mũi.
- Do viêm niêm mạc mũi xuất huyết.
<i><b>b. Do các khí quan lân cận bị tổn thương </b></i>
Phổi, họng, thanh quản bị tổn thương, xuất huyết.
<i><b>c. Nguyên nhân toàn thân </b></i>
- Do ứ huyết tĩnh mạch phổi (trong bệnh say nắng, cảm nóng, suy tim,...).
- Do hiện tượng tăng huyết áp (mạch quản ở mũi bị vỡ → chảy máu).
<i><b>d. Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm </b></i>
Bệnh nhiệt thán, bệnh tỵ thư.
<i><b>e. Do cơ thể bị trúng một số loại chất độc, hoá chất. </b></i>
<b>5.1.3. Triệu chứng </b>
Tuỳ theo nhuyên nhân gây nên mà hiện tượng chảy máu biểu hiện khác nhau:
- Nếu do tổn thương cục bộ thì máu chảy ra lỗ mũi ít và chảy ra ở một bên lỗ mũi.
- Nếu do tổn thương vùng họng, khí quản, thanh quản thì máu chảy ra cả hai bên lỗ mũi.
- Nếu do viêm niêm mạc mũi thì máu chảy ra có lẫn dịch nhầy.
- Nếu do bệnh truyền nhiễm thì ngồi việc chảy máu mũi thì gia súc cịn có triệu
chứng lâm sàng điển hình của bệnh truyền nhiễm.
- Nếu do xuất huyết phổi thì máu chảy ra đỏ tươi và có lẫn bọt khí, gia súc có hiện
tượng khó thở.
- Nếu say nắng, cảm nóng thì ngồi triệu chứng chảy máu mũi gia súc cịn có hiện
tượng hoảng sợ, khó thở, niêm mạc mắt sung huyết, tĩnh mạch cổ phồng to.
<b>5.1.4. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Để gia súc ở tư thế đầu cao hơn đuôi.
- Dùng nước đá chườm lên vùng mũi và vùng trán.
- Dùng bông thấm vào dung dịch Adrenalin 0,1% hoặc dung dịch Formon 10% nhét
vào lỗ mũi máu chảy.
<i><b>b. Biện pháp can thiệp </b></i>
Tuỳ theo nguyên nhân gây chảy máu mà dùng biện pháp can thiệp cho phù hợp
- Nếu do đỉa, giòi, vắt chui vào, dùng panh kẹp kéo ra, hoặc dùng nước oxy già nhỏ
vào mũi.
- Nếu do bệnh huyết áp cao thì phải dùng thuốc hạ huyết áp.
- Nếu do bệnh truyền nhiễm thì phải dùng thuốc đặc hiệu điều trị bệnh truyền nhiễm.
- Nếu do viêm mũi xuất huyết thì phải điều trị bệnh viêm mũi.
- Nếu do cảm nóng, say nắng thì phải trích huyết.
Ngồi ra cịn dùng thuốc làm tăng tốc độ đông máu và bền vững thành mạch
+ Dùng thuốc làm tăng tốc độ đông máu trong cơ thể:
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó
Gelatin 4% 400ml 200ml 30 - 50ml
<i>Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần </i>
<b>+ Dùng thuốc làm bền vững thành mạch: </b>
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó
Canxi clorua 10% 50 - 70ml 10 - 20ml 5 - 10ml
Vitamin C 5% 20ml 10ml 5 - 10ml
+ Dùng thuốc phá vỡ tiểu cầu để tăng tốc độ đông máu trong cơ thể:
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó
Dung dịch NaCl 10% 300 - 400ml 100ml 20 - 30ml
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.
<i><b>5.2. BỆNH VIÊM PHẾ QUẢN CATA CẤP TÍNH (Bronchitis catarrhalis acuta) </b></i>
<b>5.2.1. Đặc điểm </b>
Q trình viêm có thể xảy ra trên bề mặt niêm mạc hay dưới niêm mạc của phế
quản. Khi viêm làm cho niêm mạc phế quản bị sung huyết, tiết dịch → niêm mạc rất
mẫn cảm. Do vậy gia súc ho nhiều. Dịch viêm đọng lại ở lòng phế quản, làm cho lòng
phế quản hẹp. Do vậy gia súc có hiện tượng khó thở.
Tuỳ theo vị trí viêm mà có tên gọi:
- Viêm phế quản lớn.
- Viêm phế quản nhỏ.
Bệnh xảy ra nhiều vào thời kỳ giá rét. Gia súc non và gia súc già hay mắc.
<b>5.2.2. Nguyên nhân </b>
<i><b>a. Nguyên nhân nguyên phát </b></i>
- Do gia súc bị nhiễm lạnh.
- Do chăm sóc, ni dưỡng gia súc kém.
- Do gia súc hít phải một số khí độc (H2S, NH3, khói, khí Clo).
- Do niêm mạc phế quản bị tổn thương cơ giới (khi cho gia súc uống thuốc để thuốc
chảy vào phế quản).
- Do gia súc bị thiếu vitamin A.
Tất cả các nguyên nhân trên làm giảm sức đề kháng của cơ thể và làm cho niêm
mạc phế quản dễ bị tổn thương. Từ đó vi khuẩn từ ngồi xâm nhập vào, hoặc những vi
khuẩn đã cư trú sẵn trong hầu, họng có cơ hội phát triển và gây viêm.
<i><b>b. Nguyên nhân kế phát </b></i>
- Do kí sinh trùng kí sinh ở phổi (giun phổi), hoặc do ấu trùng giun đũa di hành gây
tổn thương niêm mạc phế quản, dễ dẫn đến bội nhiễm và viêm.
- Do kế phát từ một số bệnh: bệnh cúm, viêm hạch truyền nhiễm, lao, tụ huyết
trùng,...
<b>5.2.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Những kích thích bệnh lý thơng qua hệ thần kinh trung ương, tác động vào hệ thống
nội thụ cảm của đường hô hấp, làm rối loạn tuần hoàn vách phế quản, dẫn đến xung
huyết niêm mạc và viêm. Niêm mạc phế quản có thể viêm cục bộ hoặc viêm tràn lan.
Dịch viêm tiết ra nhiều (bao gồm hồng cầu, tế bào thường bì) đọng lại ở vách phế quản,
kết hợp với phản ứng viêm thường xuyên kích thích niêm mạc phế quản. Do vậy trên
lâm sàng gia súc có hiện tượng ho và chảy nước mũi nhiều.
Những sản vật độc được sinh ra trong quá trình viêm kết hợp với độc tố của vi
khuẩn thấm vào máu gây rối loạn điều hòa thân nhiệt→ con vật sốt.
Mặt khác, một số dịch viêm đọng lại ở vách phế quản còn gây nên hiện tượng xẹp
phế nang, hoặc gây nên viêm phổi dẫn đến làm cho bệnh trở nên trầm trọng thêm.
<b>5.2.4. Triệu chứng </b>
<i><b>a. Nếu viêm phế quản lớn </b></i>
- Ho là triệu chứng chủ yếu: thời kì
đầu con vật ho khan, tiếng ho ngắn, có
cảm giác đau. Sau 3 - 4 ngày mắc bệnh
- Nước mũi chảy nhiều: lúc đầu nước
mũi trong về sau đặc dần và có màu
vàng, thường dính vào hai bên mé mũi
(hình 5.3)
- Nghe phổi: Thời kì đầu âm phế
nang tăng. Sau 2 - 3 ngày mắc bệnh, xuất
hiện âm ran (lúc đầu ran khô, và sau ran ướt).
- Kiểm tra đờm thấy có tế bào thượng bì, hồng cầu, bạch cầu.
- Con vật không sốt hoặc sốt nhẹ, nếu sốt trong một ngày lên xuống không theo
quy luật.
- Tần số hô hấp không tăng.
<i><b>b. Nếu viêm phế quản nhỏ </b></i>
Con vật sốt (nhiệt độ cao hơn bình thường 1 - 20C).
- Tần số hô hấp thay đổi: Con vật thở nhanh và khó, có trường hợp con vật phải
thóp bụng và lỗ mũi mở to để thở, hoặc phải há mồm ra để thở.
- Nếu có hiện tượng khí phế thì sự trở ngại hơ hấp càng lớn → kiểm tra niêm mạc
mắt thấy niêm mạc tím bầm, mạch nhanh và yếu (hình 5.4)
- Ho khan, tiếng ho yếu và ngắn,
- Nước mũi khơng có hoặc ít,
nước mũi đặc.
- Nghe phổi có thấy âm ran ướt, đôi
khi nghe thấy âm vị tóc. Ở những nơi
phế quản bị tắc thì khơng nghe thấy âm
phế nang, còn vùng xung quanh nó lại
nghe thấy âm phế nang tăng.
- Nếu có hiện tượng viêm lan sang
phổi, gia súc có triệu chứng của bệnh
phế quản phế viêm.
Gõ vùng phổi: Nếu có hiện tượng
khí phế thì âm gõ có âm bùng hơi và vùng gõ của phổi lùi về phía sau.
<b>5.2.5. Tiên lượng </b>
Đối với viêm phế quản lớn tiên lượng tốt. Nếu chữa kịp thời và chăm sóc ni
dưỡng tốt thì sau 3 - 4 ngày điều trị gia súc khỏi bệnh.
Đối với viêm phế quản nhỏ thì mức độ bệnh nặng hơn. Nếu điều trị không kịp thời,
gia súc sẽ chết hoặc chuyển sang viêm mạn hay kế phát sang bệnh phế quản phế viêm.
<b>5.2.6. Chẩn đoán </b>
Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng điển hình như: gia súc ho nhiều, ho có cảm giác
đau, chảy nhiều nước mũi, nước mũi màu vàng hay xanh, nghe phổi xuất hiện âm ran, X
- quang thấy rốn phổi đậm.
Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh khác ở đường hô hấp:
<i>- Bệnh phế quản phế viêm:</i> Con vật sốt cao và sốt có quy luật (sốt lên xuống theo
hình sine). Vùng gõ của phổi có nhiều vùng âm đục phân tán, gia súc kém ăn hoặc bỏ ăn
hoặc, X - quang vùng phổi thấy có âm mờ rải rác.
<i><b>- Bệnh phổi xuất huyết: </b></i>Bệnh phát triển nhanh, nước mũi lỏng và có màu đỏ, ho ít,
nghe phổi cũng có âm ran. Gia súc thở khó đột ngột.
<i><b>- Bệnh phù phổi: </b></i>Bệnh cũng phát triển nhanh, nước mũi lỏng và có lẫn bọt trắng,
nghe phổi cũng có âm ran, gia súc khó thở đột ngột.
<b>5.2.7. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Giữ ấm cho gia súc, chuồng trại sạch sẽ và thống khí, kín gió về mùa đơng.
- Khơng cho gia súc ăn thức ăn bột khô.
- Cho gia súc ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu hoá.
- Dùng dầu nóng xoa hai bên ngực.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
Dùng thuốc giảm ho và long đờm (dùng 1 trong các thuốc sau)
Thuốc Đại gia súc (g) Tiểu gia súc (g) Lợn (g) Chó (g)
Chlorua amon 8 - 10 5 - 8 1 - 2 0,5 - 1
Natri carbonat 8 - 10 5 - 8 1 - 2 0,5 - 1
Hoà với nước sạch cho uống ngày 1 lần
Nếu gia súc sốt cao, dùng kháng sinh điều trị
Dùng thuốc trợ sức, trợ lực và nâng cao sức đề kháng: Cafeinnatribenzoat 20%;
vitamin B1; vitamin C.
<i><b>5.3. BỆNH VIÊM PHẾ QUẢN PHỔI (Broncho pneumonia catarrhalis) </b></i>
<b>5.3.1. Đặc điểm </b>
Bệnh cịn có tên gọi là phế quản phế viêm hay viêm phổi đốm.
Quá trình viêm xảy ra trên vách phế quản và từng tiểu thuỳ phổi. Trong phế nang
chứa dịch thẩm xuất (gồm: bạch cầu, hồng cầu, tế bào thượng bì, niêm dịch).
Bệnh thường xảy ra vào thời kỳ giá rét, gia súc non và gia súc già hay mắc. Nếu
điều trị không kịp thời, bệnh dễ chuyển sang viêm phổi hoại thư.
<b>5.3.2. Nguyên nhân </b>
<i><b>a. Nguyên nhân nguyên phát </b></i>
Do chăm sóc, ni dưỡng gia súc kém → làm cho sức đề kháng của cơ thể giảm.
Do vậy, khi bị nhiễm lạnh gia súc dễ bị mắc bệnh.
Do phổi bị kích thích bởi một số khí độc, hơi nóng, bụi làm tổn thương niêm mạc
phế quản → nhiễm khuẩn và viêm.
Do phổi bị tổn thương cơ giới (cho gia súc uống nước, thuốc sặc vào khí quản) →
<i><b>b. Nguyên nhân kế phát </b></i>
Do kế phát từ một số bệnh khác (bệnh cúm, lao, viêm màng mũi thối loét, giun phổi
hay do di hành của ấu trùng giun đũa, bệnh tim, ứ huyết phổi).
<b>5.3.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Tất cả các kích thích bệnh lý thông qua phản xạ thần kinh trung ương tác động vào
phế nang và phế quản làm cho vách phế nang và một số tiểu thuỳ phổi bị sung huyết,
sau đó tiết dịch, dịch đọng lại ở các phế quản nhỏ và phế nang và gây viêm. Khi dịch
viêm bị phân hủy tạo ra những sản vật độc, những sản vật độc này cùng với độc tố vi
khuẩn vào máu và gây rối loạn điều hòa thân nhiệt. Do vậy, con vật sốt cao.
Do quá trình hô hấp của gia súc đã làm cho dịch viêm ở phế quản và phế nang bị
viêm lan sang phế quản và phế nang bên cạnh chưa bị viêm. Trong thời gian dịch viêm
lan truyền thì cơ thể không sốt, nhưng khi dịch viêm đọng lại và gây viêm thì cơ thể lại
sốt. Do hiện tượng viêm lan từng tiểu thuỳ ở phổi đã làm cho cơ thể sốt lên xuống theo
hình sine.
Nếu quá trình viêm lan rộng ở phổi, làm giảm diện tích hơ hấp của phổi → gia súc
có hiện tượng thở khó hoặc ngạt thở chết. Mặt khác do gia súc sốt cao và kéo dài làm
cho quá trình phân huỷ protit, lipit, gluxit tăng trong cơ thể tăng, hơn nữa do thiếu oxy
mô bào, làm tăng sản vật độc cho cơ thể → gia súc bị nhiễm độc chết.
<b>5.3.4. Triệu chứng </b>
Con vật sốt cao (nhiệt độ tăng hơn bình thường từ 1 - 20C) và sốt lên xuống theo
<b>hình sine, ủ rũ, mệt mỏi, kém ăn hoặc không ăn. </b>
Thời kỳ đầu con vật ho khan và ngắn. Sau đó tiếng ho ướt và dài, con vật có biểu
hiện đau vùng ngực.
Nước mũi ít, đặc có màu xanh và thường
dính vào hai bên lỗ mũi. Nếu viêm phổi hoại thư,
nước mũi như mủ và có mùi thối (hình 5.5).
Con vật khó thở, tần số hơ hấp tăng. Niêm
mạc mắt tím bầm. Lúc đầu tim đập nhanh sau đó
yếu dần.
Gõ vào vùng phổi: gia súc có cảm giác đau
và có phản xạ ho; vùng âm đục của phổi phân
tán, xung quanh vùng âm đục là âm bùng hơi.
Nghe vùng phổi: thấy âm phế quản bệnh lý,
âm ran ướt (ở thời kì đầu), âm ran khô, âm vị
tóc (ở thời kì cuối). Nếu vùng phổi bị gan hố
thậm chí khơng nghe được âm phế nang, nhưng
xung quanh vùng gan hoá âm phế nang tăng.
X quang phổi: Có vùng mờ rải rác trên mặt phổi, nhánh phế quản đậm.
Xét nghiệm máu: Bạch cầu trung tính non tăng, bạch cầu ái toan và đơn nhân giảm
Xét nghiệm nước tiểu: xuất hiện protein.
<b>5.3.5. Bệnh tích </b>
- Hạch lâm ba dọc phế quản bị sưng.
- Trên mặt phổi viêm có màu sắc khác nhau (nơi mới viêm có màu đỏ thẫm, nhưng
nơi viêm có có màu vàng hoặc trắng xám, thậm chí cịn có thể thấy các ổ mủ, hoặc bị
gan hóa) (hình 5.6).
- Có hiện tượng xẹp phổi hay khí phế
từng vùng.
<b>5.3.6. Chẩn đốn</b>
Căn cứ vào triệu chứng: sốt lên xuống
theo hình sine, vùng phổi có âm đục phân
tán, X - quang vùng phổi thấy có vùng mờ
rải rác, con vật khó thở.
Cần chẩn đốn phân biệt với các bệnh:
viêm phế quản cata cấp tính, thuỳ phế viêm,
viêm phế mạc.
<b>5.3.7. Tiên lượng </b>
Tuỳ theo tính chất của bệnh và sức đề
kháng của gia súc, bệnh có thể kéo dài trong 1 - 2 tuần và thường chuyển sang thể mạn
tính. Nếu bệnh nặng, khoảng 8 - 10 ngày con vật chết.
<b>5.3.8. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Giữ ấm cho gia súc, chuồng trại sạch sẽ, thống khí, chăm sóc ni dưỡng tốt, bổ
sung thêm vitamin A, protein và gluxit vào khẩu phần ăn thức ăn.
- Đối với loài nhai lại (nếu con vật yếu và nằm) nên làm giá đỡ, hoặc thường xuyên
trở mình cho con vật.
- Dùng dầu nóng xoa vào vùng ngực.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Dùng thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn: có thể dùng một trong các kháng sinh:
Penicillin + Streptomycin Gentamycin Lincosin
Genta - tylo Pneumotic Tiamulin
Ampicilin Kanamycin Cephacilin
- Dùng thuốc trợ lực, trợ sức, nâng cao sức đề kháng, giảm dịch thẩm xuất và tăng
cường giải độc của cơ thể
Thuốc Đại gia súc (ml) Tiểu gia súc (ml) Chó, lợn (ml)
Glucoza 20% 1000 - 2000 500 - 1 100 - 150
Cafeinnatribenzoat 20% 10 - 15 5 - 10 1 - 3
Canxi clorua 10% 50 - 70 20 - 30 5 - 10
Urotropin 10% 50 - 70 30 - 50 10 - 15
Vitamin C 5% 20 10 5 - 10
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần
<i>- Dùng thuốc điều trị ho long đờm: Đại gia súc và tiểu gia súc (dùng Chlorua amon </i>
hay Bicarbonatnatri, hoặc bột rễ cây cam thảo. Đối với chó (dùng Codein - phosphat
- Dùng vitamin nhóm B để kích thích tiêu hố.
- Dùng thuốc giảm viêm và giảm kích ứng vách niêm mạc phế quản (dùng
Dexamethazol hoặc Prednisolon)
<i><b>Chú ý: Đối với đại gia súc và tiểu gia súc có thể dùng dung dịch Novocain 0,5% </b></i>
phong bế hạch sao hay hạch cổ dưới, cách ngày phong bế 1 lần.
<i><b>5.4. BỆNH VIÊM PHỔI THUỲ (Pneumonia crouposa) </b></i>
<b>5.4.1. Đặc điểm </b>
Bệnh cịn có tên gọi là thùy phế viêm. Đây là một thể viêm cấp tính, q trình viêm
xảy ra nhanh trên thuỳ lớn của phổi và tiến triển qua 3 giai đoạn (giai đoạn sung huyết
tiết dịch; giai đoạn gan hoá; giai đoạn hồi phục)
Trong dịch viêm cịn có nhiều fibrin và thường đơng đặc lại ở phế quản và phế nang
→ phổi bị xơ hóa.
Bệnh phát ra đột ngột, tiến triển mạnh nhưng cũng lui rất nhanh. Bệnh xảy ra nhiều
vào thời kỳ giá rét. Lợn và ngựa hay mắc.
Trong nhân y, bệnh được gọi là phế viêm cấp.
<b>5.4.2. Nguyên nhân </b>
Có nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn chung có hai quan điểm:
<i>Quan điểm 1</i>: Quan điểm này cho rằng, đây là kết quả của bệnh truyền nhiễm. Vì
Nhưng quan điểm chung hiện nay là không nên tách riêng hai quan điểm trên với
nhau. Vì dựa vào cơ sở lý luận của học thuyết Pavlop thì ngoại cảnh thay đổi sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới sự rối loạn về thần kinh của con vật, sức đề kháng của con vật giảm
sút sẽ tạo điều kiện cho những yếu tố sinh vật gây nên bệnh.
<b>5.4.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Mọi kích thích bệnh lý tác động vào nhu mô
phổi gây viêm phế quản nhỏ và tổ chức mềm
của phổi, quá trình viêm này lan rộng rất nhanh
và thường tiến triển qua 3 giai đoạn:
<i>- Giai đoạn sung huyết, tiết dịch: </i>
Thời kì này rất ngắn (thường kéo dài từ
12 - 24 giờ). Các mao quản của phổi phồng to
lên, trong chứa đầy máu và huyết tương, sau
đó thấm qua vách mao quản đi vào các phế
nang → làm cho phổi sưng to, màu đỏ thẫm,
trên mặt phổi có những điểm xuất huyết, khi
dùng dao cắt ra thì thấy máu chảy ra lẫn với
bọt khí.
<i>- Giai đoạn gan hố (hình 5.7) </i>
Giai đoạn này kéo dài từ 4 - 5 ngày. Do dịch viêm có fibrin cho nên làm dịch viêm
<i>Giai đoạn gan hoá đỏ</i>: xảy ra 1 - 2 ngày đầu, trong phế nang chứa đầy fibrin, hồng
cầu, tế bào thượng bì → phổi cứng như gan và có màu đỏ thẫm. Khi cắt phổi bỏ xuống
nước thấy phổi chìm.
<i>Giai đoạn gan hố xám:</i> Giai đoạn này phát triển trong 2 - 3 ngày. Trong phế nang
chủ yếu là bạch cầu, fibrin. Nhưng ở thời kì này bắt đầu có sự thối hố mỡ của dịch
viêm → phổi bớt cứng. Khi cắt phổi ấn tay vào thấy có một ít nước màu vàng xám.
<i>Giai đoạn tiêu tan: Thời kì này kéo dài 2 - 3 ngày </i>
Do chất men phân giải protein của bạch cầu tiết ra phân giải protein làm cho dịch thẩm
xuất lỏng ra và một phần theo đờm ra ngồi, cịn phần lớn vào máu và được bài tiết ra ngoài
theo đường tiết niệu→ phế nang dần dần được hồi phục, lớp tế bào thượng bì ở vách phế
nang tái sinh, phế nang dần dần chứa khơng khí, phổi dần dần trở lại bình thường.
Trong quá trình phát triển của bệnh do tác động của độc tố virut hay vi khuẩn cùng
với chất độc được sinh ra do phân giải dịch viêm ngấm vào máu, làm cho gia súc sốt
cao → gia súc mệt mỏi. Mặt khác do phổi bị mất cơ năng hơ hấp → gia súc khó thở,
thậm trí ngạt thở chết.
<b>5.4.4. Triệu chứng </b>
Bệnh xảy ra đột ngột (đột nhiên gia súc sốt cao 41 - 420C, sốt cao kéo dài liên miên
từ 6 - 9 ngày, sau đó nhiệt độ hạ dần) cũng có những trường hợp nhiệt độ hạ xuống đột
ngột xuống ngay mức bình thường. Gia súc mệt mỏi, ủ rũ, kém ăn hoặc không ăn, run
rẩy. Niêm mạc sung huyết hay hồng đản.
Con vật ho ít, ho ngắn, khi ho gia súc có cảm giác đau. Nước mũi ít, màu đỏ hay màu
<i>Khi gõ vùng phổi âm biến đổi theo từng giai đoạn: </i>
- Giai đoạn sung huyết: vùng phổi có âm trống.
- Giai đoạn gan hố: vùng phổi có âm đục tập trung.
- Giai đoạn tiêu tan: từ âm bùng hơi → âm phổi bình thường.
<i>Nghe phổi: âm biến đổi tuỳ theo giai đoạn bệnh </i>
- Giai đoạn sung huyết: thấy âm phế nang thô và mạnh, âm ran ướt, âm lép bép.
- Giai đoạn gan hố: có vùng âm phế nang mất xen kẽ với vùng âm phế nang tăng.
- Giai đoạn tiêu tan: xuất hiện âm ran rồi đến âm phế nang xuất hiện và sau đó trở
lại bình thường.
<i>Nghe tim:</i> Tim đập mạnh, âm thứ hai tăng, đập nhanh (nhất là vào thời kỳ tiêu tan).
Nếu kế phát hiện tượng viêm cơ tim thì thấy tim loạn nhịp, huyết áp giảm.
<i>Xét nghiệm: </i>
- Lấy nước tiểu kiểm tra tỷ trọng thấy: ở thời kỳ gan hoá nước tiểu giảm, tỷ trọng
nước tiểu tăng. Ở thời kỳ tiêu tan lượng nước tiểu nhiều, tỷ trọng nước tiểu giảm.
- Lấy nước tiểu kiểm tra albumin trong nước tiểu cho kết quả dương tính (+).
- Lấy máu kiểm tra số lượng bạch cầu thấy:
- Bạch cầu tăng cao. Làm công thức bạch cầu thấy (bạch cầu trung tính có hiện
tượng nghiêng tả, lượng ái cầu và bạch cầu hình gậy tăng, lâm ba cầu, bạch cầu ái toan
và bạch cầu đơn nhân giảm).
- Số lượng hồng cầu giảm.
- X - quang vùng phổi thấy vùng sáng rất to trên thùy phổi.
<b>5.4.5. Tiên lượng </b>
Nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh dễ hồi phục, tiên lượng tốt.
<b>5.4.6. Chẩn đoán </b>
Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh (viêm phế quản phổi, viêm màng phổi, viêm
phế quản cata cấp).
<b>5.4.7. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Tách gia súc bệnh ra khỏi đàn. Giữ ấm cho gia súc, chuồng trại sạch sẽ, thoáng mát.
- Cho gia súc ăn thức ăn có nhiều vitamin, thức ăn dễ tiêu và giàu dinh dưỡng. Nếu
gia súc không ăn phải dùng nước cháo pha đường thụt vào dạ dày qua ống thực quản.
- Xoa dầu nóng vào thành ngực gia súc.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Dùng thuốc kháng sinh diệt khuẩn
- Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, giảm dịch thẩm xuất, tăng cường giải độc cho cơ thể.
Thuốc Đại gia súc (ml) Tiểu gia súc (ml) Chó (ml)
Dung dịch Glucoza 20% 1000 - 2000 500 - 1000 100 - 150
Cafeinnatribenzoat 20% 10 - 15 5 - 10 1 - 5
Canxi clorua 10% 50 - 70 30 - 40 5 - 10
Vitamin C 5% 20 10 3 - 5
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.
- Dùng thuốc tăng cường lợi tiểu, sát trùng đường niệu: có thể dùng một trong
những thuốc sau: Diuretin, Theophylin, Theobronin.
- Bổ sung các loại vitamin B, C, PP, A
<i><b>5.5. BỆNH VIÊM MÀNG PHỔI (Pleuritis) </b></i>
<b>5.5.1. Đặc điểm </b>
Quá trình viêm xảy ra trên niêm mạc của mặt phổi hay trên vách ngực, viêm tiết ra
nhiều dịch thẩm xuất và fibrin. Nếu lượng fibrin nhiều thì sẽ gây ra hiện tượng viêm
dính giữa màng phổi và vách ngực. Vì vậy, khi nghe phổi thấy có tiếng cọ màng phổi.
Nếu lượng dịch thẩm xuất tiết ra nhiều, dịch đọng lại trong xoang ngực (trên thực tế
thấy có thể tới 8 - 15 lít). Vì vậy, khi nghe phổi thấy có tiếng vỗ nước.
Q trình viêm gây trở ngại lớn đến q trình hơ hấp của cơ thể. Do vậy, trên lâm
sàng thấy gia súc khó thở, thường hóp bụng để thở.
<b>5.5.2. Nguyên nhân </b>
Do tác động cơ giới, hoá học, nhiệt độ (tất cả các yếu tố trên làm tổn thuơng màng
phổi, tạo điều kiện thuận lợi cho vi trùng sinh mủ và một số loại vi trùng khác xâm nhập
vào màng phổi và gây bệnh).
Do viêm lan từ các ổ viêm khác trong cơ thể (do viêm phổi hoại thư và hoá mủ,
Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh tỵ thư ở ngựa, bệnh viêm kết mạc
truyền nhiễm,...).
<b>5.5.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Các kích thích bệnh lý thông qua thần kinh trung ương gây viêm phế mạc. Trong
thời kì đầu niêm mạc bị sung huyết, mao quản phồng to, tế bào nội bì bị thối hố và
bong ra, sau đó dịch thẩm xuất tiết ra trong có chứa fibrin. Những tương dịch được vách
ngực hấp thu dần, chỉ còn lại fibrin bám vào vách ngực gây nên thể viêm dính. Do vậy,
khi nghe phổi thấy có tiếng cọ màng phổi. Nếu trong dịch viêm chứa nhiều tương dịch,
ít fibrin và tương dịch khơng được hấp thu hết, tích lại trong xoang ngực, tạo nên thể
viêm tích nước trong xoang ngực. Trên lâm sàng khi nghe phổi có tiếng vỗ nước.
Tất cả các trường hợp trên đều làm trở ngại quá trình hơ hấp của phổi → Trên lâm
sàng ta thấy gia súc khó thở.
Độc tố của vi khuẩn cùng với các sản vật độc do sự phân giải protit ở nơi viêm đi
vào máu và tác động đến trung khu điều tiết nhiệt của cơ thể làm cho gia súc sốt cao.
Hệ thống nội cảm thụ ở nơi viêm ln bị kích thích, làm cho con vật đau, con vật
phải thở nông và thở thể bụng.
Khi dịch thẩm xuất tiết ra nhiều,
nó chèn ép lên phổi, gây nên trạng
thái xẹp phổi → con vật thở rất khó.
Mặt khác dịch viêm tiết ra nhiều nó
cịn chèn ép tim làm cho tim co bóp
<b>5.5.4. Triệu chứng </b>
Con vật mệt mỏi, kém ăn hoặc
bỏ ăn, sốt cao, sốt lên xuống không
theo quy luật. Nếu viêm hố mủ thì
Gia súc bị đau ngực (biểu hiện thở nông và thở thể bụng, khi sờ nắn vùng ngực gia
súc né tránh). Khi mới viêm, gia súc nằm thường để vùng ngực viêm lên phía trên,
nhưng khi dịch viêm tiết ra nhiều, gia súc lại thích nằm về phía bị viêm.
<i>Gõ</i> vùng ngực gia súc có cảm giác đau và có phản xạ ho. Nếu dịch viêm tích lại
nhiều trong xoang ngực thì có vùng âm đục song song với mặt đất. Nếu có hiện tượng
viêm dính phổi với vách ngực thì khi gia súc đứng hay nằm, vùng âm đục khơng thay
đổi vị trí.
<i>Nghe phổi:</i> nếu có hiện tượng viêm dính, nghe phổi thấy có tiếng cọ màng phổi
(hình 5.8). Nếu trong xoang ngực chứa nhiều dịch thẩm xuất, nghe phổi thấy âm bơi.
Nghe tim thấy tim đập nhanh và yếu, thậm chí thấy tiếng tim mơ hồ. Giai đoạn cuối
của bệnh xuất hiện phù ở yếm, bụng, ngực (do cơ năng tim bị trở ngại).
<i>Xét nghiệm máu:</i>
- Tốc độ lắng của hồng cầu tăng
- Độ dự trữ kiềm giảm
- Bạch cầu trung tính non tăng
Lấy nước tiểu xét nghiệm: giai đoạn đầu của bệnh lượng nước tiểu giảm, tỷ trọng
nước tiểu tăng, lượng clo trong nước tiểu giảm. Nếu bệnh nặng còn có hiện tượng
albumin niệu.
<i>X - quang phổi: </i>
- Có vùng mờ song song với mặt đất (nếu viêm tích nước).
- Có vùng mờ rải rác trên phổi và xù xì (nếu viêm dính).
<b>5.5.5. Chẩn đốn </b>
Căn cứ vào triệu chứng điển hình: sốt cao không theo quy luật, đau vùng ngực, thở
nông và thở thể bụng, có âm bơi (khi xoang ngực tích nước), chọc dị xoang ngực có
dịch thẩm xuất chảy ra (màu vàng hay hồng), có tiếng cọ màng phổi (khi viêm dính). X
- quang phổi thấy vùng mờ di động song song với mặt đất hay mờ và xù xì.
Ngồi ra cịn phải chẩn đốn với các bệnh sau:
<i>Viêm ngoại tâm mạc</i>: Tiếng cọ tâm mạc cùng một lúc với nhịp đập của tim, vùng
âm đục của tim mở rộng, gia súc hay bị phù trước ngực, tĩnh mạch cổ phồng to.
<i>Thuỳ phế viêm</i>: Gia súc sốt liên miên (6 - 9 ngày) vùng âm đục của phổi theo hình
cánh cung, bệnh thường chia ra từng thời kì rõ rệt, nước mũi có màu gỉ sắt, thở thể bụng
thể hiện khơng rõ.
<b>5.5.6. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Để gia súc nghỉ ở nơi thoáng mát, mùa đông để ở nơi ấm áp. Cho ăn thức ăn dễ
- Dùng dầu nóng xoa vào thành ngực. Nếu có điều kiện dùng đèn tử ngoại, điện
thấu nhiệt tác động vào thành ngực.
- Dùng protein liệu pháp hay huyết liệu pháp.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Dùng kháng sinh có hoạt phổ rộng
- Dùng thuốc làm giảm dịch thẩm xuất, giải độc, lợi tiểu, trợ sức
Thuốc Đại gia súc (ml) Tiểu gia súc (ml) Chó - Lợn (ml)
Dung dịch glucoza 20% 1 - 2 500 - 1000 200 - 300
Cafeinnatribenzoat 20% 10 - 15 5 - 10 1 - 5
Canxi clorua 10% 50 - 70 30 - 40 5 - 10
Urotropin 10% 50 - 70 30 - 50 15 - 20
Vitamin C 5% 20 10 5
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần
- Dùng thuốc để xúc tiến dịch viêm ra khỏi xoang ngực
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó
Natri sulfat 200 - 300g 100 - 200g 5 - 10g
Nước sạch 2 lít 1 lít 0, 5 lí t
Hồ tan cho uống 1 lần, cách 3 ngày uống một lần
- Chọc dị xoang ngực để rút bớt dịch: (trong trường hợp xoang ngực chứa nhiều
dịch viêm) sau đó dùng dịch sát trùng rửa xoang ngực. Cuối cùng dùng dung dịch kháng
sinh bơm vào xoang ngực.
<i><b>5.6. BỆNH VIÊM PHỔI CỦA GIA SÚC NON (Pneumonia of the suckling animal) </b></i>
<b>5.6.1. Đặc điểm </b>
<b>5.6.2. Nguyên nhân </b>
<i><b>a. Nguyên nhân ngun phát </b></i>
Chủ yếu do ni dưỡng và chăm sóc kém, dẫn đến sức đề kháng của gia súc non
giảm, vi trùng dễ xâm nhập vào cơ thể gây bệnh.
<i><b>b. Nguyên nhân kế phát </b></i>
- Do kế phát từ các bệnh truyền nhiễm (dịch tả, phó thương hàn, tụ huyết trùng).
- Do kế phát từ bệnh nội khoa (viêm dạ dày, viêm ruột).
- Do kế phát từ bệnh kí sinh trùng (giun phổi, ấu trùng giun đũa di hành).
<b>5.6.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Cơ thể gia súc non thích ứng với ngoại cảnh kém, nếu điều kiện chăn ni và chăm
sóc không tốt sẽ làm cho sức đề kháng của cơ thể kém. Khi đó các vi trùng gây bệnh từ
ngồi khơng khí vào cơ thể hoặc các vi sinh vật ký sinh sẵn trong đường hô hấp phát
triển, gây thành quá trình bệnh lý.
Do tác động của vi khuẩn, gia súc non sốt, cơ thể mất nước, mất muối, đồng thời do
Cuối kỳ bệnh, gia súc thường bị bại huyết, cơ năng điều tiết của thần kinh trung khu
giảm sút. Cuối cùng trung khu hơ hấp và tuần hồn bị tê liệt làm cho gia súc chết.
<b>5.6.4. Triệu chứng</b>
<i><b>a. Thể cấp tính </b></i>
Gặp ở những gia súc vài tuần tuổi, gia súc sốt cao (410C), uể oải, thích nằm, giảm
ăn, mũi khô, đầu gục sát đất, lông xù và ho. Con vật thở gấp, thở nơng, có nước mũi
chảy ra ở hai bên lỗ mũi, nước mũi có thể lỗng hay đặc. Khi bị chứng bại huyết tồn
thân run rẩy, niêm mạc mắt, mũi, miệng lấm tấm xuất huyết. Tim đập nhanh, mạnh yếu
dần. Nếu kế phát viêm ruột gia súc ỉa phân thối khắm lẫn chất nhày.
Gõ vùng phổi thấy xuất hiện vùng âm đục, nghe thấy âm phế quản bệnh lý, tiếng
ran, tiếng vị tóc.
<i><b>b. Thể mạn tính</b></i>
Gặp ở gia súc đã lớn. Con vật sốt nhẹ, thỉnh thoảng ho, gõ phổi không thấy xuất hiện
vùng âm đục, nghe phổi có khi thấy tiếng ran. Gia súc chậm lớn, ngày một gầy dần.
<b>5.6.5. Bệnh tích </b>
Bệnh tích viêm phổi thuộc thể phế quản phế viêm, thuỳ phế viêm hay hỗn hợp của
hai thể. Bệnh thường biểu hiện nhiều ở thuỳ tim, thuỳ đỉnh và thuỳ đáy của phổi, có khi
Trong nhiều trường hợp gia súc còn bị viêm ruột, các hạch lâm ba sưng và xuất
huyết.
<b>5.6.6. Tiên lượng </b>
- Nếu bệnh kéo dài 3 - 5 ngày khơng khỏi thì gia súc khó khỏi bệnh, thường bị chết.
- Bệnh ở thể mạn tính kéo dài hàng tuần, hàng tháng.
- Nếu viêm phổi chuyển sang dạng bại huyết, kế phát viêm ruột và viêm phổi hố
mủ thì rất khó chữa.
<b>5.6.7. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý: Cho gia súc ở nơi ấm áp, thống khí, tránh lạnh và ẩm. Dùng dầu nóng </b></i>
xoa vào ngực.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
<i>Dùng kháng sinh điều trị:</i> Dùng một trong các loại kháng sinh
- Penicillin 10000 - 15000 UI/kg/lần. Tiêm bắp ngày 2 lần, liên tục 3 - 5 ngày;
- Ampicillin. Tiêm bắp 10 mg/kg/ngày, liên tục 3 - 5 ngày;
- Kanamycin tiêm bắp 10 - 15 mg/kg/ngày liên tục 3 - 5 ngày;
- Gentamycin tiêm bắp 10 mg/kg/ngày, liên tục 3 - 5 ngày;
- Genta - tylo, Cephaxilin, Erythromyxin,...
<i>Dùng thuốc giảm sốt</i>: Anagin 10%.
<i>Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, tăng cường sức đề kháng và giải độc </i>
Bệnh ở hệ tiêu hoá là bệnh thường xảy ra đối với mọi lồi gia súc, nó chiếm tỷ lệ
33 - 53% trong các bệnh nội khoa. Địa dư nước ta thuộc vùng nhiệt đới, khí hậu thay
đổi bất thường, trình độ, kỹ thuật chăn ni gia súc còn thấp kém nên hàng năm số gia
súc chết về bệnh đường tiêu hoá rất nhiều, đặc biệt là hội chứng tiêu chảy ở gia súc và
bệnh lợn con phân trắng. Do đó, bệnh về hệ tiêu hố là một loại bệnh mà những người
làm công tác nội khoa phải đặc biêt chú ý.
Những nguyên nhân gây nên bệnh đường tiêu hố có nhiều mặt, song có thể tóm tắt
những ngun nhân chính sau:
<i>Ngun nhân nguyên phát</i>: Chủ yếu do chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc gia súc kém;
cho gia súc ăn những thức ăn kém phẩm chất (mốc, thối, ít dinh dưỡng, có lẫn tạp chất,
chất độc,...). Thay đổi thức ăn cho gia súc đột ngột, do làm việc quá sức hoặc do chuồng
trại thiếu vệ sinh.
<i>Nguyên nhân kế phát</i>: Thường là hậu quả của những bệnh truyền nhiễm (bệnh dịch
tả lợn, lao, phó thương hàn,...) hoặc các bệnh kí sinh trùng (giun đũa, sán lá gan, tiên
mao trùng,...) hoặc do một số bệnh của các cơ quan trong cơ thể (hơ hấp, tuần hồn,
thần kinh, bệnh của răng miệng,...).
Trong các loài gia súc khác nhau, mỗi lồi có những đặc điểm riêng về giải phẫu và
sinh lý. Chính vì vậy, bệnh ở đường tiêu hố của mỗi lồi cũng có những điểm riêng
Trong hàng loạt các bệnh của hệ tiêu hoá, trên thực tế gia súc non và gia súc già có
tỷ lệ mắc cao hơn. Ở gia súc non do sự phát triển của cơ thể chưa hồn thiện, sự thích
ứng với ngoại cảnh kém, cịn gia súc già nói chung sức đề kháng của cơ thể giảm sút
nên dễ mắc bệnh. Ngoài ra cịn phải xét đến loại hình thần kinh và đặc điểm của từng cơ
thể con vật cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình mắc bệnh.
Bệnh ở đường tiêu hoá rất phức tạp và đa dạng song thường biểu hiện ở hai mặt đó
là sự rối loạn về tiết dịch và vận động của các bộ phận thuộc đường tiêu hoá.
<i><b>6.1. BỆNH VIÊM MIỆNG (Stomatitis) </b></i>
ta thấy ba thể viêm (viêm miệng thể cata, viêm nổi mụn nước, viêm miệng lở loét).
Trong đó thể viêm miệng cata hay xảy ra.
<i><b>6.1.1. Bệnh viêm miệng cata (Stomatitis catarrhalis) </b></i>
<i><b>a. Đặc điểm </b></i>
Quá trình viêm xảy ra trên niêm mạc của vùng miệng. Trong quá trình viêm nước
rãi chảy nhiều và làm ảnh hưởng tới việc lấy thức ăn, nước uống và nhai thức ăn.
<i><b>b. Nguyên nhân </b></i>
<i> Nguyên nhân nguyên phát </i>
- Do niêm mạc miệng bị kích thích của các tác động cơ giới (thức ăn cứng, răng
- Do kích thích về nhiệt (đồ ăn, nước uống q nóng,...)
- Do những tác động về hoá chất (các loại chất độc lẫn vào thức ăn gây nên, hoặc
dùng một số hóa chất có tính kích thích mạnh trong điều trị)
<i> Nguyên nhân kế phát </i>
- Do viêm lan từ các khí quan khác trong cơ thể, vi khuẩn vào máu rồi đến miệng
gây viêm.
- Hậu quả của các bệnh toàn thân (như thiếu vitamin A, C, thiếu máu).
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (như sốt lở mồm long móng, dịch tả trâu
bò, dịch tả lợn, bệnh đậu, viêm màng mũi thối loét).
<i><b>c. Triệu chứng </b></i>
<i>* Thể cấp tính: </i>Con vật ln chảy nhiều nước
rãi (hình 6.1). Niêm mạc miệng khơ, đỏ đều hay lấm
tấm đỏ, con vật lấy thức ăn chậm chạp, nhai khó
khăn. Trong miệng gia súc nóng, đau, có khi sưng
vòm khẩu cái (ngựa). Nhìn trên niêm mạc ngồi
hiện tượng đỏ cịn thấy vết xây xát .
Lưỡi có màu xám trắng, nếu bệnh nặng lưỡi
sưng to, đau đớn, nếu viêm chân răng thì thấy chân
răng đỏ, có khi có mủ.
<i>* Thể mạn tính: </i>Triệu chứng giống thể cấp tính
nhưng kéo dài, gia súc ăn kém và ngày càng gầy dần, niêm mạc miệng dày lên, lồi lõm,
khơng nhẵn, mặt lưỡi bị lt, phía trong má niêm mạc viêm lở loét.
<i><b>d. Tiên lượng </b></i>
Bệnh ở thể nguyên phát khoảng 7 - 10 ngày con vật tự khỏi, nếu không chú ý hộ lý
bệnh sẽ kéo dài, con vật gầy dần.
<i><b>e. Chẩn đoán </b></i>
Bệnh dễ phát hiện, dựa vào triệu chứng để chẩn đoán song cần phải xem xét có phải
là kế phát của các bệnh khác khơng, nhất là bệnh truyền nhiễm.
<i>Bệnh sốt lở mồm long móng</i>: con vật sốt cao, vú và móng nổi mụn nước và mụn
loét, bệnh lây lan nhanh.
<i>Bệnh dịch tả trâu bị</i>: ngồi triệu chứng viêm miệng, con vật thể hiện viêm ruột rất
rõ, bệnh lây lan nhanh.
<i>Bệnh viêm miệng hố mủ có tính chất truyền nhiễm ở ngựa</i>: Trong môi, má, lợi mọc
lấm tấm những nốt bằng hạt vừng, hạt đậu sau đó hố mủ, vỡ ra, hình thành các vết loét
từng đám, bệnh có tính chất lây lan.
Những bệnh kể trên lúc đầu viêm niêm mạc ở thể cata rồi mới đến các triệu chứng
điển hình.
<i><b>g. Điều trị </b></i>
<i>Hộ lý: </i>không cho con vật ăn thức ăn cứng, uống nước nóng, những thức ăn có tính
kích thích.
<i>Dùng thuốc điều trị: </i>
- Dùng dung dịch sát trùng rửa vùng miệng
+ Bệnh nhẹ: dùng natri carbonat 2 - 3% hoặc axit boric 3%, dung dịch phèn chua
3% để rửa niêm mạc miệng.
+ Bệnh nặng: dùng Ichthyol 1 - 3%, hoặc dung dịch Rivanol 0,1%.
+ Bệnh thuộc dạng mạn tính: dùng natri bạc 0,1 - 0,5% hoặc sulfat đồng 0,2 - 0,5%
rửa vết loét.
<i><b>Chú ý: Trong bệnh lở mồm long móng người ta thường dùng các nước quả chua </b></i>
- Bôi kháng sinh vào những nơi có nốt loét.
- Bổ sung cho cơ thể các loại vitamin A, C, B2, PP.
<i><b>6.1.2. Bệnh viêm miệng nổi mụn nước (Stomatitis vesiculosa) </b></i>
<i><b>a. Đặc điểm </b></i>
Trên mặt niêm mạc miệng nổi mụn nước màu trong. Khi các mụn nước và tạo thành
các nốt loét. Bệnh thường gặp ở bò, ngựa, dê.
<i><b>b. Nguyên nhân </b></i>
- Do gia súc ăn phải những thức ăn mốc, thức ăn có tính chất kích thích, hoặc do ăn
thức ăn lẫn hoá chất hay các loại cây độc.
<i><b>c. Triệu chứng </b></i>
- Gia súc đau miệng, lấy thức ăn và nhai chậm chạp, có hiện tượng nhả thức ăn.
- Niêm mạc miệng mấy ngày đầu ở thể viêm cata. Sau đó trong mơi, góc mồm, lợi,
trong má nổi lên những mụn nước nhỏ, trong chứa dịch trong hoặc vàng nhạt (mụn
nước ở bò to hơn ở ngựa, thường ở vịm khẩu cái, bên mơi). Khoảng 3 - 4 ngày sau,
mụn vỡ để lại nốt loét màu đỏ tươi, sau đó tầng thượng bì lại tái sinh.
- Gia súc giảm ăn, mệt mỏi, hơi sốt.
<i><b>d. Tiên lượng </b></i>
Bệnh kéo dài khoảng 20 - 30 ngày rồi khỏi. Nếu lợn nhỏ mắc bệnh thì dễ chết vì
khơng bú được. Thỏ bị bệnh thường kèm theo ỉa chảy, tỷ lệ chết 50%.
<i><b>e. Chẩn đoán </b></i>
Cần chẩn đoán phân biệt với hai bệnh sau:
<i>- Bệnh viêm hố mủ có tính chất truyền nhiễm của ngựa</i>: mụn nước bị mưng mủ và
bệnh có tính chất lây lan.
<i>- Bệnh sốt lở mồm long móng</i>: Gia súc có triệu chứng tồn thân, bệnh lây lan nhanh,
quanh mụn nước có vành đỏ, có hiện tượng viêm ở móng, vú.
<i><b>g. Điều trị </b></i>
Giống viêm miệng thể cata, khi mới có vết loét dùng Glyxerin, iod (Cồn iod 5% 1
phần, Glyxerin 7 phần) để rửa vét lt. Sau đó bơi kháng sinh vào vết loét.
<i><b>6.1.3. Bệnh viêm miệng lở loét (Stomatitis ulcerisa) </b></i>
<i><b>a. Đặc điểm </b></i>
Đây thuộc loại viêm miệng ác tính, lớp niêm mạc ở lợi và trong má bị hoại tử và
loét. Do vậy, làm ảnh hưởng rất lớn tới sự lấy và nhai thức ăn của gia súc. Thể viêm này
loài ăn thịt hay mắc.
<i><b>b. Nguyên nhân </b></i>
- Do sự xâm nhập của loại vi trùng hoá mủ và hoại thư.
- Do bệnh ở răng, lợi, bệnh rối loạn trao đổi chất.
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh dịch tả lợn, dịch tả trâu bò, lở mồm
long móng, bệnh đậu,...)
<i><b>c. Triệu chứng </b></i>
- Lợi bị sưng, có màu đỏ thẫm, ở phía dưới màu vàng nhạt loét như vữa, dưới lớp
đó là niêm mạc loét đỏ (hình 6.2). Khi bệnh nặng xương hàm sưng to.
- Bệnh có thể gây ra chứng bại huyết,
gia súc ỉa chảy.
<i><b>d. Tiên lượng </b></i>
Chữa sớm bệnh sẽ khỏi sau 10 - 15
<i><b>e. Chẩn đoán </b></i>
Dựa vào triệu chứng điển hình (niêm
mạc miệng loét, mồm rất thối, nước rãi
chảy ra có cả mảnh tổ chức hoại tử và máu).
Cần chẩn đoán phân biệt với các trường
hợp viêm khác.
<i><b>g. Điều trị </b></i>
<i>Hộ lý:</i> Cho gia súc ăn thức ăn lỏng và tránh cho ăn thức ăn có tính chất kích thích
niêm mạc miệng. Chuồng trại sạch sẽ khơ ráo và thống khí.
<i>Dùng thuốc điều trị: </i>
<i>- Dùng thuốc sát trùng rửa miệng: Dùng một trong các dung dịch (nước oxy già 3%, </i>
cồn iod 1% hoặc axit boric 3%, nước phèn chua 3%).
- Dùng kháng sinh bôi vào vết loét
- Dùng thuốc trợ sức trợ lực và nâng cao sức đề kháng.
Để làm mòn vết loét tăng sinh: Bôi dung dịch Nitrat bạc 1 - 2% sau đó rửa bằng
nước sinh lý từ 1 - 2 lần.
<i><b>Chú ý: Nếu gia súc không ăn được phải truyền dung dịch đường Glucoza ưu </b></i>
trương.
<i><b>6.2. TẮC THỰC QUẢN (Obturatio Oesophagi) </b></i>
<b>6.2.1. Đặc điểm </b>
- Bệnh thường xảy ra khi cho gia súc ăn những thức ăn củ quả có kích thước to hơn
lòng thực quản.
- Khi thực quản bị tắc thường gây rối loạn quá trình nuốt và gây rối loạn hơ hấp.
Đối với lồi nhai lại cịn gây chướng hơi dạ cỏ kế phát.
- Trong các loài gia súc trâu, bò hay mắc nhất.
<b>6.2.2. Nguyên nhân </b>
- Do gia súc nuốt vội những thức ăn củ quả hay thức ăn bột khô và không được cho
uống nước.
- Do gia súc nuốt phải ngoại vật.
- Do gây mê trong lúc thực quản vẫn cịn tích thức ăn.
- Do kế phát từ những bệnh về thực quản (như giãn, hẹp, liệt thực quản).
- Do trúng độc Atropin sulfat
- Do hiện tượng cuội lơng (đối với bị ni tập trung).
<b>6.2.3. Triệu chứng </b>
<i><b>a. Gia súc có hiện tượng nghẹn </b></i>
Khi nghẹn con vật đang ăn bỏ dở, cổ
<i><b>b. Thực quản bị sưng to </b></i>
Dùng tay sờ nắn phần trái cổ có thể tìm
thấy phần thực quản nổi lên một cục to (có
khi khơng cần sờ cũng nhìn thấy), sờ nắn
vùng sưng thấy thực quản vặn vẹo (hình 6.4).
<b>6.2.4. Tiên lượng </b>
Nếu tắc thực quản do những vật mềm thì
dị vật có thể trơi dần vào dạ dày và tự khỏi
trong vài giờ đến 1 ngày.
Nếu tắc do những vật rắn, to thì bệnh kéo
dài, gia súc khơng ăn được, thực quản có khi bị rách, gia súc có thể kế phát chướng hơi
dạ dày → con vật ngạt thở chết.
<b>6.2.5. Chẩn đoán </b>
- Nếu tắc ở sau họng, dùng dụng cụ mở mồm cho gia súc, cho tay vào có thể tìm
<i><b>Hình 6.3. Con vật đang ăn bỏ dở </b></i>
- Nếu tắc ở đoạn ngực thì dùng ống thơng thực quản khơng thơng vào dạ dày được.
- Có thể chẩn đốn nơi bị tắc bằng X - quang: chỗ đó tối và to hơn bình thường.
Cần phân biệt với các bệnh của thực qun sau:
<i>Thực quản co giật</i>: ở bệnh này khi hết cơn co giật ống thông thực quản vẫn thông
<i>đợc, không sờ thấy ngoại vật ở thực quản. </i>
<i>Thc quản hẹp</i>: Bệnh khơng có triệu chứng rõ rệt, thức ăn lỏng và nước vẫn trôi qua
<i>được. </i>
<b>6.2.6. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Để gia súc ở tư thế đầu cao đuôi thấp.
- Cho gia súc uống nước.
<i><b>b. Biện pháp can thiệp </b></i>
Nếu dị vật bị tắc ở sau họng: dùng dụng cụ mở mồm thò tay vào lấy dị vật ra.
Nếu dị vật tắc ở đoạn cổ: Trong trường hợp dị vật mềm, dùng tay xoa bóp cho tan,
sau đó cho con vật uống nước để con vật tự nuốt. Trong trường hợp dị vật cứng, tròn,
nhẵn, dùng parafin hoặc dầu thực vật bơm vào thực quản cho trơn rồi lấy tay vuốt
ngược cho ngoại vật theo ra đằng mồm.
Nếu dị vật tắc ở đoạn sau: dùng ống thông thực quản đẩy vào từ từ, khi đẩy vào
Dùng thuốc làm tăng co bóp thực quản: có thể dùng một trong các loại thuốc sau:
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó - Lợn
Pilocacpin 3% 10 - 15ml 5 - 10ml 3 - 5ml
Strychnin sulfat 0,1% 10ml 5ml 1 - 2ml
Tiêm dưới da cho gia súc
<i><b>Chú ý: </b></i>
<i><b>6.3. BỆNH Ở DẠ DÀY VÀ RUỘT CỦA LOÀI NHAI LẠI (Diseases of ruminant) </b></i>
<b>6.3.1. Đặc điểm sinh lý của các túi dạ dày </b>
Dạ dày (4 túi) của loài nhai lại có
những đặc điểm sinh lý và giải phẫu riêng.
Do vậy, bệnh về dạ dày của loài nhai lại
cũng mang đặc điểm riêng mà các loài gia
súc khác khơng có (hình 6.5).
Trung khu thần kinh của dạ dày và dạ
cỏ nằm ở trung não. Dây thần kinh mê tẩu
là thần kinh vận động, nên khi người ta kích
thích dây thần kinh này thì sự co bóp của
các túi dạ dày sẽ tăng cường. Sự phối hợp
các co bóp của túi dạ dày do trung tâm dinh
dưỡng ở trước dạ tổ ong. Những kích thích
cảm giác của các túi này sẽ truyền vào tủy sống, ở đó nó tiếp xúc với cả dây thần kinh
từ dạ cỏ vào.
Sự vận động của dạ dày được bắt đầu bằng co bóp của dạ tổ ong làm thể tích dạ tổ
ong giảm đi 1/2 hay 2/3 lần, chất chứa được đẩy lên phía trên và phía sau xoang dạ cỏ,
thức ăn có thể dốc vào tới phía cuối của túi trên. Sau lần co bóp thứ hai thành túi trên
của dạ cỏ cũng co bóp, thức ăn sẽ từ túi trên xuống túi dưới. Khi thành của túi trên cứng
ra thì túi dưới co lại. Khối lượng thức ăn của túi dưới lại dồn lên phía trước của túi trên.
Do kết quả của sự co bóp làm thức ăn được xáo trộn, các bọt hơi tập trung lên túi hơi
làm hơi thoát ra được dễ dàng. Tiếp theo sự co bóp của dạ tổ ong là sự co bóp của dạ lá
sách, dạ tổ ong co bóp trước với cường độ co bóp rất mạnh nên nước trong dạ tổ ong
chảy vào dạ lá sách, khi buồng lá sách đã đầy thì cơ của dạ lá sách đóng lại, lá sách co
bóp mạnh dồn thức ăn vào các lá, chất cứng được giữ lại, chất lỏng chảy vào dạ múi
khế, có một phần chảy về dạ tổ ong, các lá sách co bóp sẽ nghiền nhỏ thức ăn thực vật.
Dạ múi khế co bóp khơng có quan hệ với sự co bóp của ba túi trên mà là tiếp tục
với nhu động của ruột non. Đối với gia súc đang bú thì rãnh thực quản cịn đóng kín nên
khi con vật bú sữa, nước sẽ đi thẳng vào dạ lá sách rồi chảy vào dạ múi khế. Dạ múi khế
(hay dạ dày thực), tá tràng, kết tràng và ruột non có chức năng tương tự như ở động vật
dạ dày đơn. Chính ở dạ múi khế, vi sinh vật dạ cỏ và phần còn lại của thức ăn chưa lên
men nhưng có khả năng tiêu hoá sẽ tiêu hoá bằng enzym tạo ra các sản phẩm sẽ được
hấp thu.
Phản xạ nhai lại được thực hiện do sự kích thích của thức ăn vào thành dạ cỏ. Ngoài
việc nhai lại, trâu bị cịn có hiện tượng ợ hơi để thải chất khí do sự lên men trong dạ cỏ
sinh ra, mỗi giờ ợ hơi từ 17 - 20 lần, khi đó chất khí ép vào dạ cỏ gây phản xạ làm giãn
thực quản, cơ dạ dày co bóp để đẩy hơi ra ngồi.
<i><b>Hình 6.6. Tiêu hoá ở các túi dạ dày </b></i>
Trong dạ cỏ trâu, bò còn chứa lượng vi sinh vật khá lớn, chúng tiết ra men ureaza
để tiêu hoá đạm ure và chuyển thành protein của cơ thể. Ở gia súc khoẻ, hoạt động của
các túi dạ dày bình thường thì thức ăn đọng lại trong dạ cỏ và dạ tổ ong khoảng 2 ngày,
nhu động dạ cỏ của trâu bò từ 2 - 5 lần, của dê cừu từ 2 - 6 lần trong 2 phút.
<b>6.3.2. Cơ năng tiêu hố của các túi dạ dày </b>
Q trình tiêu hố trong dạ cỏ ngồi tác dụng cơ giới cịn có q trình phân huỷ của
vi sinh và các chất lên men. Lượng vi sinh vật trong dạ cỏ rất lớn (khoảng 1 tỷ con trong
1 kg thức ăn dạ cỏ). Trước hết thảo phúc trùng phá vỡ màng xenluloza để tạo điều kiện
cho vi khuẩn lên men và giải phóng các chất dinh dưỡng khác như tinh bột, đường, đạm
trong thức ăn để dễ dàng tiêu hoá. Thảo trùng cũng ăn một phần xenluloza đã bị phá vỡ
đó để có năng lượng cho sự hoạt động của chúng. Chất xơ dưới tác dụng của vi khuẩn
gây lên men rất mạnh, qua một số giai đoạn và cuối cùng tạo ra nhiều chất khí (CH4,
CO2) và các axit béo bay hơi khác (a. acetic, a. propiovic, a. butyric, a. valeric), các sản
phẩm này được hấp thụ vào máu qua thành dạ cỏ để tham gia vào quá trình trao đổi
chất, vi khuẩn còn làm lên men hemixenluloza thành pentoza và hexoza, lên men dectin
tạo thành một số axit béo bay hơi khác.
Thảo phúc trùng cũng phân giải tinh bột thành polysaccarit nhờ men amylaza trong cơ
thể thảo phúc trùng tiết ra. Những đa đường này sẽ được lên men tạo thành axit béo bay hơi.
Sự phân giải protein trong dạ cỏ không đáng kể. Các vi sinh vật biến protein thực
vật thành protein động vật có giá trị dinh dưỡng cao trong cơ thể của chúng. Hệ vi sinh
vật này theo dịch thức ăn đi xuống dạ múi khế và ruột non, ở đó do mơi trường khơng
thích hợp, chúng chết đi, trở thành nguồn protein động vật cung cấp cho trâu bò. Người
ruột dạ lá sách
thực quản
dạ tổ ong
dạ múi khế
ta tính rằng 20 - 30% chất đạm dễ tiêu hố trong dạ cỏ là vi sinh vật tạo thành. Việc
tổng hợp các vitamin nhóm B và K cũng do các vi sinh vật (ở gia súc trưởng thành) tạo
nên, riêng vitamin C chứa trong thức ăn bị phân hoá nhanh trong dạ cỏ.
<i><b>Chú ý: Việc tổng hợp các vitamin này chỉ thực hiện được khi gia súc cai sữa. Vì </b></i>
vậy, với gia súc non việc bổ sung các vitamin cho cơ thể là cần thiết.
<i><b>6.4. BỆNH BỘI THỰC DẠ CỎ (Dilatatio acuta ruminis íngestis) </b></i>
<b>6.4.1. Đặc điểm </b>
Bệnh dạ cỏ bội thực (hay còn gọi tích thức ăn trong dạ cỏ) là do trong dạ cỏ chứa
nhiều thức ăn khó tiêu hóa làm cho thể tích dạ dày tăng lên gấp bội, vách dạ dày căng.
Nếu thức ăn tích lại lâu trong dạ cỏ thường kế phát viêm ruột và gây rối loạn hô hấp, cơ
thể bị nhiễm độc → con vật chết.
Đây là bệnh trâu bò hay mắc (chiếm 40% trong các bệnh ở dạ dày bốn túi). Bệnh
tiến triển chậm (thường xảy ra sau khi ăn từ 6 - 9 giờ).
<b>6.4.2. Nguyên nhân </b>
Do ăn quá no: Trâu bò ăn quá no các loại thức ăn khô, thức ăn khi gặp nước dễ
trương nở (như rơm, cỏ khô, cây họ đậu, bã đậu) hoặc do gia súc nhịn đói lâu ngày đột
nhiên ăn no, ăn xong uống nhiều nước lạnh ngay đều có thể dẫn đến dạ cỏ bội thực.
Do chăm sóc kém hoặc thay đổi thức ăn đột ngột (trâu bò cày kéo bị mắc bệnh do
làm việc quá mệt nhọc, ăn xong đi làm ngay, bò sữa mắc bệnh do thiếu vận động).
Do cơ thể gia súc suy yếu, bộ máy tiêu hoá hoạt động kém, hoặc do kế phát từ
những bệnh khác như nghẽn dạ lá sách, liệt dạ cỏ, viêm dạ tổ ong do ngoại vật và dạ
múi khế biến vị.
Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh cúm, bệnh tụ huyết trùng,...).
<b>6.4.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
<b>6.4.4. Triệu chứng </b>
Bệnh xảy ra sau khi ăn từ 6 - 9 giờ. Triệu chứng lâm sàng thể hiện rõ:
Con vật giảm ăn hay không ăn, ngừng nhai lại, hơi ợ ra có mùi chua, hay chảy dãi,
con vật đau bụng (khó chịu, đi quất mạnh vào thân, xoay quanh cọc buộc, lấy chân
sau đạp bụng, đứng nằm không yên có khi chổng bốn vó giẫy giụa, khi dắt di thấy con
vật cử động cứng nhắc, hai chân dạng ra.
Mé bụng trái con vật phình to, sờ nắn thấy chắc, ấn tay vào có dạng bột nhão, con
vật đau, cho tay qua trực tràng sờ vào dạ cỏ thấy chắc như sờ vào túi bột, con vật rất
khó chịu.
Gõ vào vùng dạ cỏ thấy âm đục tương đối lấn lên vùng âm bùng hơi. Vùng âm đục
tuyệt đối lớn và chiếm cả vùng âm đục tương đối. Tuy vậy, nếu con vật chướng hơi kế
phát thì khi gõ vẫn có âm bùng hơi.
Nghe thấy âm nhu động dạ cỏ giảm hay ngừng hẳn, nếu bệnh nặng thì vùng trái
chướng to, con vật thở nhanh, nông, tim đập mạnh, chân đi loạng choạng, run rẩy, mệt
mỏi, cũng có khi nằm mê mệt khơng muốn dậy.
Có thể gây viêm ruột kế phát. Lúc đầu con vật đi táo, sau đó đi ỉa chảy, sốt nhẹ.
<b>6.4.5. Tiên lượng </b>
Nếu bệnh nhẹ, không kế phát bệnh khác thì sau 3 - 5 ngày sẽ khỏi, nếu kế phát
chướng hơi, viêm ruột hay nhiễm độc thì có thể chết.
<b>6.4.6. Chẩn đốn </b>
Trâu bị mắc bệnh này có những đặc điểm: Bụng trái căng to, sờ vào chắc, ấn tay
vào vùng dạ cỏ để lại vật tay, gia súc không ăn, nhai lại giảm.
Cần phân biệt với các bệnh:
<i>Dạ cỏ chướng hơi</i>: Bệnh phát ra nhanh, vùng bụng trái căng to, sờ dạ cỏ căng như
quả bóng, gia súc khó thở chết nhanh.
<i>Liệt dạ cỏ: </i>Nắn vùng bụng trái cảm thấy thức ăn nhão như cháo, nhu động dạ cỏ
mất.
<i>Viêm dạ tổ ong do ngoại vật: </i>Con vật có triệu chứng đau khi khám vùng dạ tổ ong.
<b>6.4.7. Điều trị </b>
Nguyên tắc tắc điều trị: làm hồi phục và tăng cường nhu động dạ cỏ, tìm cách thải
thức ăn tích lâu ngày trong dạ cỏ.
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Những ngày sau cho gia súc ăn một ít thức ăn mềm, dễ tiêu và cho ăn làm nhiều lần
trong ngày, đồng thời có thể thụt cho gia súc bằng nước ấm.
Moi phân trong trực tràng và kích thích bàng quang cho con vật đi tiểu.
<i><b>b. Dùng thuốc </b></i>
<i>Dùng thuốc tẩy trừ chất chứa trong dạ cỏ:</i> Sulfat natri 300 - 500 g/con (trâu, bò);
50 - 100 g/con (bê, nghé); 20 - 50 g/con (dê, cừu). Hòa với nước sạch cho con vật uống
1 lần trong ngày đầu điều trị.
<i>Dùng thuốc tăng cường nhu động dạ cỏ:</i> Pilocacpin 3% 5 - 10ml/con (trâu, bò);
3 - 5ml/con (bê, nghé); 2 - 3ml/con (dê, cừu). Tiêm bắp, ngày 1 lần
<i>Tăng cường tiêu hóa ở dạ cỏ: </i>dùng HCl (10 - 12ml nguyên chuẩn hịa với 1 lít
nước). Cho con vật uống ngày 1 lần.
<i>Đề phòng thức ăn lên men trong dạ cỏ </i>
- Ichthyol: trâu, bò (20 - 30g), dê, cừu, bê, nghé (1 - 2g). Cho uống ngày 1 lần.
- Hoặc dùng formol (15ml nguyên chuẩn hồ với 1 lít nước sạch) cho con vật uống:
trâu, bị (1 lít/con); bê, nghé, dê (200 - 300ml/con). Cho uống ngày 1 lần.
- Hoặc dùng: cồn + tỏi; nước dưa chua, nước lá thị cho con vật uống.
<i>Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, tăng cường giải độc cho cơ thể: </i>
Thuốc Trâu, bò (ml) Bê, nghé, dê, cừu (ml)
Dung dịch Glucoza 20% 1000 - 2 000 500 - 1000
Cafeinnatribenzoat 20% 10 - 15 5 - 10
Canxi clorua 10% 50 - 70 15 - 20
Urotropin 10% 50 - 70 20 - 30
Vitamin C 5% 20 10
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần
<i><b>Chú ý: </b></i>
- Nếu bội thực dạ cỏ có kế phát chướng hơi cấp tính phải dùng troca chọc thoát hơi.
- Với biện pháp trên mà thức ăn vẫn tích trong dạ cỏ thì mổ dạ cỏ lấy bớt thức ăn
<i><b>6.5. LIỆT DẠ CỎ (Atomia ruminis) </b></i>
<b>6.5.1. Đặc điểm </b>
súc giảm ăn, giảm nhai lại và thường kế phát
viêm ruột, cuối cùng con vật trúng độc chết.
Bệnh thường thấy ở trâu, bị, cịn ở dê, cừu ít
mắc.
<b>6.5.2. Nguyên nhân </b>
<i>* Do cơ thể suy nhược</i> (chiếm khoảng
40%), thường gặp ở những trường hợp sau:
- Do thức ăn khan hiếm, gia súc bị đói, ăn
rơm bị mốc, thối nát nên thiếu sinh tố.
- Do gia súc bị các bệnh tim, gan, thận, rối loạn trao đổi chất, hay mắc những bệnh
mạn tính khác.
- Do chăm sóc nuôi dưỡng gia súc không đúng phương pháp:
+ Cho ăn lâu ngày những thức ăn làm hạn chế nhu động cơ trơn (trâu bò ăn nhiều
<i>thức ăn tinh, kém thức ăn thô xanh). </i>
+ Cho ăn thức ăn có tính kích thích mạnh làm cho nhu động dạ cỏ quá hưng phấn,
<i>đến giai đoạn sau sẽ làm giảm trương lực của cơ → nhu động dạ cỏ giảm sau đó liệt. </i>
<i>- Do cho ăn những thức ăn quá đơn điệu hay thay đổi thức ăn quá đột ngột. </i>
- Do chế độ quản lý gia súc không hợp lý, gia súc làm việc quá sức, thay đổi điều
<i>kiện chăn thả. </i>
<i>* Do kế phát của một số bệnh khác </i>
- Kế phát từ một số bệnh nội khoa (dạ cỏ bội thực, dạ cỏ chướng hơi, viêm dạ tổ
ong do ngoại vật, viêm phúc, mạc).
- Kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh cúm, bệnh tụ huyết trùng).
- Kế phát từ một số bệnh kí sinh trùng (sán lá gan, kí sinh trùng đường máu) hoặc
do trúng độc cấp tính gây nên.
<b>6.5.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Các tác động bệnh lý làm trở ngại tới hoạt động của hệ thần kinh trung ương, thần
kinh thực vật rồi làm trở ngại sự hoạt động của tiền vị làm cho cơ dạ cỏ giảm nhu động
và dẫn đến liệt. Khi dạ cỏ bị liệt, những thức ăn tích lại trong dạ cỏ, dạ lá sách lên men,
thối rữa sinh ra các chất độc và được hấp thụ vào máu gây ảnh hưởng đến tiêu hoá và
trạng thái toàn thân của con vật (do những sản phẩm phân giải từ dạ cỏ hấp thụ vào
Do quá trình lên men đã làm thay đổi pH của dạ cỏ: từ kiềm yếu chuyển sang toan
(do lượng axit hữu cơ đột ngột tăng lên trong dạ cỏ) gây bất lợi cho sự sống của các vi
sinh vật phân giải xenluloza và infusoria trong dạ cỏ, mặt khác những sản vật sinh ra ở
dạ cỏ cịn kích thích tới sự cảm thụ hoá học ở vách dạ dày nên sinh ra những cơn co giật
ở dạ dày. Những dịch lỏng trong dạ dày, chảy vào dạ múi khế và ruột làm ảnh hưởng
đến nhu động của dạ dày và ruột và làm cho dạ lá sách căng to (do thức ăn chưa được
làm mềm, theo dịch thể tràn vào dạ lá sách).
Những kích thích bệnh liên tục truyền đến hệ thần kinh trung ương, làm tế bào thần
kinh mệt mỏi, con vật rơi vào trạng thái bị ức chế.
<b>6.5.4. Triệu chứng </b>
<i><b>a. Thể cấp tính </b></i>
Con vật giảm ăn, thích ăn thức ăn thô hơn thức ăn tinh, khát nước, nhai lại giảm
hoặc ngừng hẳn, nhu động dạ cỏ kém hoặc mất. Con vật hay ợ hơi, hơi có mùi hơi thối.
Con vật thích nằm, mệt mỏi, niêm mạc miệng khô.
Sờ nắn vùng dạ cỏ qua trực tràng thấy thức ăn như cháo đặc, vùng bụng trái sưng
to, con vật khó thở.
Phân lỏng lẫn chất nhầy, khi kế phát viêm ruột thì phân lỗng và thối. Nếu bệnh
nặng con vật có cơn co giật, sau đó con vật chết.
<i><b>b. Thể mạn tính </b></i>
Con vật ăn uống thất thường, nhai lại giảm, ợ hơi thối, dạ cỏ giảm nhu động nên
thường chướng hơi nhẹ, phân lúc táo, lúc lỏng, trường hợp không kế phát bệnh khác thì
nhiệt độ bình thường, con vật gầy dần, sau đó suy nhược rồi chết.
<b>6.5.5. Bệnh tích </b>
Thể tích của dạ cỏ và dạ múi khế tăng, vùng dạ cỏ trùng xuống, thức ăn trong dạ lá
sách khô lại, trong dạ cỏ chứa đầy dịch nhầy có mùi thối, niêm mạc dạ dày viêm hoặc
xuất huyết.
<b>6.5.6. Tiên lượng </b>
Bệnh mới phát thì sau khi điều trị 3 - 5 ngày con vật bình phục trở lại. Bệnh ở dạng
mạn tính tiên lượng xấu.
<b>6.5.7. Chẩn đoán </b>
Phải nắm được đặc điểm của bệnh như nhu động dạ cỏ giảm, hoặc ngừng hẳn, nhai
lại giảm, kém ăn, thỉnh thoảng chướng hơi, lúc đầu đi táo, sau đó ỉa chảy, thức ăn trong
dạ cỏ nát như cháo.
<i> Dạ cỏ chướng hơi: Bệnh phát ra đột ngột, vùng bụng trái phồng to, căng như quả </i>
bóng, con vật ngạt thở, niêm mạc tím bầm, nếu can thiệp khơng kịp thời con vật sẽ chết.
<i>Viêm dạ dày - ruột cấp tính:</i> Gia súc hơi sốt, trong dạ cỏ khơng tích hơi và đọng lại
thức ăn, nhu động ruột tăng, ỉa chảy.
<i>Viêm dạ tổ ong ngoại vật:</i> Con vật cũng liệt dạ cỏ, thay đổi tư thế đứng, dạng hai
<b>6.5.8. Điều trị </b>
Nguyên tắc là làm tăng nhu động dạ cỏ, làm giảm chất chứa.
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Khi mới mắc bệnh cho gia súc nhịn 1 - 2 ngày (không hạn chế uống nước) sau đó
cho ăn thức ăn dễ tiêu, cho ăn ít và nhiều lần trong ngày.
Xoa bóp vùng dạ cỏ (ngày từ 1 - 5 lần, mỗi lần khoảng 10 - 15 phút), cho gia súc
vận động nhẹ. Trường hợp gia súc đau nhiều khơng nên xoa bóp vùng dạ cỏ.
<i><b>b. Dùng thuốc </b></i>
<i>Dùng thuốc làm tăng cường nhu động dạ cỏ (dùng một trong các loại sau): </i>
- Magie sulfat: trâu, bò (300 g/con); bê, nghé (200 g/con). Hịa với 1 lít nước cho
con vật uống 1 lần trong ngày đầu điều trị.
- Hoặc Pilocacpin 3%: trâu, bò (3 - 6ml/con); bê, nghé (3ml/con). Tiêm bắp ngày 1 lần.
- Hoặc dung dịch NaCl 10%: trâu, bò (200 - 300ml/con); bê, nghé (200ml/con).
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.
<i><b>Chú ý: Những gia súc có chửa khơng dùng thuốc kích co bóp cơ trơn </b></i>
- Dùng thuốc ức chế lên men sinh hơi của dạ cỏ
- Điều chỉnh hệ thần kinh, tránh những kích thích bệnh lý (dùng thuốc an thần)
- Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, nâng cao sức đề kháng và tăng cường giải độc
Thuốc Trâu, bò (ml) Bê, nghé, dê, cừu (ml)
Glucoza 20% 1000 - 2000 300 - 500
Cafeinnatribenzoat 20% 20 5 - 10
Canxi clorua 10% 50 - 70 15 - 20
Urotropin 10% 50 - 70 20 - 30
Vitamin C 5% 20 10
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.
- Nếu liệt dạ cỏ do thần kinh giao cảm quá hưng phấn: Dùng Novocain 0,25% 20 -
40ml phong bế vùng bao thận.
- Để tăng cường q trình tiêu hố: Dùng HCl 0,5% 500ml cho uống; dùng rượu tỏi
40 - 60ml cho uống.
- Nếu chướng hơi dạ cỏ kế phát: Cho uống thuốc để ức chế lên men trong dạ cỏ.
- Nếu kế phát ỉa chảy: Cho uống tanin và thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn
đường ruột.
<i><b>6.6. CHƯỚNG HƠI DẠ CỎ CẤP TÍNH (Tympania ruminis acuta) </b></i>
<b>6.6.1. Đặc điểm </b>
Do gia súc ăn nhiều thức ăn dễ lên men, sinh ra nhiều hơi tích trong dạ cỏ → dạ cỏ
chướng hơi phình to, ép vào cơ hồnh làm trở ngại tới hơ hấp và tuần hồn. Do vậy, con
vật có biểu hiện thở khó hoặc ngạt thở.
Ở Việt Nam gia súc hay mắc bệnh này vào vụ đông xuân, nhất là lúc cỏ non đang
mọc và còn nhiều sương giá.
<b>6.6.2. Nguyên nhân </b>
- Do gia súc ăn nhiều thức ăn dễ lên men, sinh hơi (thức ăn xanh chứa nhiều nước,
những cây họ đậu, thân cây ngô non, lá dâm bụt,...) hoặc gia súc ăn phải những thức ăn
đang lên men dở (cây, cỏ, rơm mục).
- Do gia súc ăn phải thức ăn có chứa chất độc (chất độc hợp chất phospho hữu cơ)
- Do gia súc làm việc quá sức hoặc do thời tiết thay đổi quá đột ngột làm ảnh hưởng
tới bộ máy tiêu hoá.
- Bệnh phát sinh còn do kế phát từ bệnh liệt dạ cỏ, viêm dạ tổ ong, viêm phúc mạc,
liệt thực quản, tắc thực quản hay do gia súc nằm liệt lâu ngày.
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (cúm, tụ huyết trùng,...).
- Do gia súc bị trúng độc Carbamid.
- Bê, nghé mắc bệnh thường do bú sữa không tiêu
<b>6.6.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
<i>Cịn có ý kiến cho rằng</i>: Để có hơi tích lại trong dạ cỏ khơng chỉ do thức ăn và điều
kiện khí hậu mà cịn do bọt hơi hình thành trong dạ cỏ và các chất nhầy carbonat của
nước bọt. Những bọt hơi này có sức căng bề mặt lớn lên tích lại ở túi trên và trộn với
thức ăn. Do sự tích lại những bọt hơi lớn lên những bọt hơi nhỏ không có lối thốt ra vì
những bọt hơi lớn có sức căng bề mặt lớn hơn, nó tích lại ở phần trên, ngoài ra protein
thực vật cũng giúp cho sức căng bề mặt của những bọt hơi lớn lên.
<i>Cũng có ý kiến cho rằng</i>: Hơi tích trong dạ cỏ là glycosid, axit cyanhydric, chất
giống vitamin PP ở thực vật gây ức chế cơ trơn dạ cỏ, dạ cỏ nhu động kém làm hơi tích
lại.
<i>Thuyết khác cho rằng</i>: những chất sản sinh trong cơ thể như histamin cũng có tác
dụng làm ức chế hoạt động của cơ trơn, làm cho bệnh dễ phát ra.
Song dù cho nguyên nhân nào đi nữa, bệnh gây ra chủ yếu vẫn do thức ăn lên men
chứa nhiều nước làm hơi sản sinh nhiều, làm rối loạn tuần hoàn ở vách dạ cỏ và ức chế
thần kinh ảnh hưởng đến sự nhai lại và ợ hơi, vách dạ cỏ bị thiếu máu, nhu động dạ cỏ
giảm.
Hơi tích lại làm thể tích dạ cỏ tăng lên đột ngột, ép lên cơ hoành làm gia súc ngạt
thở, máu về tim bị trở ngại gây ứ huyết ở não và tĩnh mạch cổ, gan cũng bị dạ cỏ chèn
ép gây thiếu máu làm cơ năng giải độc của gan giảm đồng thời những chất phân giải
trong dạ cỏ kích thích vào vách dạ cỏ gây cho con vật những cơn co thắt. Đến cuối kì
bệnh, dạ cỏ bị tê liệt, q trình tống hơi ra ngồi hồn tồn bị ngừng trệ nên gia súc lâm
vào trạng thái trầm trọng, gia súc có thể chết do ngạt thở và do tuần hoàn trở ngại.
<b>6.6.4. Triệu chứng </b>
Bệnh xuất hiện rất nhanh (thường xuất hiện
sau khi ăn 30 phút đến 1 giờ).
Bệnh mới phát con vật tỏ ra khơng n, bồn
chồn, bụng trái ngày càng phình to và con vật có
triệu chứng đau bụng (con vật luôn ngoảnh lại
nhìn bụng, vẫy đi, cong lưng, hai chân thu vào
bụng).
Quan sát vùng bụng thấy vùng bụng trái
Gõ vào bụng trái (đặc biệt hõm hông trái) thấy âm trống chiếm ưu thế, âm đục và
âm bùng hơi mất. Nếu khí tích lại nhiều trong dạ cỏ, khi gõ còn nghe thấy âm kim
thuộc.
Nghe vùng dạ cỏ thấy nhu động dạ cỏ lúc đầu tăng sau đó giảm dần rồi mất hẳn, chỉ
nghe thấy tiếng nổ lép bép do thức ăn lên men.
Bệnh càng nặng, gia súc đau bụng càng rõ rệt, vã mồ hôi, uể oải, hay sợ hãi, con vật
ngừng ăn, ngừng nhai lại. Gia súc khó thở, tần số hơ hấp tăng, dạng hai chân trước để
thở, hoặc thè lưỡi để thở và con vật chết do ngạt thở.
Hệ thống tuần hoàn bị rối loạn, máu ở cổ và đầu không dồn về tim được nên tĩnh
mạch cổ phồng to, tim đập nhanh (140 lần/phút), mạch yếu, huyết áp giảm, gia súc đi
tiểu liên tục.
<b>6.6.5. Bệnh tích </b>
Gia súc có hiện tượng chảy máu ở mũi và hậu mơn, có hiện tượng lịi dom, mồm
đầy bọt, thực quản vít chặt, thức ăn lên tới tận miệng, phổi sung huyết, máu tím bầm.
<b>6.6.6. Tiên lượng </b>
Bệnh hay xảy ra ở thể cấp, rất nguy hiểm, khi gia súc phát bệnh nếu không kịp thời
can thiệp gia súc sẽ bị ngạt thở, trúng độc axit carbonic làm trở ngại tuần hoàn và xuất
huyết não, gia súc chết nhanh.
<b>6.6.7. Chẩn đoán </b>
Cần nắm được đặc điểm chính của bệnh: bệnh tiến triển nhanh (thường sau khi ăn
1 - 2 giờ), vùng bụng trái căng phồng, trong dạ cỏ chứa đầy hơi, gia súc khó thở, tĩnh
mạch cổ phồng to.
Cần chẩn đoán phân biệt với dạ cỏ bội thực: ở bệnh bội thực dạ cỏ, bệnh tiến triển
chậm (thường xuất hiện sau khi ăn từ 6 - 9 giờ), khi gõ vùng dạ cỏ xuất hiện âm đục
tuyệt đối.
<b>6.6.8. Điều trị </b>
Nguyên tắc điều trị là tìm mọi biện pháp làm thoát hơi trong dạ cỏ, ức chế sự lên
men, tăng cường nhu động dạ cỏ đồng thời chú ý trợ tim, trợ sức.
Trường hợp chướng hơi quá cấp phải dùng Troca để chọc thoát hơi trong dạ cỏ,
nhưng chú ý khi chọc phải để thoát hơi từ từ.
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Để gia súc đứng yên trên nền dốc (đầu cao mông thấp) cho dễ thở, dùng tay xoa
<b>bóp dạ cỏ nhiều lần (mỗi lần từ 10 - 15 phút). </b>
- Dội nước lạnh vào nửa thân sau, bôi Ichthyol vào lưỡi hoặc dùng que ngáng ngang
mồm để kích thích gia súc ợ hơi.
- Đưa tay vào trực tràng móc phân và kích thích bàng quang để gia súc đi tiểu
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
Thuốc Trâu, bò Bê, nghé
MgSO4 hoặc Na2SO4 200 - 300 g/con 100 - 200 g/con
Hòa nước cho uống một lần trong cả quá trình điều trị
- Dùng thuốc ức chế sự lên men sinh hơi ở dạ cỏ (nước dưa chua, dấm ăn, NH3,
formol, nước rượu tỏi,...).
- Dùng thuốc trợ sức, trợ lực:
Thuốc Trâu, bò Bê, nghé
Cafeinnatribenzoat 20% 10 - 15ml 5 - 10ml
vitamin B1 2,5% 10 - 15ml 5 - 10ml
Tiêm dưới da ngày 1 lần.
<i><b>6.7. TẮC NGHẼN DẠ LÁ SÁCH (Obturatio omasi) </b></i>
<b>6.7.1. Đặc điểm </b>
Do bản thân dạ lá sách co bóp kém. Do vậy, việc đẩy thức ăn vào dạ múi khế chậm,
ngược lại dạ tổ ong và dạ cỏ nhu động mạnh nên thức ăn luôn xuống dạ lá sách → thức
ăn tích trong dạ lá sách, khơ dần và tắc lại.
Bệnh thường xảy ra vào thời kỳ giá rét. Trâu, bò miền núi mắc bệnh nhiều hơn trâu,
bò vùng đồng bằng.
<b>6.7.2. Nguyên nhân </b>
- Do trâu, bò ăn nhiều cám trong một thời gian dài hoặc trong cám có lẫn bùn đất.
- Do trâu, bị ăn nhiều cỏ khơ, rơm rạ, lõi ngơ mà ít uống nước.
- Do kế phát từ viêm dạ dày, dạ múi khế biến vị, do tắc cửa thông với dạ múi khế.
<b>6.7.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Dạ lá sách có cấu tạo bởi nhiều lá nhỏ, giữa các lá nhỏ đó có chỗ chứa thức ăn nên
sự vận chuyển trong dạ lá sách khó khăn hơn các dạ khác.
<b>6.7.4. Triệu chứng </b>
Thời gian đầu con vật giảm ăn, mệt mỏi, kém nhai lại, thỉnh thoảng dạ cỏ bị bội
thực hoặc chướng hơi nhẹ. Con vật sốt, đau vùng dạ lá sách do vậy thường quay đầu
về vùng dạ lá sách, nghe vùng dạ lá sách thấy âm nhu động mất (nghe ở khe sườn 7 -
9 trên đường ngang từ gờ vai phải). Chọc dò dạ lá sách thấy kim chuyển động theo
hình con lắc.
Triệu chứng biểu hiện sớm nhất là gia súc đi táo, trong phân có những mảnh thức ăn
chưa tiêu hố. Những ngày đầu thân nhiệt, tần số hơ hấp, tim mạch bình thường, những
ngày sau đó có hoại tử trong dạ lá sách và bị bại huyết thì con vật sốt cao, triệu chứng
tồn thân rõ ràng.
<b>6.7.5. Chẩn đoán </b>
Để chẩn bệnh người ta căn cứ vào:
đau vùng dạ lá sách, ỉa táo phân có lẫn
mảnh thức ăn chưa kịp tiêu hóa. Ngồi ra
cịn dùng phương pháp chọc dò dạ lá sách
và bơm thuốc vào dạ lá sách.
<b>6.7.6. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Cho gia súc vận động. Bệnh mới phát sinh cho gia súc ăn những thức ăn chứa nhiều
nước hay cỏ non. Đưa tay vào trực tràng móc phân và kích thích gia súc đi tiểu.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
<i>Dùng thuốc làm nhão thức ăn trong dạ lá sách: </i>
- MgSO4: trâu, bò (200 - 300g/con); bê, nghé (100 - 200g/con). Hòa với nước cho
uống một lần.
- Dung dịch MgSO4 25%: trâu, bò (300 - 400ml/con); bê, nghé (200ml/con). Tiêm
trực tiếp vào dạ lá sách.
- Dùng thuốc tăng cường nhu động dạ lá sách. Dùng một trong các loại thuốc sau:
+ Pilocacpin: trâu, bò (5 - 6ml/con); bê, nghé (3 - 5ml/con). Tiêm bắp ngày 1 lần.
+ Hoặc Strychnin sulfat 0,1%: trâu, bò (10 - 15ml/con); bê, nghé: 5 - 10ml/con.
Tiêm dưới da ngày 1 lần.
+ Hoặc dung dịch NaCl 10%: trâu, bò (300ml/con); bê, nghé (200ml/con). Tiêm
chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.
<i><b>Chú ý: Đối với trâu, bị có chửa thì dùng dung dịch NaCl 10%. </b></i>
<i>Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, tăng cường giải độc và nâng cao sức đề kháng cho cơ thể. </i>
Thuốc Trâu, bò (ml) Bê, nghé (ml)
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.
<i>Dùng thuốc điều trị triệu chứng kế phát nếu có. Nếu táo bón dùng thuốc nhuận </i>
tràng. Nếu ỉa chảy dùng thuốc cầm ỉa chảy.
<i><b>6.8. VIÊM DẠ DÀY - RUỘT (Gastro enteritio) </b></i>
<b>6.8.1. Đặc điểm </b>
Quá trình viêm xảy ra dưới lớp biểu mô của vách dạ dày và ruột → làm trở ngại rất
lớn tới tuần hoàn và dinh dưỡng ở vách dạ dày và ruột, làm cho cả lớp niêm mạc tổ
chức bị viêm → vách dạ dày và ruột bị sung huyết, hoá mủ, hoại tử gây nên nhiễm độc
và bại huyết cho cơ thể. Con vật có biểu hiện ỉa chảy rất nặng, cơ thể bị mất nước và
chất điện giải rất nhiều → con vật chết nhanh. Bệnh tiến triển nhanh và tỷ lệ chết cao.
Tùy theo tính chất viêm mà có (viêm xuất huyết; viêm thể màng giả; viêm hoại thư)
<b>6.8.2. Nguyên nhân </b>
<i><b>a. Thể ngun phát </b></i>
- Do sự chăm sóc ni dưỡng gia súc không đúng phương pháp, cho gia súc ăn thức
ăn kém phẩm chất, uống nước bẩn.
- Do gia súc làm việc quá sức, thời tiết thay đổi đột ngột, chuồng trại vệ sinh kém.
- Do trúng độc các loại hoá chất gây viêm niêm mạc đường tiêu hố.
- Do nhiễm các loại vi khuẩn có sẵn trong đường tiêu hoá (Salmonella, E. coli,...).
Khi sức đề kháng của cơ thể giảm, các loại vi khuẩn này phát triển gây bệnh.
<i><b>b. Thể kế phát </b></i>
- Do kế phát từ viêm ruột thể viêm cata.
- Kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (như bệnh dịch tả lợn, dịch tả trâu bò, cúm,
viêm màng mũi thối loét và bệnh do kí sinh trùng).
<b>6.8.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
dạ dày, ruột bị phá hủy, đồng thời các vi khuẩn trong ruột phát triển mạnh, phân giải các
chất chứa thành các sản vật độc ngấm vào máu gây trúng độc cho cơ thể. Trong quá
trình viêm, niêm mạc dạ dày, ruột bị sưng, sung huyết, xuất huyết, lớp niêm mạc thượng
bì bị tróc → thối rữa protit trong ruột càng trở nên nghiêm trọng. Những sản phẩm phân
giải từ protit như Indol, Scatol, H2S,... ngấm vào máu, ức chế thần kinh trung ương làm
ảnh hưởng đến tiêu hoá của dạ dày, ruột → con vật ỉa chảy dữ dội.
Do kết quả của các quá trình phân giải các chất chứa trong dạ dày, ruột và protit →
con vật sốt cao, ỉa chảy mạnh → cơ thể mất nước và chất điện giải, kết quả con vật bị
trúng độc, hôn mê dẫn đến chết. Ngồi ra cịn có thể gây viêm kế phát đến tim, gan,
thận, lách.
<b>6.8.4. Triệu chứng </b>
<i><b>a. Triệu chứng tồn thân </b></i>
Con vật ăn kém hoặc khơng ăn, mệt mỏi, khát nước. Khi bệnh trở nên kịch phát con
<i><b>b. Triệu chứng cục bộ </b></i>
Con vật ỉa chảy nặng, phân lỏng như
nước, màu đen, thối khẳm, có khi lẫn cả máu
tươi, màng giả (do lớp niêm mạc ruột bong
tróc), số lần đi ỉa trong ngày nhiều (hình 6.10).
Ở chó và lợn cịn có hiện tượng nơn mửa.
Do ỉa chảy mạnh, cơ thể bị mất nước và
chất điện giải. Do vậy, trên lâm sàng thấy hố
mắt trũng sâu, khoé mắt có rử, niêm mạc mắt
hơi vàng, da khơ, mất đàn tính, lơng xù. Khi ỉa
chảy nhiều, đến giai đoạn cuối cơ vịng hậu
mơn bị liệt nên phân tự động chảy ra ngoài,
con vật nằm liệt, thân nhiệt hạ, sau đó con vật chết.
<i><b>c. Triệu chứng phi lâm sàng </b></i>
- Kiểm tra nước tiểu có albumin niệu, lượng nước tiểu giảm, tỷ trọng nước tiểu tăng.
- Kiểm tra máu thấy số lượng hồng cầu, hàm lượng hemoglobin tăng, tỷ lệ bạch cầu
đa nhân trung tính tăng.
<b>6.8.5. Bệnh tích </b>
Trường hợp viêm ruột xuất huyết, trên vách ruột có các điểm hoặc vệt xuất huyết,
phân màu đỏ hoặc đen.
Nếu viêm thể màng giả, trên bề mặt ruột phủ lớp fibrin.
Viêm hoá mủ trên mặt niêm mạc phủ lớp màu vàng. Trên lâm sàng gia súc bị viêm
dạ dày và ruột, niêm mạc ruột bị lóc ra từng mảng dài, màu trắng, xanh, dính, nhầy, theo
phân ra ngồi, ở trâu bị dạ múi khế bị xuất huyết nặng, dọc đường ruột xuất huyết. Chất
chứa trong ruột nát như bùn đen.
<b>6.8.6. Tiên lượng </b>
Viêm ở mức độ nhẹ, bệnh kéo dài từ 1 - 2 tuần. Nếu chữa tích cực bệnh có thể khỏi
nhưng gia súc hồi phục rất lâu và hay chuyển sang giai đoạn mạn tính.
Viêm ở thể nặng con vật chết sau 2 - 3 ngày. Nếu bệnh gây nên do nguyên nhân
trúng độc con vật chết sau 24 giờ.
<b>6.8.7. Chẩn đoán </b>
Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh:
<i>Viêm ruột thể cata cấp tính</i>: Triệu chứng toàn thân nhẹ, chủ yếu là trở ngại cơ năng
vận động và tiết dịch sinh ra ỉa chảy. Điều trị kịp thời và hộ lý tốt thì con vật khỏi sau
đó hồi phục nhanh.
<i>Hội chứng đau bụng</i>: Triệu chứng lâm sàng giống viêm dạ dày - ruột nhưng con vật
khơng sốt, khơng có triệu chứng toàn thân rõ rệt, hiện tượng đau bụng thể hiện rõ.
<i>Suy tim cấp và viêm ngoại tâm mạc</i>: Bệnh này do máu ứ lại ở tĩnh mạch nên gây
viêm dạ dày, ruột, song bệnh có triệu chứng ứ huyết toàn thân và phù.
<i>Một số bệnh truyền nhiễm gây viêm dạ dày - ruột</i>: bệnh nhiệt thán, tụ huyết trùng,
<b>6.8.8. Điều trị </b>
Ngun tắc điều trị: bổ sung nước, chất điện giải và tăng cường thể lực cho con vật.
thải trừ chất chứa trong dạ dày, ruột, bảo vệ niêm mạc đường tiêu hố, ức chế sự lên
men để đề phịng trúng độc.
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Khi bệnh mới phát, cho gia súc nhịn ăn 1 - 2 ngày, sau đó cho ăn thức ăn dễ tiêu.
Cho gia súc uống nước tự do (tốt nhất uống nước điện giải).
- Thu dọn phân và chất thải, tẩy uế chuồng trại
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
<i>Thải trừ chất chứa trong ruột: </i>Dùng thuốc tẩy muối (magie sulfat, hoặc natri sulfat)
<i>Dùng Natri bicarbonat 2% để thụt rửa ruột </i>
<i>Dùng thuốc bảo vệ niêm mạc ruột: </i>Cho uống nước cháo gạo nếp (sau khi uống
thuốc rửa ruột) mỗi lần 2 - 3 lít, ngày uống 3 - 4 lần, hoặc dùng Natri bromua 40 - 50g
trộn vào cháo hoặc cho uống. Trong trường hợp ỉa chảy lâu ngày và không phải mắc
bệnh truyền nhiễm, cho con vật uống tanin (ngựa, bò từ 5 - 20g, lợn từ 2 - 5g, chó từ 0,1
- 0,5g) hồ với nước cho uống. Hoặc dùng các cây có chứa chất chát như búp sim, búp
ổi, quả hồng xiêm xanh sắc đặc cho uống.
<i>Dùng thuốc để ức chế lên men trong dạ dày và ruột: <b>cho uống Ichthyol (ngựa: 10 - </b></i>
15g; trâu bò: 10 - 20g; lợn: 0,5 - 1g).
<i>Dùng kháng sinh để diệt vi khuẩn bội nhiễm đường ruột: </i>Có thể dùng một trong các
loại kháng sinh:
- Sulfaguanidin: đại gia súc 20 - 40g; dê cừu 1 - 3g; chó 0,5 - 1g.
- Streptomycin: 20 - 30mg/kg TT. Cho uống ngày 2 lần.
- Kanamycin: 20 - 30mg/kg TT. Cho uống ngày 2 lần.
- Gentamycin: trâu bị 5 - 10mg/kg TT; lợn, chó 10mg/kg TT. Tiêm liên tục 3 - 4 ngày.
- Neomycin: 25 - 50mg/kg TT. Cho uống ngày 1 lần
- Enrofloxacin, Norcoli
<i>Dùng thuốc giảm tiết dịch và co thắt dạ dày, ruột: </i>
- Dùng nước ấm thụt ruột.
- Dùng atropin sunfat 0,1%: đại gia súc 10 - 15ml/con; tiểu gia súc 5 - 10ml/con;
lợn, chó 1 - 3ml. Tiêm bắp ngày 1 lần.
<i><b>6.9. VIÊM RUỘT CATA CẤP (Enteritis catarrhalis acuta) </b></i>
<b>6.9.1. Đặc điểm </b>
<b>Quá trình viêm xảy ra trên lớp biểu mô của vách ruột, làm ảnh hưởng đến nhu động </b>
<b>và hấp thu của ruột. Trong ruột viêm chứa nhiều dịch nhầy, tế bào biểu mơ ở vách ruột </b>
bong tróc, bạch cầu xâm nhiễm, những thức ăn chưa kịp tiêu hoá, cùng với các sản
phẩm phân giải kích thích vào vách ruột làm tăng nhu động sinh ra ỉa chảy.
Tùy theo vị trí viêm ở ruột mà triệu chứng ỉa chảy xuất hiện sớm hay muộn. Tùy
theo loại thức ăn mà tính chất viêm khác nhau (viêm thể toan, viêm thể kiềm).
Nếu bệnh khơng nặng lắm thì triệu chứng tồn thân khơng rõ ràng. Nếu bệnh nặng
thì tồn thân suy nhược, con vật sốt nhẹ.
<b>6.9.2. Nguyên nhân </b>
- Do chất lượng thức ăn kém, thay đổi thức ăn đột ngột. Do đó làm ảnh hưởng tới
tiêu hố của con vật.
- Do thời tiết, khí hậu thay đổi đột ngột, hoặc gia súc bị lạnh đột ngột.
- Do gia súc bị ngộ độc bởi các loại hoá chất, thuốc trừ sâu.
- Do kế phát từ một số bệnh (như bệnh dịch tả, tụ huyết trùng, phó lao, sán lá gan,
sán lá ruột, viêm gan, tắc dạ lá sách,...).
<b>6.9.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Những nhân tố bên ngoài hay bên trong cơ thể tác động vào hệ thống nội thụ cảm
của ruột, sẽ làm trở ngại tới cơ năng vận động và tiết dịch của ruột tạo điều kiện thuận
lợi cho những hệ vi sinh vật trong ruột phát triển, làm tăng cường quá trình lên men và
thối rữa ở ruột. Loại vi khuẩn lên men chất
bột đường sinh ra nhiều axit hữu cơ và axit
acetic, axit axeto acetic và hơi (như CH4,
CO2, H2,…). Các loại vi khuẩn phân giải
protit sinh ra Indol, Scatol, Phenol, H2S,
NH3 và các amino axit. Từ sự lên men và
thối rữa đó làm thay đổi độ pH ở trong ruột
gây trở ngại về tiêu hoá và hấp thu ở trong
ruột. Những chất phân giải trong quá trình
Trong quá trình viêm các kích thích lý
hố ở trên sẽ gây nên viêm, niêm mạc ruột
sung huyết, thoái hoá, cơ năng tiết dịch tăng, đồng thời cộng với dịch thẩm xuất tiết ra
trong quá trình viêm làm cho nhu động ruột tăng, con vật sinh ra ỉa chảy. Do ỉa chảy
con vật rơi vào tình trạng mất nước và chất điện giải, máu đặc lại gây hiện tượng toan
huyết làm cho bệnh trở nên trầm trọng.
<b>6.9.4. Triệu chứng </b>
Con vật ăn kém, uể oải, khát nước, không sốt hoặc sốt nhẹ, giai đoạn đầu nhu động
ruột giảm, con vật ỉa phân táo, giai đoạn sau nhu động ruột tăng, con vật ỉa chảy (hình
6.11). Tính chất bệnh lý tùy theo vị trí viêm trên ruột.
<i><b>a. Nếu viêm ruột non </b></i>
Nhu động ruột non tăng, trong ruột óc ách như nước chảy. Nếu trong ruột chứa đầy
hơi, khi nhu động ruột mạnh sẽ thấy âm kim khí, khi ruột co giật sinh chứng đau bụng.
Nếu quá trình viêm chưa lan xuống ruột già thì hiện tượng ỉa chảy chưa xuất hiện. Sau
viêm từ 2 - 3 ngày mới xuất hiện ỉa chảy.
<i><b>b. Nếu viêm ruột già </b></i>
Nhu động ruột tăng, nghe như tiếng sấm, gia súc ỉa chảy, phân nhão như bùn, hoặc
loãng như nước, trong chứa những mảnh thức ăn chưa tiêu hoá, phân lẫn dịch nhày,
khắm và tanh, gia súc hay đánh rắm,
phân dính vào hậu mơn, kheo chân và
đuôi. Gia súc ỉa chảy lâu ngày thì bụng
hóp, mắt trũng, lơng xù, da thơ, cơ vịng
hậu mơn bị liệt, phân tự do chảy ra
ngoài.
<i><b>c. Nếu viêm trực tràng và tiểu kết </b></i>
<i><b>tràng </b></i>
Con vật thường có triệu chứng đi
kiết, con vật luôn muốn đi ỉa nhưng mỗi
lần đi chỉ có một ít phân, trong phân có
dịch nhày, lỗ hậu mơn mở rộng hay lịi ra (hình 6.12).
<i><b>d. Nếu viêm ruột cata toan tính </b></i>
Con vật ăn uống không thay đổi nhiều, gia súc dễ mệt khi lao tác nặng, hay vã mồ
hôi, nhu động ruột tăng, đi ỉa nhiều lần, phân loãng, chua, thối, đánh rắm kêu nhưng
không thối.
<i><b>e. Nếu viêm cata kiềm tính </b></i>
Con vật giảm ăn, lơng dựng, da giảm đàn tính, có khi nhiệt độ hơi lên cao. Gia súc
mệt mỏi, đi loạng choạng, nhu động ruột giảm, khi ỉa chảy phân có màu đen xạm, mùi
thối rữa. Trong nước tiểu lượng Indican tăng. Khi ỉa chảy kéo dài thì con vật mất nước
nhiều, mất chất điện giải → hố mắt con vật trũng sâu, con vật có triệu chứng nhiễm độc,
<b>6.9.5. Tiên lượng </b>
Bệnh ở thể nguyên phát, sau khi chất chứa trong ruột thốt ra ngồi 2 - 3 ngày sau
con vật sẽ khỏi, con vật khỏi hẳn sau 5 - 6 ngày.
Bệnh nặng, con vật ỉa chảy kéo dài, cơ thể mất nước, chất điện giải, cơ thể nhiễm
độc, con vật thường chết sau 1 - 2 tuần mắc bệnh. Trường hợp ỉa chảy cấp chỉ khoảng
3 - 4 ngày là con vật chết.
<b>6.9.6. Chẩn đoán </b>
Cần nắm được những đặc điểm của bệnh: bệnh thường sinh ỉa chảy, nhu động ruột
tăng, con vật không sốt hoặc sốt nhẹ, con vật vẫn ăn uống bình thường hoặc giảm ăn.
Để điều trị có hiệu quả cần phân biệt viêm ruột cata toan tính hay kiềm tính: Lấy 2 -
3 gam phân cho vào ống nghiệm, hoà lỗng phân với ít nước (5 - 10ml), dùng đũa thuỷ
tinh đánh tan, ghi lại màu sắc của phân, sau đó dùng giấy quỳ để đo độ pH, rồi nút chặt
lại, để ống nghiệm vào tủ ấm từ 5 - 6 giờ lấy ra quan sát. Nếu viêm ruột cata toan tính
thì nước phân trong, ngược lại nếu viêm thể kiềm thì nước phân đục.
Cần chẩn đoán phân biệt với những bệnh sau:
<i>Viêm dạ dày - ruột:</i> triệu chứng toàn thân rõ ràng, con vật ủ rũ, mệt mỏi, ỉa chảy
mạnh, phân có màng giả, mạch nhanh, thân nhiệt cao, niêm mạc hồng đản, có triệu
<i>chứng nhiễm độc toàn thân, triệu chứng thần kinh rõ, </i>
<i><b>Trường hợp ruột kinh luyến và các loại đau bụng khác: </b></i>phải điều tra nguyên nhân
<i>gây bệnh và chẩn đoán hội chứng đau bụng. </i>
<i>Viêm cơ tim và viêm ngoại tâm mạc:</i> do suy tim làm cho tĩnh mạch cửa ứ huyết gây
<i>nên triệu chứng đường ruột (nên khi chẩn đốn phải có hệ thống). </i>
<i><b>C¸c bƯnh trun nhiÔm: phã lao, Colibacilosis, phã thơng hàn. Vỡ vy cn chn </b></i>
<i>oỏn về vi trùng học. </i>
<i>Các bệnh kí sinh trùng: </i>huyết bào tử trùng, tiên mao trùng cũng gây nên viêm ruột
<i>thể cata. Vì vậy cần chẩn đốn về kí sinh trùng học. </i>
<b>6.9.7. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Khi bệnh mới phát, để gia súc nhịn đói 1 - 2 ngày sau đó cho ăn thức ăn dễ tiêu.
Nếu viêm ruột cata toan tính cho con vật ăn nhiều thức ăn thô xanh. Nếu viêm ruột cata
kiềm tính cho co vật ăn thức ăn ủ xanh, cháo gạo, ngô.
Cho con vật nghỉ ngơi (đối với gia súc cày kéo), chuồng trại sạch sẽ, khô ráo và
thống mát.
Chườm nóng vùng bụng (dùng cám rang hoặc tro nóng cho vào bao tải quấn quanh bụng).
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
<i>Thải trừ chất chứa trong ruột: </i>Dùng Na2SO4 hoặc MgSO4 (trâu, bò, ngựa 300 -
500g; dê, cừu, bê, nghé 50 - 100g; lợn 25 - 50g; chó 10 - 20g) hòa nước cho uống 1 lần
trong cả quá trình điều trị.
Ức chế quá trình lên men và thối rữa trong ruột
Thuốc Trâu, bị, ngựa Dê, cừu, bê nghé Chó, lợn
Ichthyol 25 - 50g 5 - 10g 3 - 5g
Hoà thành dung dịch 1 - 2% cho uống ngày 1 lần
Dùng thuốc giảm dịch tiết ở ruột và co thắt ruột (bột than hoạt tính)
Đại gia súc Bê, nghé, dê, cừu Chó, Lợn
250 - 300g 20 - 30g 5 - 10g
Cho gia súc uống ngày một lần.
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó, lợn
Atropin sulfat 0,1% 15ml 10ml 1 - 3ml
Tiêm bắp ngày một lần.
<i><b>Chú ý: Đối với trường hợp mà nguyên nhân gây bệnh không phải là truyền nhiễm </b></i>
thì khi tẩy chất chứa trong ruột rồi dùng axit tanic cho uống để làm se niêm mạc ruột:
ngựa (5 - 10g); bò (10 - 25g); bê nghé cừu dê (3,5 - 5g); chó (0,1 - 0,5g). Có thể dùng
các loại lá có chất chát sắc cho uống.
Bổ sung nước, chất điện giải và trợ sức, trợ lực cho cơ thể
Dùng thuốc chống nhiễm khuẩn đường ruột.
<b>6.10. VIÊM RUỘT CATA MẠN TÍNH (Enteritis catarrhalis chronica) </b>
<b>6.10.1. Đặc điểm </b>
Do niêm mạc ruột bị viêm lâu ngày làm thay đổi cấu trúc niêm mạc ruột (niêm mạc
tăng sinh, các tuyến ruột teo) → trở ngại đến cơ năng tiết dịch và vận động của ruột.
Hậu quả, gây rối loạn tiêu hóa, trên lâm sàng thấy con vật ỉa chảy xen kẽ với táo bón
kéo dài).
Bệnh thường xảy ra đối với trâu, bò và ngựa.
<b>6.10.2. Nguyên nhân </b>
Bệnh rất ít khi ở thể nguyên phát, thường là kế phát từ viêm cata cấp tính (đặc biệt
đối với ngựa). Nguyên nhân gây bệnh giống như viêm cata cấp tính nhưng tính kích
thích của bệnh nguyên dài hơn.
Do gia súc mắc một số bệnh truyền nhiễm, kí sinh trùng mạn tính, bệnh nội khoa.
<b>6.10.3. Cơ chế phát bệnh </b>
niêm mạc ruột bị loét hay thành sẹo), làm giảm nhu động ruột → sinh ra táo bón. Khi
thức ăn trong ruột tích lại lâu thường lên men và kích thích vào niêm mạc ruột, làm tăng
tiết dịch và nhu động ruột → gây ỉa chảy. Vì vậy, trong q trình bệnh con vật có hiện
tượng táo bón, ỉa chảy xuất hiện xen kẽ có tính chu kỳ và kéo dài. Bệnh kéo dài, con vật
suy dinh dưỡng, thiếu máu, kiệt dần rồi chết.
<b>6.10.4. Triệu chứng </b>
Con vật ăn uống thất thường, mệt mỏi, kém tiêu hoá, lúc ỉa chảy, lúc táo bón, bụng
thường hóp nhưng có lúc lại sinh chướng hơi ruột, dạ cỏ hay chướng hơi nhẹ (đối với
trâu, bị). Ngựa đơi khi có hiện tượng đau bụng.
Triệu chứng tồn thân khơng rõ ràng, bệnh nặng con vật bị suy dinh dưỡng, thiếu
<b>máu, ngày một gầy dần, niêm mạc trắng bệch hoặc hơi vàng, con vật bị suy tim có thể </b>
gây phù ở bốn chân và bụng, sau đó suy kiệt rồi chết (hình 6.13).
<b>6.10.5. Tiên lượng </b>
Bệnh kéo dài hàng tháng hoặc hàng
năm, rất khó điều trị.
<b>6.10.6. Chẩn đoán </b>
Căn cứ vào hiện tượng ỉa chảy kéo dài
(ỉa chảy xen kẽ với táo bón), con vật gầy
dần.
Khi chẩn đoán chú ý phân biệt với một
số bệnh truyền nhiễm mạn tính, bệnh gan
mạn tính, bệnh về trao đổi chất, bệnh ký
sinh trùng, cần chú ý cả bệnh mềm xương của ngựa cũng kế phát bệnh này.
<b>6.10.7. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Điều chỉnh khẩu phần ăn (cho ăn những loại thức ăn dễ tiêu hố và kích thích tiết
dịch, chia lượng ăn làm nhiều bữa). Tăng cường hoạt động đối với con vật bệnh.
- Chăm sóc ni dưỡng gia súc tốt, chuồng trai sạch sẽ và thoáng.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Dùng thuốc điều trị nguyên nhân chính.
- Dùng thuốc thải trừ chất chứa trong ruột:
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó, lợn
MgSO4 300g/con 100 - 200g/con 10 - 20g/con
Hòa với nước cho uống
- Dùng thuốc kích thích tiêu hóa
+ Đối với với đại gia súc cho uống axit clohydric loãng 1% hoặc rượu.
+ Đối với lợn cho uống men tiêu hóa (Biosubtil hoặc Subtil) cùng với Becberin.
- Dùng thuốc điều trị triệu chứng (ở thời kỳ táo bón dùng thuốc nhuận tràng, ở thời
kỳ ỉa chảy cho uống thuốc cầm ỉa chảy).
- Dùng thuốc trợ sức trợ lực, tăng cường giải độc và sức đối kháng cho cơ thể
Thuốc Đại gia súc (ml) Tiểu gia súc (ml) Chó, lợn (ml)
Glucoza 20% 1000 - 2000 500 150 - 400
Cafeinnatribenzoat 20% 10 - 15 5 - 10 1 - 3
Canxi clorua 10% 50 - 70 30 - 40 5 - 10
Urotropin 10% 50 - 70 30 - 50 10 - 15
Vitamin C 5% 15 10 5
<i>Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần. </i>
- Dùng thuốc làm se niêm mạc ruột và diệt vi khuẩn bội nhiễm
<i><b>6.11. CHỨNG KHÔNG TIÊU CỦA GIA SÚC NON (Dispepsia) </b></i>
<b>6.11.1. Đặc điểm </b>
Đây là bệnh kém tiêu hoá của dạ dày và ruột ở gia súc non. Bệnh thường gặp nhất là
bệnh ỉa phân trắng của lợn con và bê nghé.
Bệnh được chia làm hai thể: thể đơn giản mang tính chất viêm cata thông thường và
thể nhiễm độc do kế phát các vi trùng có sẵn trong đường ruột gây nên.
<b>6.11.2. Nguyên nhân </b>
<i><b>a. Do bản thân gia súc non </b></i>
- Do sự phát dục của bào thai kém.
- Do những đặc điểm sinh lý bộ máy tiêu hoá của gia súc non như dạ dày và ruột
của lợn con trong 3 tuần đầu chưa có khả năng tiết dịch vị, thức ăn trực tiếp kích thích
vào niêm mạc mà tiết dịch, trong dịch vị chưa có HCl, hàm lượng và hoạt tính của men
pepsin rất ít.
- Do hệ thống thần kinh của gia súc non chưa ổn định nên kém thích nghi với sự
thay đổi của ngoại cảnh.
<i><b>b. Do gia súc mẹ </b></i>
- Không được nuôi dưỡng đầy đủ khi mang thai.
- Trong thời gian nuôi con không được chăm sóc ni dưỡng tốt hoặc bị bệnh.
- Cho ăn nhiều thức ăn khó tiêu.
- Gia súc mẹ động dục.
<i><b>c. Do ngoại cảnh </b></i>
- Do vệ sinh kém, gia súc non ít được vận động và tắm nắng.
- Do vi trùng xâm nhập.
- Do nhiễm ký sinh trùng.
- Trong những nguyên nhân kể trên thì yếu tố chăm sóc, ni dưỡng đóng vai trị
quyết định.
<i><b>Chú ý: đối với bê nghé còn do nguyên nhân nhiễm giun đũa. </b></i>
<b>6.11.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Khi bị bệnh, đầu tiên dạ dày giảm tiết dịch vị, nồng độ HCl giảm, làm giảm khả
năng diệt trùng và khả năng tiêu hoá protit. Khi độ kiềm trong đường tiêu hoá tăng cao
tạo điều kiện cho các loại vi khuẩn trong đường ruột phát triển mạnh, làm thối rữa các
chất chứa trong đường ruột và sản sinh nhiều chất độc. Những sản phẩm trên kích thích
vào niêm mạch ruột làm tăng nhu động, con vật sinh ra ỉa chảy. Khi bệnh kéo dài, con
vật bị mất nước (do ỉa chảy) gây nên rối loạn trao đổi chất trong cơ thể như nhiễm độc
toan hoặc mất cần bằng các chất điện giải, làm cho bệnh trở nên trầm trọng, gia súc có
thể chết.
<b>6.11.4. Triệu chứng </b>
<i><b>a. Lợn con ỉa phân trắng </b></i>
Lợn con từ 5 - 25 ngày tuổi dễ mắc
bệnh. Trong 1 - 2 ngày đầu mắc bệnh,
lợn vẫn bú và chạy nhảy như thường.
<i><b>b. Bê nghé ỉa phân trắng </b></i>
Bê nghé thường mắc bệnh này sau khi sinh ra 10 - 15 ngày, thậm chí cịn sớm hơn.
Con vật đi ỉa phân lỏng mùi chua nhưng vẫn bú và đi lại được. Sau vài ngày con vật
biểu hiện rõ triệu chứng toàn thân như: sốt 40 - 410<sub>C, giảm ăn, thích nằm, phân lỏng, có </sub>
màu hơi xanh, mùi tanh khắm, bụng chướng to, thở nông và nhanh, tim đập nhanh và
yếu. Bệnh nặng gia súc có thể bị hôn mê, nhiệt độ hạ dần rồi chết (hình 6.15).
<b>6.11.5. Điều trị </b>
Nguyên tắc điều trị: sớm và tích cực
<i><b>a. Bệnh lợn con ỉa phân trắng </b></i>
<i>* Hộ lý: </i>
Khi lợn mới mắc bệnh cần hạn chế bú
mẹ, có điều kiện thì tách riêng lợn bị bệnh
để theo dõi và điều trị bệnh. Kiểm tra lại vệ
sinh chuồng trại và chế độ chăm sóc, chú ý
<i>* Dùng thuốc điều trị: </i>
<i>Dùng thuốc làm se niêm mạc ruột: </i>cho uống các chất có tanin để làm se niêm mạc
<i>ruột và diệt khuẩn như nước lá ổi, quả hồng xiêm xanh, bột tanin, búp sim,... </i>
<i>Dùng kháng sinh diệt vi khuẩn bội nhiễm </i>(dùng một trong các loại kháng sinh sau).
- Cho uống sulfaguanidin 0,5 - 1 g/con/ngày.
- Neomycin cho uống 25 - 50 mg/kg TT/ngày, cho uống liên tục 3 - 4 ngày.
- Spectam tiêm bắp 25 mg/kg TT 2 lần/ngày, liên tục 3 ngày.
- Norfloxacin, Enrofloxacin,...
<i>Dùng thuốc điều chỉnh sự cân bằng hệ vi sinh vật trong đường ruột:</i> Cho uống canh
trùng B. subtilis hoặc Biosubtil hoặc chế phẩm sinh học.
<i><b>b. Bệnh bê nghé ỉa phân trắng </b></i>
<i>* Hộ lý: </i>
Cách ly riêng những con bệnh, hạn chế cho bú (thậm chí bắt nhịn bú từ 8 - 12 giờ)
cho uống nước đường pha muối hoặc dung dịch orezol.
<i>* Dùng thuốc điều trị: </i>
<i>Dùng thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn đường ruột:</i>
- Sulfaguanidin 0,1 - 0,2g/kg TT, uống 2 - 3 lần trong ngày, liên tục 3 - 5 ngày.
<i>Dùng thuốc tăng cường trợ sức, trợ lực. </i>
Thuốc Liều lượng
Glucoza 20% 300 - 400ml
Cafeinnatribenzoat 20% 5 - 10ml
Canxi clorua 10% 30 - 40ml
Urotropin 10% 30 - 50ml
Vitamin C 5% 10ml
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.
<i> Trường hợp bê nghé ỉa phân trắng do giun đũa: dùng thuốc tẩy giun </i>
<b>6.11.6. Phòng bệnh </b>
- Chú ý phòng chống lạnh, ẩm và bẩn cho gia súc non.
Thận là một cơ quan có vai trị quan trọng
bậc nhất để đảm bảo sự hằng định của môi
trường bên trong cơ thể. Đơn vị về mặt tổ chức
học cũng như để thực hiện chức năng sinh lý của
thận là Nephron. Cơ chế hoạt động tạo thành
<b>7.1.1. Chức năng lọc </b>
Đây là một chức năng quan trọng của thận,
đào thải từ máu tất cả các chất không cần thiết và
các chất độc đối với cơ thể, như các sản phẩm
cuối cùng của các chuyển hóa (đặc biệt là của chuyển hóa protein), các muối, các thuốc,
các chất màu, chất độc,... giữ lại các chất như protein, lipit, gluxit.
<b>7.1.2. Chức năng điều chỉnh sự hằng định các thành phần của máu, giữ vững pH máu </b>
- Điều hòa cân bằng kiềm - toan.
- Điều hòa sự hằng định áp lực thẩm thấu của máu.
- Điều hòa sự hằng định của thành phần máu.
- Để thực hiện chức năng này thận đào thải một cách có chọn lọc các chất cần đào
thải và giữ lại ở cơ thể các chất cần thiết, đảm bảo sự hằng định các thành phần máu.
<b>7.1.3. Chức năng cơ đặc và hịa lỗng </b>
Tùy thuộc vào nhu cầu của cơ thể mà thận có thể cơ đặc hoặc hịa lỗng nước tiểu.
Thứ nhất bằng cách tái hấp thu và bài tiết, đào thải số lượng nước không cần thiết ra
nước tiểu và giữ lại lượng nước cần cho nhu cầu của cơ thể.
<b>7.1.4. Chức năng đối với chuyển hóa </b>
Để thực hiện các nhiệm vụ sinh lý của thận, ở thận xảy ra nhiều q trình chuyển
hóa phục vụ cho nhu cầu bản thân thận và các chức năng mà thận phải đảm bảo: điều
hịa chuyển hóa muối - nước, tạo amoniac và thải các muối amon, chuyển hóa các chất
sinh màu, tham gia tạo axit hypuric và thải axit hypuric, cùng với gan tạo creatin và
chuyển hóa creatin. Đặc biệt ở tế bào ống còn xảy ra một cách mạnh mẽ sự chuyển hóa
của các chất gluxit, lipit, protein nhờ hệ thống men phong phú ở thận (các men của vòng
Krebs, các men phosphataza, men glucoronidaza, men glutaminaza,...).
<b>7.1.5. Tham gia điều chỉnh các áp lực động mạch </b>
Cần nêu lên là ở các nhóm tế bào nhỏ ở vùng đoạn xa của ống lượn, ở tổ chức đệm
của tiểu cầu, động mạch đến và đi có tạo ra renin, là một chất nội tiết bản chất là một
protein có hoạt động của một men proteaza biến hypertensinogen (là một globulin)
thành hypertensin có tác dụng gây co mạch, qua đó ảnh hưởng tới huyết áp.
<b>7.1.6. Tham gia việc tạo máu </b>
Bằng một hormon khác được tổng hợp ở thận là Erythropoietin thuộc loại
mucoprotein có tác dụng kích thích tủy xương tạo máu.
<b>7.2. NHỮNG TRIỆU CHỨNG KHI THẬN BỊ BỆNH </b>
Bệnh của thận thường biểu hiện những hiện tượng sau:
<b>7.2.1. Protein niệu </b>
Trong quá trình thận mắc bệnh, vách mao quản của thận bị thoái hoá, tính thẩm thấu
tăng lên, làm cho các chất có phân tử lớn như protein cũng có thể thấm qua được.
Protein niệu còn do các trụ niệu thải ra theo nước tiểu như trụ thượng bì, trụ hồng cầu,
trụ hạt,... trong trường hợp protein niệu giả thì protein ra ngoài theo nước tiểu là sản phẩm
<b>7.2.2. Huyết niệu </b>
Do thận bị xuất huyết (cần phân biệt với các trường hợp do kế phát từ các bệnh
truyền nhiễm hoặc do viêm xuất huyết ở niệu đạo, bàng quang hay đường sinh dục).
<b>7.2.3. Cao huyết áp </b>
Đây là triệu chứng thường thấy khi bị viêm thận. Khi thận không được cung cấp
máu đầy đủ sẽ hình thành một chất globin gọi là renin, nó kết hợp với một protein đặc
biệt trong huyết tương là hypertensinogen để tạo thành hypertensin, chất này có tác
dụng làm co các mao quản → gây cao huyết áp.
<b>7.2.4. Ure huyết </b>
<i>Ure huyết trước thận</i> là do bệnh ở ngoài thận gây nên như khi bị nôn mửa, ỉa chảy
kéo dài, làm cho cơ thể mất nước, máu cô đặc lại, áp lực keo trong máu tăng làm trở
ngại cho quá trình siêu lọc trong quản cầu thận gây nên. Ure huyết loại này còn gặp
trong trường hợp đái đường hay rối loạn tuần hoàn do nhiễm trùng.
<i>Ure huyết sau thận</i> do gia súc bị tắc niệu quản, bàng quang, niệu đạo làm cho gia
súc không đi tiểu được, ure trong nước tiểu ngấm vào máu làm cho gia súc trúng độc,
nếu không can thiệp kịp thời con vật sẽ chết.
<b>7.2.5. Phù thũng </b>
Do cơ năng thải nước tiểu của thận bị trở ngại, các muối khoáng, nhất là Na +<sub> giữ lại </sub>
trong tổ chức làm cho nước hấp thu vào đó. Mặt khác do hậu quả của albumin niệu làm
giảm áp lực keo của máu gây hiện tượng thoát tương dịch gây phù tồn thân hoặc tích
nước ở xoang ngực và xoang bụng.
<b>7.2.6. Suy thận </b>
Trong quá trình viêm, một số các tiểu cầu thận bị phá hoại nên cơ năng bài tiết của
thận bị trở ngại. Hậu quả của suy thận là mất khả năng duy trì độ pH của máu, nên gia
súc dễ bị trúng độc toan hoặc kiềm. Chất cặn azot tích lại trong máu.
<i><b>7.3. VIÊM THẬN CẤP TÍNH (Nephritis acuta) </b></i>
<b>7.3.1. Đặc điểm </b>
Quá trình viêm ở tiểu cầu thận, hoặc tổ chức kẽ thận của tiểu cầu thận. Tiểu cầu
thận bị dịch rỉ viêm thâm nhiễm.
Bệnh gây ảnh hưởng tới quá trình siêu lọc của thận dẫn đến phù (do tích nước, muối
ở tổ chức) và gây nhiễm độc đối với cơ thể (do các sản phẩm trong quá trình trao đổi
chất khơng thải ra ngồi được).
Bệnh ít khi gặp ở thể nguyên phát, thường là kế phát từ các bệnh khác
<b>7.3.2. Nguyên nhân </b>
<i>Do kế phát từ một số bệnh: </i>
- Kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh dịch tả lợn, đóng dấu lợn, tụ huyết
<i>trùng, nhiệt thán, lở mồm long móng). </i>
<i>- Kế phát từ một số bệnh ký sinh trùng đường máu (tiên mao trùng, biên trùng) </i>
<i>- Kế phát từ một số bệnh nội khoa (bệnh viêm dạ dày ruột, viêm gan, suy tim,...). </i>
<i>Do vi trùng từ các ổ viêm</i> khác trong cơ thể đến thận gây viêm (từ viêm nội tâm
mạc, ngoại tâm mạc, viêm phổi,...).
<b>7.3.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Do những kích thích của bệnh nguyên gây rối loạn thần kinh trung khu, làm ảnh
hưởng tới cơ năng của thần kinh vận mạch, các mao quản toàn thân sinh ra co thắt, nhất là
thận sẽ làm giảm tính thẩm thấu mao quản thận, các chất độc tích lại trong tiểu cầu thận
gây nên viêm.
Khi tiểu cầu thận bị viêm, lớp tế bào nội bì sưng và tróc ra, tế bào bạch cầu thâm
nhiễm, mao quản cầu thận co thắt làm cho lượng nước tiểu giảm sinh ra ure huyết gây nên
trúng độc.
Do sự co thắt mạch quản, chất renin được sản sinh nhiều, kết hợp với
hypertensinogen trong huyết tương thành hypertensin làm cao huyết áp. Sự thải nước
tiểu bị trở ngại, muối NaCl tích lại trong tổ chức gây nên phù toàn thân. Trong nước tiểu
có albumin, tế bào thượng bì, hồng cầu, bạch cầu và trụ niệu.
<b>7.3.4. Triệu chứng </b>
Bệnh ít khi gặp ở thể nguyên phát,
thường là kế phát từ các bệnh khác, khi
mắc bệnh con vật thường có các triệu
chứng:
- Gia súc sốt cao, toàn thân bị ức chế,
bỏ ăn và đau ở vùng thận làm cho con vật
đi đái khó khăn, lưng cong. Khi sờ vào
vùng thận con vật có phản ứng đau.
- Con vật đi tiểu nhiều ở thời kỳ đầu
(đa niệu), giai đoạn sau đi tiểu ít (thiểu
- Hàm lượng ure tăng cao trong máu
gây nhiễm độc, làm cho con vật bị hôn
mê, co giật, nôn mửa, ỉa chảy.
- Xét nghiệm nước tiểu có protein
niệu, huyết niệu, trụ niệu và tế bào biểu
mô tiểu cầu thận.
- Trong máu, số lượng bạch cầu tăng,
tỷ lệ bạch cầu trung tính tăng (nhất là tỷ lệ bạch cầu non).
<b>7.3.5. Bệnh tích </b>
Thận bị sưng, mặt thận sung huyết hoặc lấm tấm sung huyết, màng ngồi thận dễ
bóc, trong mao quản của tiểu cầu thận có protein đơng đặc, bạch cầu và ít hồng cầu. Hệ
thống nội bì sưng làm cho tiểu cầu thận phình to, tế bào thượng bì của thận tiểu quản bị
thối hố hạt và thối hố mỡ (hình 7.3).
Trong nước tiểu có trụ niệu, trụ hạt, trụ hồng cầu, trụ mỡ,..
<b>7.3.6. Chẩn đoán </b>
Căn cứ vào đặc điểm của bệnh: phù, huyết áp cao, giãn tim, thiểu niệu, albumin
<i>Cần chẩn đoán phân biệt với: </i>
<i>- Bệnh thận cấp và mạn tính:</i> Khơng đau vùng thận, hàm lượng protein trong nước
tiểu rất nhiều, trong nước tiểu có trụ niệu, khơng có hiện tượng cao huyết áp.
<i>- Bệnh viêm bể thận</i>: khơng có hiện tượng phù, không cao huyết áp, vùng thận rất
mẫn cảm, nước tiểu đục có nhiều dịch nhầy.
<i>- Sỏi thận</i>: khơng có hiện tượng sốt.
<b>7.3.7. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Cho gia súc nghỉ ngơi, không cho con vật ăn thức ăn có nhiều muối, thức ăn có
nhiều nước, thức ăn có tính chất kích thích mạnh đối với thận, hạn chế cho uống nước.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Dùng thuốc điều trị nguyên nhân chính
- Dùng kháng sinh để diệt vi khuẩn
- Dùng các thuốc lợi niệu, giải độc, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó, lợn
Glucoza 20% 1000 - 2000ml 400 - 500ml 150 - 400ml
Cafeinnatribenzoat 20% 15ml 5 - 10ml 1 - 3ml
Canxi clorua 10% 50 - 70ml 20 - 30ml 5 - 10ml
Tiêm chậm vào tĩnh mạch.
- Ngồi ra có thể cho uống nước râu ngô, bông mã đề hoặc rễ cỏ tranh.
<i><b>7.4. BỆNH THẬN CẤP TÍNH VÀ MẠN TÍNH (Nephrosis acuta et chromica) </b></i>
<b>7.4.1. Đặc điểm </b>
Quá trình viêm xảy ra ở ống thận, đây là một bệnh toàn thân, là sự tiếp diễn của quá
trình rối loạn trao đổi chất (rối loạn trao đổi protein, lipit, chất khống và nước), từ đó
gây nên sự thối hố ở mơ bào thận tiểu quản và làm rối loạn cơ năng của thận.
Bệnh còn có tên gọi là hội chứng thận hư (vì các kết quả nghiên cứu cho thấy các
triệu chứng của thận hư có thể gặp trong nhiều bệnh cầu thận tiên phát và thứ phát.
Tổn thương thận cũng đa dạng, mặc dù các biểu hiện lâm sàng và sinh hóa tương đối
giống nhau).
Triệu chứng lâm sàng và sinh hóa được đặc trưng là: protein niệu nhiều, protein
máu giảm, albumin máu giảm, lipit máu tăng, phù.
<i><b>7.4.2. Nguyên nhân </b></i>
<i><b>a. Nguyên nhân do tiên phát </b></i>
- Bệnh cầu thận tổn thương tối thiểu.
- Bệnh cầu thận mạn tính (xơ hóa cầu thận ổ, đoạn, bệnh cầu thận màng, viêm cầu
thận màng tăng sinh; các bệnh viêm cầu thận tăng sinh và xơ hóa khác).
<i><b>b. Nguyên nhân do kế phát </b></i>
- Kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm cấp tính và mạn tính gây nên (bệnh lao, cúm,
lợn đóng dấu, viêm phế mạc truyền nhiễm ở ngựa, bệnh thiếu máu truyền nhiễm).
- Do hậu quả của các chứng trúng độc (trúng độc thủy ngân và các kim loại nặng,
nấm mốc độc,...)
- Bệnh hệ thống: các chất độc của cơ thể sản sinh ra do rối loạn trao đổi chất, làm
tổn thương ống thận (chứng xeton huyết, bệnh gan, chứng đái tháo đường)
- Khi gia súc bị bỏng nặng,...
<b>7.4.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Người ta cho rằng, bệnh thận không phải bắt nguồn đầu tiên ở thận mà là bệnh của
toàn thân, dẫn đến rối loạn về tính chất lý hố thể keo trong tổ chức. Sự rối loạn đó là
biểu hiện về trở ngại trao đổi chất (trao đổi protit, lipit, nước, muối NaCl) của cơ thể và
gây ra các triệu chứng lâm sàng, sinh hóa đặc trưng:
Do giảm albumin trong máu và sự tổng hợp protein của gan không bù đắp kịp →
giảm áp lực thể keo máu gây ra phù (do nước di chuyển từ lòng mao mạch ra). Cũng do
giảm áp lực thể keo máu và rối loạn điều chỉnh tổng hợp protein đã kích thích gan tổng
hợp lipoprotein → tăng lipit máu.
Thể tích máu giảm (do thốt dịch ra tổ chức) gây hoạt hóa hệ Renin - Angiontensin
- Aldosteron và hệ thần kinh giao cảm gây tăng tái hấp thu Na+<sub>, nước của ống thận → </sub>
phù. Mặt khác những chất ứ đọng lại ở thận tiểu quản, cùng với thận tiểu quản bị sưng
sẽ làm cho gia súc bí đái và gây nên phù. Những chất độc sinh ra trong quá trình rối
loạn trao đổi chất sẽ phá hoại các cơ quan trong cơ thể và cuối cùng tập trung về thận và
<b>7.4.4. Triệu chứng </b>
<i><b>a. Bệnh nhẹ </b></i>
Trong nước tiểu có ít albumin, tế bào thượng bì thận và trụ niệu, nước tiểu có
tính toan.
<i><b>b. Bệnh nặng </b></i>
Hàm lượng protein trong nước tiểu cao (30%). Cặn nước tiểu có tế bào thượng bì
thận, nhiều loại trụ niệu (trụ trong, trụ sáp, trụ hạt,...).
<i> Trường hợp cấp tính</i>: con vật mệt mỏi, ăn ít, đái ít, lượng nước tiểu giảm và tỷ
trọng cao.
<i> Khi bệnh ở thể mạn tính:</i> lượng nước tiểu nhiều và tỷ trọng nước tiểu giảm. Gia súc
bị phù nặng ở yếm, âm nang, bốn chân, có khi tràn dịch màng phổi hoặc phúc mạc, gia
súc gầy dần hay bị rối loạn tiêu hoá.
Xét nghiệm máu và nước tiểu thấy: protein toàn phần trong máu giảm, lipit trong
máu tăng, nồng độ albumin trong máu thấp, nồng độ Na+ trong máu thấp, tốc độ lắng
máu tăng, albumin trong nước tiểu nhiều.
<b>7.4.5. Bệnh tích </b>
Ở thể nhẹ, thận không sưng hoặc hơi sưng. Trên kính hiển vi thấy tế bào ở quai
Henle sưng to thành hình trịn, ngun sinh chất có hạt, nhân tế bào to, lịng quản hẹp.
Trong trường hợp tế bào thận bị thoái hố hạt thì thận sưng to, rắn, cắt ra có màu
vàng đục.
<b>7.4.6. Tiên lượng </b>
Tuỳ theo tính chất của bệnh nguyên mà quyết định tiên lượng. Nếu bệnh nhẹ, khi
loại trị bệnh nguyên, thận sẽ hồi phục. Nếu bệnh nặng, thời gian bệnh kéo dài, thận bị
thối hố rất khó hồi phục.
<b>7.4.7. Chẩn đốn </b>
<i>Cần nắm được đặc điểm của bệnh</i>: Nước tiểu nhiều protein, có tế bào thượng bì
thận, có trụ niệu (trụ trong, trụ hạt). Gia súc bị phù nặng. Trong trường hợp bệnh thận
không ghép viêm thận thì huyết áp khơng cao và khơng bị ure huyết, albumin trong máu
giảm, protein toàn phần giảm, lipit tồn phần tăng.
Cần phải chẩn đốn phân biệt với: bệnh viêm thận cấp, bệnh viêm bể thận.
<b>7.4.8. Điều trị </b>
Nguyên tắc điều trị: Tiến hành đồng thời ba vấn đề (điều trị theo cơ chế sinh bệnh,
điều trị triệu chứng, điều trị dự phòng các biến chứng).
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Khi không bị ure huyết và chứng ure nước tiểu thì cho ăn những thức ăn có nhiều
protein để bổ sung lượng protein mất qua đường nước tiểu. Hạn chế cho uống nước khi
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Dùng thuốc điều trị nguyên nhân chính (ví dụ nếu là hậu quả của bệnh truyền
nhiễm thì dùng kháng sinh can thiệp).
- Điều trị theo cơ chế sinh bệnh (dùng thuốc ức chế miễn dịch - Prednisolon)
- Dùng thuốc lợi tiểu, giảm phù tăng sức đề kháng và sát trùng đường niệu
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó, lợn
Glucoza 20% 1000 - 2000ml 400 - 500ml 150 - 400ml
Cafeinnatribenzoat 20% 15ml 5 - 10ml 1 - 3ml
Canxi clorua 10% 50 - 70ml 20 - 30ml 5 - 10ml
Urotropin 10% 50 - 70ml 30 - 50ml 10 - 15ml
Vitamin C 5% 20ml 10ml 3 - 5ml
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.
<i><b>7.5. VIÊM BÀNG QUANG CẤP (Cystitis) </b></i>
<b>7.5.1. Đặc điểm </b>
Quá trình viêm xảy ra trên niêm mạc bàng quang và gây co thắt bàng quang, làm
cho con vật đi tiểu khó. Khi viêm bàng quang cịn làm cho q trình hình thành cuội
niệu được dễ dàng. Bệnh thường thấy ở chó, bị, ngựa, các loại gia súc khác ít gặp.
Tùy theo tính chất viêm mà bệnh có các thể: viêm cata, viêm xuất huyết, viêm
màng giả.
Tùy theo thời gian bệnh có viêm cấp tính hoặc viêm mạn tính.
- Do tác động của một số bệnh truyền nhiễm (bệnh dịch tả, phó thương hàn,...) hoặc
do tác động của các loại vi trùng sinh mủ (Staphylococcus, Streptococcus, Colibacillea,...)
những loại vi trùng này qua máu hoặc qua thận vào bàng quang, hoặc có sẵn trong bàng
quang, khi bàng quang bị tổn thương hay khi sức đề kháng của cơ thể giảm là cơ hội tốt
để vi trùng phát triển và gây bệnh.
- Do viêm thận hoặc viêm niệu quản, quá trình viêm lan xuống bàng quang.
- Ở gia súc cái bệnh hay gặp khi bị viêm tử cung hoặc âm đạo.
- Do các kích thích cơ giới (dùng ống thơng niệu đạo, do cuội niệu kích thích vào
vách bàng quang).
- Do tắc niệu đạo, nước tiểu tích lại trong bàng quang và bị phân giải tạo thành
những sản vật độc, những sản phẩm này kích thích vào niêm mạc bàng quang gây viêm.
- Do ảnh hưởng của các chất độc.
<b>7.5.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Các yếu tố gây bệnh tác động đến hệ thống nội cảm thụ của niêm mạc bàng quang
và được dẫn truyền lên thần kinh trung ương, từ đó gây nên hiện tượng sung huyết ở
niêm mạc bàng quang → viêm. Các sản phẩm tạo ra trong quá trình viêm như (tương
dịch, bạch cầu, hồng cầu, tế bào thượng bị bàng quang,…) sẽ trở thành môi trường tốt
cho vi trùng phát triển.
Những độc tố của vi khuẩn cùng với những chất phân giải của dịch viêm và sự phân
giải của nước tiểu thành amoniac kích thích vào vách niêm mạc bàng quang làm cho
bàng quang bị co thắt→ con vật đi đái dắt. Nếu cơ vòng bàng quang co thắt con vật đi
đái khó khăn.
Những chất phân giải từ bàng quang và độc tố của vi khuẩn thấm vào máu làm cho
gia súc bị nhiễm độc, gây sốt và có biểu hiện triệu chứng tồn thân.
<b>7.5.4. Triệu chứng </b>
Con vật đau bàng quang khi đi tiểu,
ln ln có động tác đi tiểu nhưng nước
tiểu ít hoặc khơng có. Con vật tỏ vẻ khơng
yên, cong lưng, đau bụng, rên rỉ. Con vật
kém ăn, uể oải, thân nhiệt tăng.
Sờ nắn bàng quang hoặc khám qua
trực tràng con vật đau đớn, bàng quang
trống rỗng. Trường hợp cơ vòng bàng
quang co thắt, nước tiểu tích đầy trong
bàng quang, lên men, có thể gây vỡ bàng
quang, gia súc thở có mùi amoniac.
Nước tiểu thay đổi: Nếu viêm cata thì nước tiểu đục, có chứa nhiều dịch nhày và
một ít protein. Nếu viêm xuất huyết, nước tiểu có máu. Nếu viêm hố mủ, nước tiểu có
mủ vàng hoặc xanh. Nếu viêm thể màng giả, nước tiểu có màng giả. Trong cặn nước
tiểu có nhiều bạch cầu, hồng cầu, tế bào thượng bì của bàng quang, màng giả, dịch nhày
và vi trùng.
Ở viêm mạn tính, triệu chứng nhẹ, hiện tượng đi tiểu khó và đau khơng rõ, gia súc
khơng sốt, bệnh kéo dài.
<b>7.5.5. Bệnh tích </b>
Niêm mạc bàng quang sưng, lấm tấm xuất huyết hay từng vệt xuất huyết, có dịch
nhầy, mủ. Bệnh ở thể nặng trên mặt bàng quang phủ một lớp màng giả, bàng quang bị
loét từng mảng.
<b>7.5.6. Tiên lượng </b>
Thể viêm cata thì tiên lượng tốt còn các thể viêm khác thì tiên lượng xấu. Viêm
bàng quang dễ dẫn tới loét hoặc hoại tử bàng quang và viêm bàng quang dẫn tới viêm
thận, bể thận, viêm phúc mạc, gây chứng bại huyết, liệt bàng quang và gia súc chết.
<b>7.5.7. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Để gia súc yên tĩnh, cho ăn những loại thức ăn ít kích thích, cho uống nước tự do.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
<i> Dùng kháng sinh để tiêu viêm và diệt khuẩn</i>
<i><b> Dùng thuốc lợi niệu: có thể dùng một trong các loại thuốc sau: (Axetat kali, </b></i>
Diuretin, Urotropin, bông mã đề, rễ cỏ tranh, râu ngô).
<i><b> Rửa bàng quang: dùng dung dịch sát trùng (dung dịch KMnO</b></i>4 0,1%, phèn chua
0,5%, axit boric 1 - 2%, axit salicylic 1%, axit tanic 1 - 2 %, Rivanol 0,1%,...). Trước khi
thụt thuốc sát trùng, nên thụt vào bàng quang nước muối sinh lý ở nhiệt độ 37 - 390<sub>C (đại </sub>
gia súc: 300ml, tiểu gia súc: 50ml). Sau khi cho dung dịch sát trùng vào khoảng 2 - 3 phút
rồi rút dung dịch sát trùng ra. Cuối cùng thụt kháng sinh vào bàng quang.
<i>Dùng thuốc giảm đau</i>: dùng một trong các loại thuốc Anagin, Prozin hoặc phong bế
<i><b>Chú ý: Khi bàng quang tích đầy nước tiểu mà niệu đạo bị tắc: hạn chế cho gia súc </b></i>
uống nước, không dùng thuốc lợi niệu, sau đó dùng thủ thuật để rút nước tiểu ra ngoài.
<i><b>7.6. VIÊM NIỆU ĐẠO (Uretritis) </b></i>
<b>7.6.1. Đặc điểm </b>
Quá trình viêm xảy ra ở lớp niêm mạc trong niệu đạo. Trong q trình bệnh, tuỳ
theo tính chất và thời gian mắc bệnh, bệnh viêm niệu đạo thể hiện ở các thể viêm: viêm
cata, viêm xuất huyết, viêm có fibrin, viêm tương dịch, viêm hoá mủ, viêm cấp tính,
viêm mạn tính,...
Gia súc cái và gia súc đực giống hay mắc.
<b>7.6.2. Nguyên nhân </b>
- Do tác động cơ giới (thường do thông niệu đạo, do cuội niệu làm xây xát niêm
mạc gây viêm).
- Do viêm lan từ các cơ quan khác đến (viêm bàng quang, viêm âm đạo).
- Do kế phát từ một số bệnh kí sinh trùng ở đường niệu đạo.
<b>7.6.3. Triệu chứng </b>
- Gia súc luôn luôn đi tiểu, khi đi con
vật có cảm giác đau đớn ở đường niệu đạo.
- Gia súc đực thì dương vật luôn sưng
to, bao quy đầu sưng, gia súc cái thì âm
- Sờ nắn niệu đạo hoặc dùng ống thông
làm cho gia súc đau đớn, khó chịu.
- Khi viêm, vách niệu đạo dày lên, lòng
niệu đạo hẹp lại, con vật đi tiểu khó khăn.
- N−ớc tiểu đục, trong n−ớc tiểu có lẫn
máu, mủ và dịch nhày.
<b>7.6.4. Tiên lượng </b>
Bệnh phần lớn có tiên lượng tốt, nhưng nếu bệnh làm lịng niệu đạo hố sẹo và hẹp
lại thì sẽ gây hiện tượng khó đi tiểu. Khi nước tiểu tích lại ở niệu đạo sẽ tạo điều kiện
cho vi trùng phát triển, từ đó dễ gây viêm lan lên bàng quang, bể thận và thận.
<b>7.6.5. Điều trị </b>
<b>Nguyên tắc điều trị: loại bỏ nguyên nhân gây bệnh, sát trùng ở niệu đạo và đề </b>
phòng hiện tượng viêm lan rộng.
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Ngừng phối giống đối với gia súc bị bệnh.
- Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ khô ráo.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
<i> Dùng thuốc sát trùng đường niệu: </i>
- Urotropin 20%: đại gia súc (50 - 100ml), tiểu gia súc (30 - 50ml/con), lợn, chó (20
- 30ml/con). Tiêm tĩnh mạch ngày 1 lần.
- Cho uống salon, hoặc axit salicylat.
<i>Dùng kháng sinh để diệt vi khuẩn (có thể dùng một trong các loại kháng sinh): </i>
- Penicillin 10000 - 15000 UI/kg TT tiêm bắp ngày 2 lần, liên tục 3 - 5 ngày.
- Ampicillin 10 mg/kg TT tiêm bắp ngày 1 lần, liên tục 3 - 5 ngày.
- Gentamycin 5 - 10 mg/kg TT tiêm bắp ngày 1 lần, liên tục 3 - 5 ngày.
- Lincomycin 10 - 15 mg/kg TT tiêm bắp ngày 1 lần.
<i>Dùng dung dịch sát trùng rửa niệu đạo. </i>
<i>Dùng các biện pháp để tăng cường trợ sức, trợ lực cho gia súc. </i>
Trường hợp viêm niệu đạo gây tắc đái, nước tiểu tích đầy bàng quang thì phải tìm
<i><b>cách thốt nước tiểu ra ngồi tránh gây vỡ bàng quang. </b></i>
Máu có quan hệ mật thiết tới sự sống của cơ thể, nó vận chuyển chất dinh dưỡng
đến các tổ chức và thải tiết những sản phẩm sinh ra trong quá trình trao đổi chất.
Máu có nhiệm vụ trao đổi O2 và CO2 ở phổi và mô bào.
Máu làm nhiệm vụ điều tiết nhiệt cho cơ thể, tham gia vào quá trình thực bào và sản
sinh kháng thể, vận chuyển các chất nội tiết để làm cho các khí quan trong cơ thể liên hệ
với nhau chặt chẽ.
Thành phần hữu hình của máu động vật đều ổn định, nó chỉ thay đổi chút ít
trong phạm vi sinh lý. Khi cơ thể bị một kích thích nào đó ở nội tại hoặc các tác
động từ bên ngồi đều có thể làm thay đổi về thành phần và tính chất của máu. Sự
thay đổi này phụ thuộc vào tính chất của bệnh, mức độ của bệnh cũng như diễn biến
của quá trình bệnh.
Bệnh của cơ quan tạo máu do nhiều nguyên nhân gây bệnh khác nhau dẫn đến mất
máu: như các bệnh truyễn nhiễm, kí sinh trùng, trúng độc, ung thư, các bệnh về rối loạn
dinh dưỡng và trao đổi chất.
Khi máu và cơ quan tạo máu bị bệnh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới cơ thể. Những
hiện tượng mất máu và tan máu gây nên thiếu máu, những nhân tố gây bại huyết làm
thay đổi bệnh lý trong cơ quan tạo máu. Ở các chứng viêm, quá trình gây mủ, những rối
loạn về nội tiết có thể gây nên chứng tăng bạch cầu.
<i><b>8.1. CHỨNG THIẾU MÁU (Anaemia) </b></i>
<b>8.1.1. Đặc điểm </b>
Bình thường khối lượng của máu được duy trì ở mức độ gần như hằng định. Do đó,
thiếu máu là giảm số lượng hồng cầu trong một đơn vị dung tích máu, kèm theo giảm
hàm lượng hemoglobin, làm cho hồng cầu thay đổi về chất lẫn lượng. Có rất nhiều cách
xếp loại thiếu máu, song dễ hiểu nhất là cách xếp loại theo cơ chế sinh bệnh. Có thể xếp
thành ba nhóm chính.
<b>8.1.2. Thiếu máu do mất máu </b>
<i>- Thiếu máu cấp tính </i>
Do cơ thể bị một lần mất máu với khối lượng lớn, làm cho con vật rối loạn tuần
hồn và hơ hấp nghiêm trọng đồng thời thể hiện rối loạn về thần kinh, do lượng máu ở
mao quản thiếu hụt nhanh chóng, nghiêm trọng nhất là sự thiếu máu não. Trường hợp
này thành phần máu không thay đổi.
<i>- Thiếu máu thể mạn tính </i>
Do máu chảy ra ngồi liên tục với một khối lượng nhỏ. Trong trường hợp này ngoài
sự thay đổi về số lượng, chất lượng máu cũng thay đổi, thể hiện rõ nhất là sự giảm hồng
cầu và huyết sắc tố.
<i><b>a. Nguyên nhân </b></i>
<i>* Nguyên nhân chủ yếu gây nên mất máu cấp tính: </i>
- Do vỡ mạch quản (nhất là vỡ động mạch)
- Khi gia súc bị ngoại thương, làm phẫu thuật,
- Do vỡ một số khí quan trong cơ thể (vỡ gan, lách, dạ dày, xuất huyết phổi,...).
<i>* Nguyên nhân gây mất máu mạn tính: </i>
- Do một số bệnh truyền nhiễm mạn tính.
- Bệnh ký sinh trùng, bệnh nội khoa mạn tính.
<i><b>b. Cơ chế sinh bệnh </b></i>
<i>* Trường hợp mất máu cấp tính</i> gây nên thiếu máu não, dẫn đến tế bào thần kinh ở
vỏ não bị ảnh hưởng nghiêm trọng, gia súc chết trong thời gian ngắn. Khi mất máu,
lượng máu ở tim và mạch quản giảm, áp lực ở xoang và động mạch cổ giảm, từ đó kích
thích thần kinh giao cảm làm cho tim đập nhanh, mạch quản co lại, đồng tử mắt giãn
rộng, vã mồ hôi. Hơn nữa do lượng oxy trong máu giảm làm cho gia súc ngạt thở. Khi
lượng máu ở mạch quản giảm, máu ở các cơ quan dự trữ trong cơ thể (như lách) dồn
vào mạch quản, tiếp đó dịch tổ chức cũng dồn vào mạch quản làm cho con vật có cảm
giác khát nước.
<i>* Trường hợp mất máu mạn tính:</i> huyết cầu sẽ thay đổi về số lượng và chất lượng.
Sự thay đổi chẳng những phụ thuộc vào số lượng máu mất mà còn phụ thuộc vào khả
năng tái sinh của cơ quan tạo máu. Trường hợp mất máu mạn tính, trong máu xuất hiện
nhiều hồng cầu non, hàm lượng huyết sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng. Nếu mất
máu trường diễn có thể dẫn tới một số cơ quan ngoài tuỷ xương cũng tạo máu (như gan,
lách, hạch lâm ba).
<i><b>c. Triệu chứng </b></i>
rất khát nước. Nhiệt độ cơ thể hạ dần,
mạch yếu, tim đập nhanh, huyết áp hạ đột
ngột, tiếng tim thứ hai giảm. Trong máu
số lượng hồng cầu giảm, lượng huyết sắc
tố giảm, số lượng bạch cầu và huyết tiểu
bản tăng (hình 8.1).
<i>* Trường hợp mất máu mạn tính</i>: con
vật mệt mỏi, yếu dần, mất khả năng làm
việc, niêm mạc nhợt nhạt. Trong máu xuất
hiện các dạng hồng cầu bệnh lý, số lượng
hng cầu và lợng huyết sắc tố giảm.
<i><b>d. Tiờn lượng </b></i>
Tiên lượng của bệnh phụ thuộc vào
lượng máu của cơ thể mất nhiều hay ít,
phụ thuộc vào vị trí nơi chảy máu và cơ
quan bị mất máu.
<i><b>e. Điều trị </b></i>
Nguyên tắc điều trị: loại trừ nguyên nhân gây chảy máu, đề phòng chảy máu tiếp
tục, bổ sung lượng máu đã mất cho cơ thể và kích thích sự tạo máu.
<i>* Trường hợp mất máu cấp </i>
- Nếu chảy máu bên ngoài: dùng các thủ thuật ngoại khoa để cầm máu.
- Nếu chảy máu bên trong: dùng các thuốc làm co mạch quản, làm xúc tiến q
trình đơng máu ở nơi có máu chảy.
<i>* Trường hợp mất máu mạn tính: </i>Cho gia súc uống sắt hoàn nguyên (FeCl2), kết
hợp với vitamin C để tăng cường quá trình tạo máu. Gia súc ăn thịt cho ăn thêm gan.
Dùng vitamin B12 tiêm cho gia súc.
<i><b>Chú ý: </b></i>
- Trường hợp gia súc bị chảy máu phổi không được dùng Adrenalin để tiêm (vì nó
làm giãn mạch quản phổi).
- Tiếp máu khi gia súc bị mất máu cấp tính: số lượng máu tiếp tuỳ thuộc vào số
<b>8.1.3. Thiếu máu do dung huyết </b>
Đây là chứng thiếu máu gây nên bởi hồng cầu bị phá huỷ hàng loạt, làm cho gia súc
có hiện tượng hồng đản.
<i><b>a. Nguyên nhân </b></i>
- Do gia súc mắc một số bệnh truyễn nhiễm hoặc ký sinh trùng (xoắn khuẩn, tiên
mao trùng, lê dạng trùng, biên trùng,...).
- Do gia súc bị trúng độc các loại hoá chất (Pb, Hg, Cloroforin,...).
- Do bị ung thư, bị bỏng lâu ngày, hoặc bị nhiễm trùng huyết.
- Do suy tuỷ, dẫn tới cơ năng tạo huyết bị rối loạn.
<i><b>b. Cơ chế sinh bệnh </b></i>
Những độc tố của vi sinh vật, ký sinh trùng hay những chất độc khác từ bên ngồi
cơ thể thơng qua phản xạ thần kinh trung ương sẽ phá hoại cơ năng của cơ quan tạo
máu. Trong quá trình viêm hàng loạt các tế bào máu (bạch cầu, hồng cầu, huyết tiểu
bản) bị phá vỡ. Do hồng cầu bị phá vỡ, lượng bilirubin tăng lên trong huyết thanh (chủ
yếu là hemobilirubin). Do vậy, trên lâm sàng con vật có hiện tượng hồng đản. Mặt
khác do hồng cầu bị vỡ nhiều làm cho con vật bị suy nhược dẫn đến chết.
<i><b>c. Triệu chứng </b></i>
- Gia súc kém ăn, da khô, lông xù,
thở nông, tim đập nhanh, niêm mạc mắt
- Xét nghiệm máu thấy: Số lượng
hồng cầu giảm nhiều, trong máu xuất hiện
hồng cầu dị hình (hồng cầu đa sắc, hình
lưới), sức kháng hồng cầu giảm, số lượng
bạch cầu thường không tăng. Trong huyết
thanh hàm lượng hemobilirubin tăng cao,
phản ứng vandenberg gián tiếp.
- Trong nước tiểu xuất hiện hemoglobin niệu (huyết sắc tố niệu) lượng urobilin
tăng.
- Trong phân, lượng stekobilin tăng, phân có màu đậm.
- Khi mổ khám có hiện tượng lá lách sưng to, gan cũng hơi sưng có hiện tượng hoại
tử hoặc thoái hoá mỡ.
<i><b>d. Chẩn đoán </b></i>
Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng điển hình và kết quả xét nghiệm máu, nước tiểu.
Đồng thời cần chú ý kiểm tra ký sinh trùng đường máu, thức ăn, thuốc hoặc hoá chất đã
dùng cho gia súc.
<i><b>e. Điều trị </b></i>
Căn cứ vào tính chất của bệnh nguyên để tiến hành điều trị. Nếu là bệnh truyền
nhiễm hay ký sinh trùng đường máu phải điều trị những bệnh trên. Nếu là trúng độc, tìm
<i>* Hộ lý: </i>
Tăng cường chăm sóc và nuôi dưỡng tốt gia súc. Bổ sung vào thức ăn những
nguyên tố vi lượng và protein để tạo hồng cầu.
<i><b>* Dùng thuốc điều trị: </b></i>
<i>Trong trường hợp số lượng hồng cầu bị phá huỷ ít:</i> dùng các thuốc có tác dụng làm
tăng hồng cầu.
- Cho uống viên sắt: ĐGS (5 - 10 g/con/ngày); TGS (2 - 3 g/con/ngày); chó
(1g/con/ngày).
- Tiêm vitamin B12: ĐGS (2000 - 3000 γ/con); TGS (1000 γ/con); chó (200 - 500 γ/con).
Dùng các loại thuốc làm tăng cường cơ năng của gan như Philatopgan: ĐGS
(10ml/con/ngày); TGS (5ml/con/ngày); lợn, chó (2 - 5ml/con/ngày). Tiêm hoặc cho
uống tùy theo chế phẩm thuốc.
<b>8.1.4. Thiếu máu do rối loạn chức phận tạo máu </b>
Quá trình tạo máu cần những nguyên liệu như sắt, protein, vitamin và sự hoạt động
bình thường của cơ quan tạo máu. Loại thiếu máu này rất phức tạp. Trong nhóm này
người ta thường gặp:
- Thiếu máu do thiếu sắt.
- Thiếu máu do thiếu protein.
- Thiếu máu do thiếu vitamin (vitamin C, B12).
<i><b>8.2. CHỨNG THIẾU VITAMIN (Hypo vitaminosis) </b></i>
Vitamin là những hợp chất hữu cơ, với một số lượng ít nhưng nó lại có tác dụng vơ
cùng quan trọng trong q trình trao đổi chất của cơ thể. Nó có nhiều trong các loại thức
ăn động vật và thực vật. Vitamin chia làm 2 loại:
- Vitamin tan trong mỡ gồm các loại vitamin A, D, E, K.
- Vitamin tan trong nước gồm các loại vitamin nhóm B và C.
<i><b>8.2.1. Thiếu vitamin A (A - Hypovitaminosis) </b></i>
<i><b>a. Đặc điểm </b></i>
Vitamin A có nhiều trong dầu gan cá, lòng đỏ trứng, caroten (tiền vitamin A) có
nhiều trong quả gấc, ớt, cà chua, đu đủ,...
Thiếu vitamin A sẽ đưa gia súc đến gầy sút, mắt khô, viêm giác mạc. Bệnh thường
xảy ra ở gia súc non, gây tổn thất lớn cho chăn nuôi.
<i><b>b. Nguyên nhân </b></i>
- Do sữa mẹ không đủ lượng caroten.
- Do gia súc thiếu thức ăn xanh trong mùa đông.
- Do gia súc mắc bệnh đường tiêu hoá, ảnh hưởng tới sự hấp thu vitamin.
<i><b>c. Triệu chứng </b></i>
Đối với gia súc non: con vật kém ăn, chậm lớn, viêm kết mạc, giác mạc, mắt khô,
gầy yếu, lông xù, thiếu máu.
Đối với gia súc cái: hay bị sẩy thai, sát nhau, viêm tử cung.
Ở lợn có hiện tượng khơ mắt và viêm giác mạc biểu hiện không rõ nhưng có triệu
chứng thần kinh, thị lực kém, bệnh nặng có hiện tượng co giật hoặc hơn mê.
Bệnh với gà rất nghiêm trọng (đặc biệt là gà con), gà bị viêm kết mạc, mắt sưng
chảy nước hoặc thành bọc mủ, có bã đậu, nhãn cầu đục, cuống lưỡi, vòm khẩu cái, họng
và thực quản có nổi mụn lấm tấm, mũi có dịch nhầy, mào nhạt màu, thở khó, có lớp
màng giả dễ bóc ở thanh quản, dưới lớp niêm mạc không bị loét. Trường hợp này cần
phân biệt với bệnh đậu gà ở thể màng giả, ở bệnh đậu này lớp màng giả khó bóc, lớp
niêm mạc ở dưới có vết loét và chảy máu.
<i><b>d. Phòng trị bệnh </b></i>
<i>* Hộ lý: </i>
- Phải kịp thời bổ sung vitamin A hoặc thức ăn có nhiều vitamin A vào khẩu phần
(gia súc sơ sinh phải lưu tâm cho bú sữa đầu).
- Tăng cường các loại thức ăn cho nhiều caroten như cỏ khơ, các loại củ quả, cà rốt,
bí đỏ,...
<i>* Dùng thuốc điều trị: </i>
- Dùng dầu cá tiêm cho con vật: bò (10 - 20ml/con); lợn (5 - 10ml/con). Tiêm dưới
da hoặc tiêm bắp thịt. Đối với gà có thể trộn dầu cá với thức ăn cho gà ăn.
<i><b>8.2.2. Thiếu vitamin B1 (B1 - Hypovitaminosis) </b></i>
<i><b>a. Đặc điểm </b></i>
Vitamin B1 giữ vị trí quan trọng trong hệ thống trao đổi chất, đặc biệt đối với
chuyển hoá gluxit và trong hoạt động thần kinh.
Đối với trao đổi gluxit, vitamin B1 còn làm tăng hấp thu đường ở vách ruột vào máu.
Đối với hoạt động của thần kinh nó có tác dụng ức chế men cholinsteraza làm giảm sự
thuỷ phân axetylcholin, nên khi thiếu vitamin B1, cholinsteraza hoạt động mạnh làm cho
hoạt động thần kinh bị rối loạn, với biểu hiện bên ngoài là hiện tượng co giật và bại liệt.
Khi thiếu vitamin B1, quá trình khử carboxyl của các xetoaxit bị ngừng trệ làm cho
lượng axit pyruvic, axit oxaloacetic, axit α - xetoglutamic,... tăng lên trong máu. Hiện
tượng này dẫn đến trạng thái toan huyết do thể xeton.
<i><b>b. Triệu chứng </b></i>
Khi thức ăn thiếu vitamin B1 gia súc thường phát sinh chứng phù thũng và viêm
thần kinh, có biểu hiện ở nhiều cơ quan như bắp thịt, cơ tim, ống tiêu hoá,... Thần kinh
bị viêm, thường gây hiện tượng co giật, bại liệt tứ chi và có những biến đổi thối hố ở
tổ chức.
Chứng thiếu vitamin B1 thấy rõ nhất ở ngỗng, gà, vịt, làm con vật giảm ăn, lông xù,
ỉa chảy, liệt cơ hoặc co giật. Ở bò khi thiếu vitamin B1 sẽ mắc bệnh lưỡi đen, giảm ăn.
<i><b>c. Cách phòng trị </b></i>
- Đối với gia súc (đặc biệt ở bò sữa) cho ăn men bia từ 25 - 100 g/ngày, trộn lẫn với
- Dùng vitamin B1 tiêm bắp hoặc dưới da: ĐGS (2 g/ngày); TGS (0,5 - 1 g/ngày);
lợn, chó (0,3 - 0,5g/ngày).
<i><b>8.2.3. Thiếu vitamin C (C - Hypovitaminosis) </b></i>
<i><b>a. Đặc điểm </b></i>
Vitamin C cịn có tên gọi là axit ascorbic, vitamin chống bệnh Scorbut. Loại
vitamin này khó bảo quản vì dễ bị oxy hoá khi gặp nhiệt độ hơi cao.
Vitamin C tham gia vào sự hô hấp của tế bào, tăng tính đơng của máu và khả năng
kháng thể. Vitamin C nâng đỡ tác động của men khác thúc đẩy sự cấu tạo của sụn
xương, củng cố vách mạch quản. Nó có tác dụng tốt trong việc chống nhiễm trùng và
giảm sốt.
<i><b>b. Triệu chứng </b></i>
<i><b>c. Điều trị </b></i>
- Đối với chó, mèo cho ăn thêm gan, thận, nước chanh, cà chua sống.
- Đối với loài ăn cỏ, tăng cường cho ăn các loại củ, quả, cỏ tươi.
- Có thể bổ sung vitamin C vào thức ăn với liều lượng 100 - 200 mg/kg thức ăn.
- Tiêm vitamin C trực tiếp vào mạch máu.
<i><b>8.3. CHỨNG SUY DINH DƯỠNG (Dystrophia) </b></i>
Gia súc non toàn đàn hay trong một đàn có một số con gầy yếu, cịi cọc, chậm lớn,
<i><b>a. Nguyên nhân </b></i>
Do gia súc mẹ trong thời kỳ mang thai ít được bồi dưỡng, thức ăn thiếu protein,
khoáng, vitamin.
Gia súc mẹ bị mắc bệnh làm ảnh hưởng đến chất lượng sữa, hoặc do phối giống
đồng huyết làm quá trình trao đổi chất của gia súc non giảm, dẫn đến còi cọc, chậm lớn.
Gia súc non bị bệnh như viêm ruột, viêm phổi, ký sinh trùng,...
<i><b>b. Cơ chế sinh bệnh </b></i>
Quá trình dẫn đến suy dinh dưỡng,
đầu tiên thường bắt đầu bằng rối loạn tiêu
hoá, làm khả năng vận động và tiết dịch
của dạ dày và ruột giảm, từ đó các chất
đạm, khoáng, sinh tố được hấp thu kém.
Từ suy dinh dưỡng sẽ làm cho quá trình
hưng phấn của vỏ não, do đó mất khả năng
điều chỉnh các trung khu dưới võ não. Mặt
khác để duy trì sự sống, cơ thể phải tiêu
hao năng lượng của bản thân chúng, làm
cơ thể ngày càng gầy yếu, sức đề kháng
cũng giảm, con vật hay mắc bệnh hoặc quá
suy nhược mà chết.
<i><b>c. Triệu chứng </b></i>
Con vật bị suy dinh dưỡng thường chậm lớn, lơng xù (hình 8.3), niêm mạc nhợt
nhạt, bốn chân yếu, đi khơng vững, thích nằm một chỗ đơi khi có hiện tượng phù. Thở
nhanh và nơng, tim đập nhanh, nhu động dạ dày và ruột giảm, khi thức ăn trong ruột
tích lại lên men sinh ra ỉa chảy. Thân nhiệt thường thấp.
Kiểm tra máu: Hàm lượng huyết sắc tố giảm, số lượng hồng cầu và bạch cầu giảm,
tỷ lệ lâm ba cầu tăng, trong máu xuất hiện các dạng hồng cầu non.
<i><b>d. Bệnh tích </b></i>
Con vật thường có bệnh tích da khô, lông xù, đôi khi xuất hiện thuỷ thũng dưới hầu,
trước ngực, âm nang. Khi mổ không thấy lớp mỡ dưới da, thịt trắng bệch. Cơ tim nhão,
lớp mỡ vành tim bị thoái hoá keo. Phổi teo lại, có từng đám bị xẹp, gan bị teo và nhợt
nhạt.
<i><b>e. Phòng trị </b></i>
<i>Trao đổi chất ở động vật</i> là dấu hiệu cơ bản của sự sống. Cơ thể động vật sinh ra,
phát triển, sống và chết đi đều là do kết quả của sự trao đổi vật chất.
Sự trao đổi chất ở động vật gồm có hai q trình cơ bản liên quan mật thiết với nhau
là đồng hóa và dị hóa
<i>Đồng hóa </i>là q trình tiêu thụ các chất dinh dưỡng đưa từ môi trường xung quanh
<i>Dị hóa </i>là q trình ngược với đồng hóa. Nó thể hiện ở sự phân hủy sâu sắc các bộ
phận của cơ thể động vật thành những chất giản đơn sau đó thải ra môi trường xung
quanh các sản phẩm cuối cùng của hoạt động sống.
Khi trao đổi chất trong q trình dị hóa có sự giải phóng năng lượng cần thiết để
thực hiện các chức năng sống của cơ thể động vật.
Khi điều kiện sống thay đổi ở động vật thì đặc điểm trao đổi chất cũng thay đổi và ở
mức độ nhất định nào đó sẽ gây nên sự rối loạn trao đổi chất, từ đó làm cho cơ thể lâm
vào trạng thái bệnh lý.
Tùy theo sự rối loạn các chất trong cơ thể mà gây nên những trạng thái bệnh lý khác
nhau. Ví dụ khi rối loạn trao đổi gluxit sẽ gây nên chứng xeton huyết. Khi rối loạn trao
đổi canxi, phosphosẽ gây nên hiện tượng còi xương, mềm xương.
<i>Hệ thống thần kinh</i> thực hiện sự thống nhất hoạt động của các khí quan, tổ chức
trong cơ thể; giữ thăng bằng giữa cơ thể và ngoại cảnh. Một cơ thể bị bệnh thì các cơ
năng, nhất là cơ năng phản xạ bảo vệ của hệ thần kinh rối loạn. Bệnh phát sinh và quá
trình phát triển của bệnh lý ít nhiều phản ánh trong trạng thái hoạt động của hệ thần
kinh. Khi hệ thần kinh bị bệnh thường dẫn đến:
- Rối loạn cơ năng thần kinh trung khu
- Rối loạn chức năng vận động của cơ thể
- Rối loạn về ý thức
<i>Da là một tổ chức</i> bao bọc cơ thể nhưng nó có mối liên hệ chặt chẽ với các khí quan
bên trong và chịu sự điều tiết của thần kinh trung ương. Do đó những bệnh tích trên da
có thể liên quan đến một số bệnh của cơ quan nội tạng khác và rối loạn hiện tượng trao
đổi chất của cơ thể.
Da có chức năng chống các kích thích cơ giới, nhiệt và hố học, da giúp cơ thể điều
tiết nhiệt, hơ hấp và thải những chất cặn bã ra ngoài.
Khi bị tổn thương, lớp biểu bì của da có khả năng tái sinh rất nhanh để hàn gắn vết
thương.
<i><b>9.1. CHỨNG XETON HUYẾT (Ketonic) </b></i>
<b>9.1.1. Đặc điểm </b>
Chứng xeton huyết là kết quả của sự rối loạn trao đổi lipit và protein. Trong máu và
trong tổ chức chứa nhiều thể xeton gây triệu chứng thần kinh ở con vật, đồng thời hàm
lượng đường huyết giảm xuống rõ rệt.
Hậu quả của sự tăng các axit xetonic trong máu là:
- Ức chế sự bài tiết axit uric máu theo thận dẫn đến tăng axit trong máu. Hậu quả
xuất hiện các cơn co rút cơ.
- Làm nhiễm axit chuyển hóa và gây mất nhiều cation trong nước tiểu dẫn đến rối
loạn hô hấp và nhiễm axit trong dịch não tủy.
- Làm giảm thu nhận oxy ở não và ức chế một cách tổng quát sự thu nhận glucoza,
axit pyruvat ở não dẫn đến cơ thể mệt mỏi, ủ rũ.
- Bệnh thường xảy ra ở bị sữa có sản lượng cao, thiếu vận động, thức ăn nhiều đạm, mỡ.
<b>9.1.2. Nguyên nhân </b>
Do phối hợp khẩu phần thức ăn chưa đúng. Trong khẩu phần thức ăn thiếu gluxit,
nhưng tỷ lệ protein và lipit lại quá nhiều.
Do kế phát từ chứng đường niệu, do bệnh gan, do thiếu insulin nên sự tổng hợp
glycogen kém, cơ thể không giữ được đường.
<b>9.1.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
oxybutyric; axit axetoacetic; axeton. Các thể xeton mang tính chất toan, nếu tích nhiều
trong máu sẽ làm giảm độ dự trữ kiềm gây nên trúng độc toan, làm rối loạn sâu sắc các
quá trình sinh hoá của cơ thể, con bệnh thường chết trong trạng thái hôn mê. Các thể
xeton trong máu vào phổi, thận, tuyến vú. Do vậy, trong hơi thở, sữa, nước tiểu của con
vật bệnh cũng có thể xeton.
<b>9.1.4. Triệu chứng </b>
<i> Trong giai đoạn đầu</i> (nhất là đối với bị
sữa có sản lượng cao) con vật biểu hiện rối
loạn tiêu hố, thích ăn thức ăn thơ xanh chứa
nhiều nước, con vật ăn dở, chảy dãi, nhai giả,
nhu động dạ cỏ giảm hoặc liệt, giảm nhai lại.
Sau đó có hiện tượng viêm ruột thể cata, đi ỉa
chảy, phân đen, có chất nhầy, thỉnh thoảng đau
bụng. Con vật gầy dần, sản lượng sữa giảm.
<i>Giai đoạn bệnh tiến triển</i>: con vật ủ rũ,
mệt mỏi, đi lại loạng choạng, thích nằm lì,
kinh bắt đầu bằng những cơn điên cuồng, mắt trợn ngược, dựa đầu vào tường, hai chân
trước đứng bắt chéo hay choạng ra, lưng cong, cơ cổ và cơ ngực co giật.
<i>Cuối thời kỳ bệnh</i>: con vật bị liệt hai chân sau, phản xạ kém, nằm lì một chỗ, đầu
gục vào mé ngực.
Trong quá trình bệnh nhiệt độ cơ thể thường giảm, thở sâu và chậm, thở thể bụng,
tần số mạch ít thay đổi nhưng khi suy tim thì tần số mạch tăng.
Vùng âm đục của gan mở rộng, khám vùng gan con vật có phản ứng đau, gan bị
thối hố mỡ.
Da rất nhạy cảm, khi chạm vào da con vật có cảm giác đau đớn.
Nước tiểu trong, tỷ trọng nước tiểu thấp, có mùi xeton, lượng xeton trong nước tiểu
có thể đạt tới 100 mg/l.
<b>9.1.5. Tiên lượng </b>
Bệnh thường ở thể mạn tính, kéo dài vài tuần. Nếu gia súc nằm lì, chữa khơng kịp
thời thì tiên lượng xấu.
<b>9.1.6. Chẩn đoán </b>
Điều tra khẩu phần thức ăn của gia súc.
Nắm vững những đặc điểm của bệnh là rối loạn tiêu hoá, liệt dạ cỏ, ỉa chảy. Trong
hơi thở, sữa, nước tiểu có mùi xeton. Con vật tê liệt, nằm lì gục đầu về phía ngực. Hàm
Khi chẩn đoán cần phân biệt với những bệnh sau:
- Liệt sau khi đẻ: bệnh xảy ra ngay sau khi đẻ 1 - 3 ngày, trong nước tiểu không có
mùi xeton. Dùng phương pháp bơm khơng khí vào vú có thể chữa khỏi.
- Liệt dạ cỏ: bệnh này khơng có xeton trong nước tiểu.
<b>9.1.7. Điều trị </b>
Nguyên tắc điều trị: Cải thiện khẩu phần thức ăn cho gia súc. Cho ăn thức ăn dễ
tiêu, giảm tỷ lệ đạm mỡ. Tăng cường sự hình thành glycogen để tránh nhiễm độc toan.
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Cho gia súc ăn thêm các loại thức ăn như cây ngơ, ngọn mía, bã đường, tăng cường
hộ lý, chăm sóc, cho gia súc vận động.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
<i>Trường hợp bệnh nặng: </i>
- Bổ sung đường glucoza vào máu
- Dung dịch glucoza 20 - 40%, tiêm tĩnh mạch 200 - 300ml/con, vài giờ tiêm một lần.
- Cho uống nước đường: hoà 200 - 400g đường với 1 - 2 lít nước ấm, cho uống 2 - 3
lần trong ngày.
- Đề phòng nhiễm độc toan: cho uống bicarbonat natri từ 50 - 100 g, cho uống 3 - 4
giờ một lần.
- Kích thích nhu động dạ cỏ và nhuận tràng: cho uống natrisulfat hoặc magiesulfat
300 - 500 g/con.
<i>Trường hợp gia súc có triệu chứng thần kinh</i>: dùng thuốc an thần.
<i>Trường hợp bệnh gây nên do thiếu Insulin:</i> tiêm Insulin (40 - 80 UI) kết hợp với
dung dịch glucoza 20 - 40% (200 - 300ml), tiêm tĩnh mạch 2 ngày 1 lần.
Tất cả các trường hợp đều cần dùng thuốc trợ sức, trợ lực cho gia súc.
<i><b>9.2. BỆNH CỊI XƯƠNG (Rachitis) </b></i>
<b>9.2.1. Đặc điểm </b>
Bệnh cịi xương là một loại bệnh ở gia súc non đang trong thời kỳ phát triển, do trở
ngại về trao đổi canxi, phospho và vitamin D gây ra.
Do thiếu canxi và phospho mà tổ chức xương không được canxi hố hồn tồn nên
xương phát triển kém.
<b>9.2.2. Nguyên nhân </b>
- Do thức ăn (hoặc sữa mẹ) thiếu canxi, phospho, vitamin D. Hoặc tỷ lệ giữa Ca/P
khơng thích hợp.
- Do gia súc ít được chăn thả, chuồng trại thiếu ánh sáng ảnh hưởng đến tổng hợp
vitamin D.
- Do gia súc bị bệnh đường ruột làm trở ngại đến hấp thu khoáng.
- Gia súc thiểu năng tuyến phó giáp trạng gây mất cân bằng tỷ lệ canxi, phospho
trong máu.
<b>9.2.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Khi hàm lượng canxi trong cơ thể giảm, tỷ lệ Ca/P bị phá vỡ ảnh hưởng tới sự tạo
xương và sụn nhất là sự cốt hoá ở các đầu xương. Do vậy, xương bị biến dạng, đặc biệt
rõ ở xương ống. Trên lâm sàng những con bị bệnh, xương ống thường cong queo, ảnh
hưởng đến vận động, làm cho gia súc què hoặc liệt.
Ngoài hiện tượng xương bị biến dạng, khi thiếu canxi còn gây triệu chứng co giật ở
con vật bị bệnh. Cũng do thiếu canxi, phospho con vật hay ăn bậy nên dễ mắc bệnh
đường tiêu hoá, con vật ngày càng gầy, chậm lớn, khả năng kháng bệnh kém.
<b>9.2.4. Triệu chứng </b>
<i>Giai đoạn đầu</i>: của bệnh con vật
thường giảm ăn, tiêu hố kém, thích nằm,
có hiện tượng đau các khớp xương.
<i>Giai đoạn bệnh tiến triển</i>: Con vật hay
ăn dở, liếm bậy bạ, mọc răng và thay răng
chậm. Ở lợn còn có triệu chứng co giật từng
cơn.
<i>Cuối thời kỳ bệnh</i>: xương biến dạng
(hình 9.2), các khớp sưng to, các xương ống
chân cong queo, sống lưng cong lên hay
vặn vẹo, lồng ngực và xương chậu hẹp,
xương ức lồi,... con vật gầy yếu, hay kế
Nếu khơng kế phát các bệnh khác thì trong suốt q trình bệnh con vật khơng sốt.
<b>9.2.5. Tiên lượng </b>
Bệnh tiến triển chậm, nếu phát hiện sớm chỉ cần điều chỉnh trở lại khẩu phần ăn,
cho gia súc tắm nắng hoặc bổ sung vitamin D thì có thể khỏi. Nếu không chữa kịp thời
gia súc ngày một gầy yếu, khó chữa và hay kế phát những bệnh khác.
<b>9.2.6. Chẩn đoán </b>
- Bệnh lúc đầu khó chẩn đốn, đến giai đoạn xương biến dạng dễ phát hiện.
- Khi khám bệnh chú ý các triệu chứng lâm sàng, tiến hành điều tra khẩu phần ăn,
nếu có điều kiện thì chiếu X quang để chẩn đoán.
<b>9.2.7. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Cải thiện khẩu phần ăn, bổ sung canxi, phospho và vitamin D, vệ sinh chuồng trại,
tăng cường chăn thả ngoài trời. Nếu gia súc bị liệt cần lót ổ rơm, cỏ khô và thường
xuyên trở mình cho gia súc.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Bổ sung vitamin D.
- Bổ sung canxi trực tiếp vào máu. Dùng một trong các chế phẩm (canxi clorua
10%; Gluconatcanxi 10%; canxi - For; polycan; Magie - canxi - For; Calbiron).
- Dùng thuốc điều trị triệu chứng các bệnh kế phát.
- Dùng thuốc tăng cường trương lực cơ và bổ thần kinh: Strychnin sulfat 0,1% kết
hợp với vitamin B1. Tiêm bắp ngày 1 lần.
<i><b>Chú ý: </b></i>
- Không dùng Strychnin liên tục quá 10 ngày
- Nơi có điều kiện nên tiến hành chiếu tia tử ngoại.
<i><b>9.3. BỆNH MỀM XƯƠNG (Osteo malacia) </b></i>
<b>9.3.1. Đặc điểm </b>
Bệnh mềm xương là bệnh của gia súc trưởng thành, thường gặp ở gia súc cái có
chửa hoặc cho con bú. Bệnh gây cho xương bị mềm, xốp rồi sinh ra biến dạng.
<b>9.3.2. Nguyên nhân </b>
- Do trong khẩu phần ăn thiếu canxi, phospho lâu ngày, hoặc tỷ lệ Ca/P khơng thích hợp.
- Do thiếu vitamin D, gia súc thiếu vận động, ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.
- Do khi gia súc có chửa hoặc ni con cơ thể mất nhiều canxi, phospho, nên phải
huy động canxi, phospho từ xương vào máu.
- Do tuyến phó giáp trạng tăng tiết làm hàm lượng canxi trong máu tăng.
- Do khẩu phần thiếu protein ảnh hưởng tới sự hình thành xương.
<b>9.3.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Do những nguyên nhân trên làm cho thành phần canxi, phospho trong xương bị
Do mềm xương nên ảnh hưởng tới hơ hấp, tiêu hố và cơ năng vận động của cơ thể.
Sự giảm canxi còn gây hiện tượng co giật ở lợn.
<b>9.3.4. Triệu chứng </b>
Bệnh thường phát sinh ở thể mạn tính, con vật bị bệnh có những biểu hiện:
- Con vật ăn kém, hay ăn bậy (la liếm, gặm tường,...).
- Con vật hay nằm, kém vận động, dễ mệt, ra mồ hơi. Khi vận động có thể nghe
tiếng lục khục ở khớp xương.
- Xương hàm trên và dưới hay biến dạng, răng mòn nhanh và không đều, xương ống
nhô cao, cong queo và dễ gẫy.
- Con vật hay mắc bệnh về đường tiêu hố, ỉa chảy. Phân cịn nhiều thức ăn chưa tiêu.
- Gia súc cái mắc bệnh, tỷ lệ thụ thai kém, ở gà sản lượng trứng giảm, trứng dễ vỡ,
mỏ bị biến dạng.
- Kiểm tra máu: hàm lượng canxi trong huyết thanh giảm từ 5 - 7%, hàm lượng
phospho hơi tăng, bạch cầu trung tính và lâm ba cầu tăng.
- Thay đổi về tổ chức học: cốt mạc sưng, xương bị xốp, ống Havers mở to, xung
quang có nhiều tổ chức liên kết.
<b>9.3.5. Tiên lượng </b>
Bệnh kéo dài hàng tháng hoặc hàng
<b>9.3.6. Chẩn đốn </b>
- Bệnh ở trạng thái mạn tính nên lúc
đầu chẩn đốn rất khó, chủ yếu dựa vào xét
nghiệm.
- Bệnh thường xảy ra ở cả bầy gia súc có chế độ chăn ni giống nhau và có cùng
triệu chứng như đã nêu ở trên.
- Gõ vào xoang trán có âm phát ra giống như gõ vào cột gỗ.
- Dùng X - quang có thể phát hiện bệnh sớm và biết được xương xốp, ranh giới giữa
cốt mạc và tổ chức cốt mạc dày, khớp xương sưng to, có khi có u xương.
- So sánh với thấp khớp: bệnh thường phát ra khi gia súc bị cảm lạnh, con vật đi lại
khó khăn khi bắt đầu vận động, sau một thời gian vận động con vật đi lại bình thường.
<b>9.3.7. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Bổ sung thêm canxi, phospho vào khẩu phần ăn như cho ăn bột xương hoặc các
loại premix khoáng, vitamin.
- Cho gia súc vận động ngoài trời, chuồng trại sạch sẽ, thống khí.
- Hạn chế cho con bú hoặc tách con ra khỏi mẹ.
- Nếu gia súc bị liệt, lót ổ đệm cho gia súc và thường xuyên trở mình cho gia súc.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Bổ sung vitamin D. Dùng canxi bổ sung trực tiếp vào máu (canxi clorua 10%,
gluconat canxi 10%, canxi - For hoặc polycan hoặc Magie - canxi - For).
- Dùng thuốc điều trị triệu chứng các bệnh kế phát.
- Dùng thuốc tăng cường trự lực cơ và bổ thần kinh: Strychnin sulfat 0,1% kết hợp
với vitamin B1 (không dùng cho gia súc đang có chửa).
<i><b>Chú ý: </b></i>
- Nơi có điều kiện nên tiến hành chiếu tia tử ngoại.
- Tăng cường khả năng hấp thu canxi cho cơ thể bằng các loại sau:
+ Dầu cá: bò (20 - 30ml/con); lợn (5 - 10ml/con); chó (3ml/con). Cho uống ngày 1 lần.
+ Vitamin D: bò (10000 - 15000 UI/con); lợn (5000 - 10000 UI/con); chó (5000
UI/con). Tiêm bắp ngày 1 lần.
- Trợ sức và làm giảm đau các khớp xương
Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó
Dung dịch Glucoza 20% 1000 - 2000ml 300 - 400ml 100 - 150ml
Urotropin 10% 50 - 70ml 30 - 50ml 15 - 20ml
Salicylat natri 2g 1g 0,5g
Tiêm chậm vào tĩnh mạch
- Điều trị các bệnh kế phát như chướng hơi, ỉa chảy
<i><b>9.4. BỆNH CẢM NẮNG (Insolatio) </b></i>
<b>9.4.1. Đặc điểm </b>
Khi gia súc được chăn thả hoặc phải làm việc dưới trời nắng to, ít gió, ánh nắng
chiếu trực tiếp vào đỉnh đầu làm cho sọ và hành tuỷ nóng lên, não và màng não bị
sung huyết gây trở ngại đến cơ năng của hệ thần kinh. Hậu quả của bệnh là gây rối
loạn toàn thân.
<b>9.4.2. Nguyên nhân </b>
- Do vận chuyển gia súc với quãng đường dài và phương tiện vận chuyển khơng có
mái che.
- Do chăn thả gia súc hoặc bắt gia súc làm việc dưới trời nắng to, nắng chiếu trực
tiếp vào đỉnh đầu.
- Những gia súc quá béo hoặc ăn quá no khi tiếp xúc với nắng dễ bị cảm nắng.
<b>9.4.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Do ánh nắng chiếu trực tiếp vào đỉnh đầu, làm nhiệt độ ở vùng đầu tăng cao → não
và màng não bị sung huyết gây tổn thương đến tế bào thần kinh, từ đó gây ảnh hưởng
tới trung khu tuần hồn, hơ hấp và điều hồ thân nhiệt làm cho con vật chết rất nhanh.
<b>9.4.4. Triệu chứng </b>
Nếu bệnh nhẹ: con vật có biểu hiện chống váng, đi đứng siêu vẹo, niêm mạc mắt
tím bầm, có khi vã mồ hơi, nuốt khó, thân nhiệt tăng cao, ở lợn và chó cịn có hiện
tượng nơn mửa.
Nếu bệnh nặng: con vật phát điên cuồng và sợ hãi, mắt đỏ ngầu, lồi ra ngoài, mạch
nhanh và yếu, tĩnh mạch cổ phồng to. Gia súc khó thở (thở kiểu cheyne - stokes), đi
không vững và đổ ngã tự nhiên. Nhiệt độ cơ thể lên tới 40 - 410C, da khô, đồng tử mắt
lúc đầu mở rộng, sau thu hẹp lại cuối cùng mất phản xạ thần kinh và phản xạ toàn thân.
Con vật run rẩy, co giật rồi chết.
<i>Mổ khám kiểm tra bệnh tích thấy</i>: não, màng não và hành tuỷ bị sung huyết, hoặc
xuất huyết, phổi và nội ngoại tâm mạc cũng bị xuất huyết.
<b>9.4.5. Chẩn đốn </b>
- Bệnh thường xảy ra cấp tính, con vật chết nhanh không kịp điều trị.
- Khi chẩn đoán cần phân biệt với bệnh cảm nắng và so sánh với bệnh truyễn nhiễm
cấp tính, các bệnh về phổi cấp tính.
<b>9.4.6. Điều trị </b>
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
- Chườm nước đá hay nước lạnh lên vùng đầu, sau đó phun nước lạnh lên tồn thân,
có thể thụt nước lạnh vào trực tràng để làm giảm nhiệt độ cơ thể.
- Xoa bóp tồn thân cho máu lưu thông để chống sung huyết não.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
<i>Dùng thuốc tăng cường tuần hồn và hơ hấp cho cơ thể: </i>Dùng thuốc trợ tim - có
thể dùng một trong các loại thuốc sau: Cafeinnatribenzoat 20%, Spactein, Spactocam,
<i>Dùng thuốc hạ thân nhiệt: </i> Dùng một trong các loại thuốc sau (Pyramidon,
Paracetamon, Anagin, Decolgen,....)
<i>Dùng thuốc tiêm trợ lực</i>: Dùng dung dịch glucoza 20 - 40%. Tiêm truyền vào tĩnh
mạch.
<i><b>Chú ý: Nếu có hiện tượng ứ huyết tĩnh mạch, não bị sung huyết nặng thì phải chích </b></i>
máu ở tĩnh mạch cổ để lấy bớt máu.
<i><b>9.5. BỆNH CẢM NÓNG (Siriasis) </b></i>
<b>9.5.1. Đặc điểm </b>
Bệnh thường xảy ra khi khí hậu nóng khơ, hoặc ẩm ướt, làm cho q trình trao đổi
nhiệt của cơ thể và mơi trường bên ngồi khó khăn → tích nhiệt trong cơ thể, gây sung
huyết não → rối loạn tuần hoàn não, làm rối loạn trung khu điều hoà thân nhiệt. Hậu
quả gây rối loạn toàn thân.
Bệnh thường phát ra cùng với bệnh cảm nắng, mức độ bệnh tăng thêm, con vật chết
rất nhanh.
<b>9.5.2. Nguyên nhân </b>
- Do khí hậu nóng bức, nhiệt độ của mơi trường bên ngồi q cao, hoặc quá ẩm
ướt làm ảnh hưởng tới quá trình thải nhiệt của cơ thể.
- Do chuồng trại hoặc phương tiên vận chuyển quá chật chội.
- Do gia súc quá béo lại khát nước, hoặc gia súc có lơng q dày, gia súc mắc bệnh
tim phải làm việc trong thời tiết oi bức.
<b>9.5.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
<b>9.5.4. Triệu chứng </b>
Con vật thở khó, thân nhiệt tăng (410C), tồn thân vã mồ hơi, mệt mỏi, niêm mạc
tím bầm, tim đập nhanh, mạch nẩy, cơ nhai và cơ môi co giật, nôn mửa. Nếu nhiệt độ
bên ngồi q nóng thì thân nhiệt con vật tăng tới 43 - 440<sub>C, con vật điên cuồng, tĩnh </sub>
mạch cổ phồng to, đồng tử mở rộng sau đó hơn mê, co giật rồi chết. Khi chết con vật sùi
bọt mép, có khi cịn lẫn máu.
Kiểm tra thấy máu khó đơng, não và màng não sung huyết, phổi cũng bị sung huyết
hay phù. Ngoại tâm mạc và phế mạc bị ứ huyết.
<b>9.5.5. Tiên lượng </b>
Con vật thường bị chết vì liệt tim, sung huyết và phù thũng phổi. Bệnh nặng con vật
chết nhanh. Nếu phát hiện kịp thời và điều trị tốt con vật có khả năng hồi phục.
<b>9.5.6. Chẩn đoán </b>
Căn cứ vào biểu hiện chủ yếu: con vật vã mồ hôi, máu cô đặc, mất nước, rối loạn về
trao đổi chất, sung huyết và xuất huyết ở một số tổ chức. Con vật chết vì khó thở và
nhiễm độc.
Cần phân biệt với bệnh: bệnh cảm nắng, bệnh viêm não và màng não, bệnh nhiệt
thán,...
<b>9.5.7. Điều trị </b>
<i>Nguyên tắc điều trị: để cho gia súc yên tĩnh, thoáng mát, tăng cường việc thốt </i>
nhiệt để đề phịng tê liệt trung khu thần kinh.
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Để gia súc nơi thoáng mát, dùng nước lạnh đắp vào đầu và toàn thân, cho gia súc
uống dung dịch điện giải.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Bổ sung nước và chất điện giải cho cơ thể: Dùng dung dịch nước muối sinh lý
hoặc glucoza 5% hay dung dịch ringerlactat. Tiêm chậm vào tĩnh mạch.
- Dùng thuốc trợ tim: Cafeinnatribenzoat 20% hoặc Spactein,...
<i><b>Chú ý: Trường hợp tĩnh mạch cổ quá căng phải dùng biện pháp chích huyết. </b></i>
<i><b>9.6. BỆNH CHÀM DA (Eczema) </b></i>
<b>9.6.1. Đặc điểm </b>
<b>9.6.2. Nguyên nhân </b>
Nguyên nhân của bệnh rất phức tạp, song có thể phân làm hai nguyên nhân chính.
<i><b>a. Nguyên nhân ngoại cảnh </b></i>
- Do điều kiện vệ sinh kém, chuồng trại bẩn, da luôn bị ẩm ướt và các chất bẩn đọng
lại trên da.
- Da bị tổn thương do cọ sát cơ giới, bị cơn trùng cắn,....
- Do bị kích thích bởi các hố chất.
- Do ảnh hưởng của thời tiết.
<i><b>b. Nguyên nhân bên trong </b></i>
- Do rối loạn tiêu hố (táo bón lâu ngày, suy gan, nhiễm giun sán.,..).
- Do các rối loạn về tuần hoàn, nội tiết.
- Do rối loạn quá trình trao đổi chất của cơ thể (thiếu vitamin, thiếu các loại khoáng
vi lượng,...).
Muốn tìm được ngun nhân chính xác phải
tiến hành điều tra lịch sử bệnh, điều kiện nuôi
dưỡng, chăm sóc và kiểm tra lâm sàng kết hợp
với xét nghiệm bệnh phẩm.
<b>9.6.3. Triệu chứng </b>
Bệnh thường tiến triển qua các giai đoạn:
<i><b>a. Giai đoạn đỏ </b></i>
Giai đoạn này bắt đầu từ đám da bị đỏ, ranh
giới không rõ rệt và rất ngứa (ngứa là triệu
chứng xuất hiện đầu tiên dai dẳng và kéo dài cho
đến các giai đoạn sau). Trên vùng da đỏ xuất
hiện những nốt sần như những hạt kê, dày chi
<i><b>b. Giai đoạn mụn nước </b></i>
Những nốt sần trên thực tế là những mụn
nước ngày càng lớn, khi ngứa, con vật gãi hoặc
cọ sát nên mụn nước bị vỡ và chảy ra một thứ
nước vàng, đóng thành vảy. Những mụn nước
khác lại tiếp tục nổi lên, một số mụn bị nhiễm
khuẩn có màu vàng. Trong giai đoạn này có thể
có một số triệu chứng nhiễm khuẩn thứ phát.
<i><b>Hình 9.4. Da viêm đỏ </b></i>
<i><b>c. Giai đoạn đóng vảy </b></i>
Giai đoạn này da khơng nổi lên những mụn nước mới, những mụn có đóng vẩy, khơ
dần, có chỗ lên da non màu hồng. Tuy nhiên vẫn cịn một số ít mụn nước. Da có màu
sẫm hơn và dày cộm lên (hình 9.5).
<i><b>d. Giai đoạn mạn tính </b></i>
Da sẫm màu, dầy cộm, có những nốt sần cứng hơn, to hơn ở giữa các vết hằn da.
Trong trạng thái mạn tính này vẫn có những đợt nổi lên những nốt sần khác hoặc
mụn nước và vẫn bị chảy nước như những giai đoạn trước.
Quá trình bệnh chia làm các giai đoạn trên song các giai đoạn đó khơng chia rõ ranh
giới mà thường lẫn nhau trong giai đoạn đỏ đã có một số mụn nước, trong giai đoạn
mụn nước đã có một số lên da non, trong giai đoạn mạn tính vẫn cịn có những mụn
mẩn đỏ, mụn nước).
Bệnh chàm da ở những lồi gia súc có biểu hiện khác nhau:
- Ngựa: thường ở thể mạn tính, nơi hay phát bệnh là ở bờm cổ, cuống đuôi, sau
khớp cẳng chân. Con vật ngứa ngáy, da dày cộm. Bệnh thường phát vào mùa hè.
- Trâu, bị thường mắc ở phía trong đùi, ở cổ, vú, kẽ móng chân.
- Lợn thường hay có ở nách, bẹn, dưới bụng.
- Chó hay mắc ở sống mũi, cổ và khuỷu chân, môi trên, mí mắt và xung quanh tai.
<b>9.6.4. Tiên lượng </b>
Bệnh ở thể cấp tính nếu điều trị kịp thời bệnh sẽ khỏi. Nếu bệnh chuyển sang mạn
tính rất khó chữa.
<b>9.6.5. Chẩn đoán: Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh sau: </b>
<i>Bệnh ghẻ:</i> Cạo vẩy để tìm cái ghẻ.
<i>Bệnh viêm da: </i>Bệnh gây viêm sâu ở các lớp nội bì và dưới da. Viêm da khơng nổi
mụn nước và mụn đỏ, con vật ít ngứa hơn.
<b>9.6.6. Điều trị </b>
<i><b>a. Điều trị toàn thân </b></i>
- Cần cải thiện chế độ vệ sinh, chăm sóc ni dưỡng để nâng cao sức đề kháng của cơ
thể. Tránh cho gia súc ăn những thức ăn kích thích, tránh cọ sát và không để nhiễm bẩn.
- Chú ý điều hoà các chức phận, tẩy giun sán định kỳ, tránh táo bón, cho gia súc
uống đủ nước.
- Làm huyết liệu pháp.
<i><b>b. Điều trị tại chỗ </b></i>
Cần phân biệt từng giai đoạn để có biện pháp chữa thích hợp:
<i>Trường hợp chỗ da bệnh chảy nước, trợt da, đỏ:</i> tránh không dùng các thuốc kích
thích hoặc thuốc mỡ mà chỉ dùng các loại thuốc làm dịu da, thuốc nước (Lajic, hồ nước,
bột phèn chua).
- Dùng một trong các loại thuốc sát trùng sau (Natribicabonat 5%, Rivanol 0,1%,
thuốc tím 0,1% thấm vào gạc, đắp lên vết loét.
- Dùng thuốc làm dịu da và trị nấm: dầu kẽm (bao gồm: Oxyt kẽm 40g, Vaselin
60ml), Trangala, Lajic, hồ nước, Kedecfa,... ngày bôi 2 lần.
- Dùng thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn (Cephacilin, Gentamycin,...)
- Dùng thuốc chống ngứa: (Xiro pheregan,...)
<i><b>Chú ý: Khi đắp gạc không kỳ cọ quá mạnh, bôi thuốc xong khơng băng kín. Nếu </b></i>
bệnh có nhiều vẩy thì chấm qua dầu lạc cho vẩy bong ra rồi mới bôi thuốc hoặc đắp gạc.
Giai đoạn da bệnh tương đối khơ và bớt đỏ thì dùng 1 trong các loại thuốc sau:
Ichthyol: 10ml Oxyt kẽm: 5 g Axit benzoic: 3 g
Bột tanin: 5 g Phèn chua: 5 g Vaselin: 5ml
Tạo thành hỗn dịch như mỡ, bôi lên nơi viêm ngày 2 lần.
<i>Giai đoạn mạn tính:</i> dùng các loại thuốc làm mỏng da, bớt ngứa như dầu Ichthyol, mỡ
lưu huỳnh, mỡ salisilic từ thấp đến cao (5 - 10%) bôi lên chỗ da bệnh, có thể băng lại.
<i><b>Chú ý: Khi dùng thuốc nên thăm dò phản ứng của gia súc để kịp thời thay đổi </b></i>
thuốc. Nếu có điều kiện có thể dùng biện pháp lý liệu pháp.
<i><b>9.7. CHỨNG NỔI MẨN ĐAY (Caseous exudate at the derma) </b></i>
<b>9.7.1. Đặc điểm </b>
Do những kích thích từ bên ngoài hoặc bên trong cơ thể làm cho hệ thống vận mạch
của da bị rối loạn, làm từng đám nội bì của da thấm tương dịch, da dày lên. Trên lâm
sàng ta thấy trên mặt da có những nốt nổi mẩn hình trịn hoặc hình bầu dục, khi sờ thấy
dày cộm, con vật ngứa khó chịu. Ngựa và chó hay mắc.
<b>9.7.2. Nguyên nhân </b>
<i><b>a. Nguyên nhân bên ngoài </b></i>
- Gia súc bị nhiễm lạnh đột ngột.
<i><b>b. Nguyên nhân bên trong </b></i>
- Do gia súc ăn phải những thức ăn độc, kém phẩm chất, thức ăn lạ.
- Do gia súc táo bón lâu ngày.
- Do sử dụng thuốc (bị dị ứng thuốc).
- Do kế phát từ những bệnh truyền nhiễm (đóng dấu lợn, viêm hạch truyền
nhiễm,...).
- Do chức năng gan bị rối loạn.
<b>9.7.3. Triệu chứng </b>
- Giai đoạn đầu trên da xuất hiện nhiều nốt nhỏ, trịn như đồng xu, sau đó lan to
dần, những nốt này có màu đỏ, sờ tay vào thấy dày cộm.
- Gia súc ngứa, khó chịu, kém ăn, có trường hợp sưng mí mắt, sưng môi, chảy nước
mũi, nước dãi. Nếu bị nặng con vật có thể chết.
<b>9.7.4. Tiên lượng </b>
Bệnh dễ hồi phục, gia súc có thể khỏi trong vài giờ hoặc vài ngày nhưng thường
hay tái phát.
<b>9.7.5. Điều trị </b>
Nguyên tắc điều trị: loại trừ những kích thích của bệnh nguyên, bảo vệ cơ năng thần
kinh trung ương và điều trị cục bộ.
<i><b>a. Hộ lý </b></i>
Để gia súc ở nơi yên tĩnh, loại bỏ thức ăn kém phẩm chất và thức ăn lạ, giữ ấm cho
gia súc.
<i><b>b. Dùng thuốc điều trị </b></i>
- Dùng thuốc an thần: Aminazin hoặc Prozil,...
- Dùng thuốc làm giảm dịch tiết (tương dịch) và bền vững thành mạch: vitamin C
- Dùng thuốc làm co mạch quản và làm giảm dịch thẩm xuất: Adrenalin 0,1%.
- Dùng thuốc thải trừ chất chứa ở ruột: magiesulfat hoặc natrisulfat
- Dùng thuốc tăng cường chức năng và giải độc của gan: dung dịch đường ưu
trương và urotropin.