Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.07 KB, 30 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
1.1.1. Đặc điểm của ngành Xây dựng cơ bản ảnh hưởng đến công tác
tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất có tính chất công nghiệp
nhằm tái sản xuất TSCĐ cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân, tạo cơ sở
vật chất kỹ thuật cho xã hội, tăng nội lực cho nền kinh tế của đất nước.
Ngày nay, công tác xây dựng cơ bản không ngừng phát triển cả về chiều
rộng và lẫn chiều sâu, mà các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng
cơ bản là doanh nghiệp có nguồn vốn lớn và tương đối ổn định. Thế nhưng
trong cơ chế thị trường, khi mà Nhà nước chỉ thực hiện giao quyền sử dụng vốn
còn trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn có hiệu quả đó là trách nhiệm của các
doanh nghiệp. Qua cơ chế mới này, các doanh nghiệp phải chủ động trong việc
tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức huy động vốn và tổ chức hạch
toán phù hợp với yêu cầu quản lý, kiểm tra của Nhà nước. Đây là khó khăn với
hầu hết các doanh nghiệp và đặc biệt là các doanh nghiệp xây lắp vì như vậy họ
phải đối mặt với việc thiếu vốn hoạt động và phải tự tìm kiếm các công trình khi
mà ngân sách và vốn cấp trên rót xuống chỉ có hạn. Biện pháp giải quyết khó
khăn này đó là các doanh nghiệp Nhà nước quyết định cổ phần hoá doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp xây lắp là doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất vật chất
mang tính chất công nghiệp nhưng đó là một ngành sản xuất công nghiệp đặc
biệt. Sản phẩm xây dựng cơ bản cũng được tiến hành sản xuất một cách liên tục,
từ khâu thăm dò, điều tra khảo sát đến thiết kế thi công và quyết toán công trình
khi hoàn thành. Sản xuất xây dựng cơ bản cũng có tính dây chuyền, giữa các
khau của hoạt động sản xuất có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu một khâu
ngừng trệ sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các khâu khác. Chính vì có
những đặc điểm riêng mà nó ảnh hưởng đến việc tổ chức, quản lý và hạch toán,


đặc biệt đối với kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Ta có thể thấy những đặc điểm khác với các ngành công nghiệp khác đó
là:
- Sản phẩm xây lắp không có sản phẩm nào giống sản phẩm nào, mỗi sản
phẩm có yêu cầu về mặt thiết kế mỹ thuật, kết cấu, hình thức, địa điểm xây
dựng khác nhau. Do vậy, mỗi sản phẩm xây lắp đều có yêu cầu tổ chức quản lý,
tổ chức thi công và biện pháp thi công phù hợp với đặc điểm của từng công
trình cụ thể, có như vậy việc sản xuất thi công mới mang lại hiệu quả cao và bảo
đảm cho sản xuất được liên tục.
Do sản phẩm xây lắp có tính đơn chiếc và được sản xuất theo đơn đặt
hàng nên chi phí bỏ vào sản xuất thi công cũng hoàn toàn khác nhau giữa các
công trình,kể cả khi công trình thi công theo thiết kế mẫu nhưng được xây dựng
ở những địa điểm khác nhau. Vì thế tập hợp các chi phí sản xuất, tính giá thành
sản phẩm cũng được tính cho từng sản phẩm xây lắp riêng biệt.Thông thường,
đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành là các công trình, hạng mục công
trình .
- Sản phẩm xây lắp thường có qui mô lớn cả về kích thước lẫn tiền vốn,
thời gian thi công rất dài, có công trình phải xây dựng hàng chục năm mới xong.
Trong thời gian thi công chưa tạo ra sản phẩm nhưng lại sử dụng nhiều vật tư
tiền vốn. Do đó, khi lập kế hoạch xây dựng cơ bản cần cân nhắc, thận trọng theo
dõi chặt chẽ quá trình thi công, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm, bảo đảm chất
lượng công trình. Do thời gian thi công dài các doanh nghiệp xây lắp và chủ đầu
tư không thể chờ đến khi xây dựng xong mới tính toán và thanh toán. Chính vì
thế,căn cứ vào dự toán, tiến độ thi công và biên bản bàn giao khối lượng xây lắp
hoàn thành, bên A (chủ đằu tư) sẽ thanh toán cho bên B (bên nhận thi công).
Các công trình xây lắp thường có thời gian sử dụng dài nên mọi sai lầm
trong quá trình thi công thường khó sửa chữa phải phá đi làm lại. Sai lầm trong
XDCB vừa gây lãng phí vừa để lại hậu quả có khi rất nghiêm trọng, lâu dài và
khó khắc phục. Do đặc điểm này mà trong quá trình thi công cần phải thường
xuyên kiểm tra giám sát chất lượng công trình, tránh phát sinh thêm chi phí

ngoài dự toán.
- Sản phẩm xây lắp được sử dụng tại chỗ, địa điểm xây dựng luôn thay
đổi theo địa bàn thi công. Nó chịu tác động của nơi xây dựng công trình về các
mặt như giá vật liệu tại chân công trình, giá nhân công,... Mặt khác việc xây
dựng còn chịu tác động của địa chất, thuỷ văn, kết hợp với các yêu cầu về phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Khi công trình hoàn
thành, điều đó có nghĩa người công nhân sẽ không còn việc gì ở đó nữa, phải
chuyển đến thi công ở một công trình khác. Do đó sẽ phát sinh các chi phí như
điều động công nhân, máy móc thi công, chi phí xây dựng tạm thời cho công
nhân và cho máy móc thi công. Đặc điểm này khiến cho các đơn vị xây lắp
thường sử dụng lực lượng lao động thuê ngoài tại chỗ nơi thi công công trình để
giảm bớt các chi phí khi di dời.
- Sản phẩm của ngành xây lắp hoàn thành không nhập kho mà thường
được tiêu thụ trước khi tiến hành sản xuất theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận
với chủ đầu tư. Do đó tính chất hành hoá của sản phẩm thể hiện không rõ. Giá
thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị bản thân thiết bị do chủ
đầu tư đưa vào để lắp đặt mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh nghiệp xây
lắp bỏ ra có liên quan đến xây lắp công trình. Bao gồm giá trị vật kết cấu, giá trị
thiết bị: ống nhựa, ống sắt, xi măng,sắt, thép, nắp đan, cột,...
Trong nền kinh tế thị trường,lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng
phương pháp đấu thầu và đây thực sự là vấn đề cạnh tranh gay gắt giữa các
doanh nghiệp. Vì vậy, để trúng thầu các doanh nghiệp xây lắp phải xây dựng
được giá tham gia đấu thầu vừa hợp lý trên cơ sở các định mức, đơn giá xây
dựng cơ bản do Nhà nước ban hành, vừa phải xem xét đến giá mang tính cạnh
tranh dựa trên cơ sở giá cả thị trường và khả năng của doanh nghiệp về tổ chức
quản lý, tiến độ thi công. Đặc biệt là việc phấn đấu hạ chi phí đảm bảo việc nếu
nhận thi công công trình phải có lãi. Chính vì cạnh tranh quá mạnh mẽ như thế,
khiến cho một số doanh nghiệp xây lắp đã xây dựng giá nhận thầu thấp, để
thắng thầu hoặc là cắt bớt chi phí trong quá trình thi công. Đây thực sự là một
biểu hiện sai trái mà các cấp, các ngành, các đơn vị chủ đầu tư và các doanh

nghiệp xây lắp cần phải lựa chọn kỹ các đơn vị đấu thầu, và kiểm tra giám sát
chặt chẽ trong quá trình thi công.
Qua các đặc điểm trên đòi hỏi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp xây lắp phải tổ chức quản lý chặt chẽ các yếu tố đầu vào đồng
thời phải tổ chức công tác kế toán phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và
yêu cầu quản lý. Đặc biệt đối với công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm phải tính đúng, tính đủ chi phí, phải xác đinh chính xác
giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành, từ đó cung cấp thông tin tài liệu cần
thiết để phân tích tình hình thực hiện dự toán giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu
cầu quản lý và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Yêu cầu quản lý, vai trò và nhiệm vụ của kế toán chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
1.1.2.1. Yêu cầu quản lý và vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm xây lắp.
Sự ra đời và quá trình phát triển của kế toán gắn liền với sự ra đời và phát
triển sản xuất của cải vật chất của xã hội. Nền sản xuất của xã hội càng phát
triển thì kế toán càng trở nên quan trọng. Với chức năng thu thập, xử lý, cung
cấp thông tin về tình hình tài sản, tình hình hoạt động kinh tế tài chính của
doanh nghiệp, kế toán trở thành công cụ quản lý kinh tế hữu hiệu. Trong nền
kinh tế thị trường, kế toán được coi như “nghệ thuật ghi chép, phân loại và tổng
hợp” (theo khái niệm về kế toán của Liên đoàn kế toán quốc tế), hay “kế toán là
ngôn ngữ của việc kinh doanh” (theo Giáo sư, tiến sĩ Robert Anthony - Đại học
Harvard). Kế toán là công cụ hạch toán chính xác các chi phí sản xuất thông qua
tổ chức ghi chép, tính toán, phản ánh và giám đốc thường xuyên liên tục chi phí
đã chi ra cho quá trình sản xuất. Trong khi đó chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm,
vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu phản ánh chất lượng
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì thế mà kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vị trí
quan trọng, đóng vai trò trung gian trong toàn bộ công tác kế toán doanh

nghiệp, và có ý nghĩa quyết định trong việc quản lý chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm.
Nhờ kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể nhanh chóng,
kịp thời, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp có thể nắm
được tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật tư, lao động tiền vốn ở
từng đơn vị, từng công trình và từ đó có thể thực hiện công tác quản lý việc
hoàn thành nhiệm vụ hạ giá thành, đồng thời có thông tin để đánh giá mức độ
ảnh hưởng của từng nhân tố đến nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm. Đây là những
thông tin hết sức quan trọngđối với công tác chỉ đạo và phân tích đánh giá hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời trên cơ sở đó khai thác thế mạnh, tiềm năng
để khắc phục những mặt yếu kém, nâng cao năng suất lao động, hạ bớt chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chính vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm luôn là các chỉ tiêu kinh
tế quan trọng, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh được các nhà
quản lý hết sức quan tâm, nên công tác tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm luôn là nội dung cơ bản, trọng tâm của toàn bộ tổ chức công
tác kế toán trong doanh nghiệp và nó giữ những vai trò rất quan trọng:
- Kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm cung
cấp thông tin về tình hình chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành sản phẩm giúp
các nhà quản lý kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ và kiểm soát việc sử dụng chi phí
nhằm nâng cao hiệu quả của chi phí, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong
quản lý.
- Kế toán giúp các nhà quản lý nắm được chi phí sản xuất kinh doanh và
giá thành thực tế của từng loại sản phẩm, từng công trình, từng hoạt động và của
từng bộ phận để xác định chi phí cần bù đắp để thực hiện tái sản xuất, để phân
tích đánh giá tình hình thực hiện các định mức chi phí, dự toán chi phí và kế
hoạch giá thành.
- Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn giúp các nhà
quản lý tính toán, xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản

phẩm xây lắp.
Để phát huy vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp, tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất
của doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và phương
pháp tính giá thành đúng đắn và phù hợp.
- Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định và bằng phương pháp thích hợp đã
chọn, cung cấp kịp thời những số liệu, thông tin tổng hợp về các khoản mục chi
phí và yếu tố chi phí quy định .
- Xác định phương pháp kế toán và quy nạp các chi phí vào các đối tượng
một cách thích ứng với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đáp
ứng yêu cầu kiểm soát tập hợp chi phí và kiểm tra các dự toán, các định mức
chi phí .
- Lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang, phương pháp tính
giá thành sản phẩm đảm bảo tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm hoàn thành.
- Định kỳ cung cấp báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành cho lãnh đạo
doanh nghiệp và tiến hành phân tích tình hình thực hiện các kế hoạch giá thành,
phát hiện kịp thời các khả năng tiềm tàng đề xuất biện pháp thích hợp để phấn
đấu không ngừng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
* Sự cần thiết tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong doanh nghiệp xây lắp:
Ngày nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương thức
đấu thầu xây dựng. Chính vì thế mà các sản phẩm xây lắp thường được xác định
giá trị ngay từ đầu. Vậy công việc xác định giá trị xây lắp để có thể tiến hành
tham dự đấu thầu, doanh nghiệp xây lắp phải tiến hành tính giá thành sản phẩm
xây lắp.
Thêm vào đó trong quá trình thi công do đặc điểm của các sản phẩm xây
lắp có khối lượng lớn, chi phí phát sinh liên quan đến nhiều, có tính đơn chiếc

chính vì thế mà cần thiết phải tiến hành theo dõi tập hợp chi phí sau đó tính giá
thành sản phẩm để có thể so sánh được với giá trị xây lắp đã được dự toán từ
đầu.
Chính vì thế phải khẳng định rằng, trong doanh nghiệp xây lắp thì việc
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hết sức cần thiết giúp cho
lãnh đạo công ty có thể bám sát tình hình thực tế để đưa ra được các quyết định
nhanh chóng phù hợp và đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm mà các sản phẩm đó vẫn đảm bảo chất lượng nâng cao uy tín
của doanh nghiệp trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra như vũ bão
1.2. CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
1.2.1. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
1.2.1.1. Khái niệm, bản chất kinh tế của chi phí sản xuất trong doanh
nghiệp xây lắp.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp là quá trình biến
đổi các yếu tố về tư liệu sản xuất, đối tượng lao động (biểu hiện cụ thể là các
hao phí về lao động vật hoá) với sự tác động có mục đích của sức lao động (biểu
hiện là hao phí về lao động sống) sẽ trở thành các sản phẩm, công trình... Qua
quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp cũng là quá trình tiêu hao của chính bản
thân các yếu tố đó. Chính vì vậy, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo
nên giá trị sản phẩm xây lắp là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của người sản xuất.
Như vậy, ta có thể hiểu chi phí sản xuất kinh doanh trong xây dựng cơ
bản là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật
hoá mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, thi công và bàn
giao sản phẩm xây lắp trong một kỳ nhất định. Trong đó chi phí về lao động
sống gồm: Chi phí tiền lương, trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đoàn. Chi phí về lao động vật hoá gồm: chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi
phí khấu hao tài sản cố định,...
Tuy nhiên trên góc độ quản lý khác nhau sẽ có các cách thể hiện, cách

hiểu khác nhau về chi phí sản xuất:
- Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Chi phí sản xuất kinh doanh là tổng
số tiền phải bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết tạo ra sản phẩm mang lại lợi ích
kinh tế cho doanh nghiệp.
- Đối với kế toán: chi phí sản xuất kinh doanh luôn gắn kiền với một kỳ
sản xuất kinh doanh nhất định và các chi phí đó phải là chi phí thực.
Trong doanh nghiệp xây lắp ta cần phải xem xét kỹ đâu là chi phí thực, vì
thế cần phải phân biệt hai khái niệm và chi tiêu(expenditure) và chi phí
(expense).
Chi tiêu là sự hao phí vật chất tại một thời điểm tiêu dùng. Nói cách khác,
chi tiêu của doanh nghiệp trong kỳ gồm: chi tiêu mua sắm nguyên vật liệu hàng
hoá, chi tiêu cho quá trình tiêu thụ. Cụ thể hơn, đó là các khoản chi tiêu làm
tăng (giảm) tài sản này nhưng lại làm giảm (tăng) một tài sản khác, do đó
không làm cho nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên hay giảm đi.
Còn chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lao động sống và lao động
vật hoá cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính cho một kỳ kinh doanh.
Ta thấy rằng chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan
hệ mật thiết với nhau, trong đó chi tiêu là cơ sở của chi phí. Không có chi tiêu
thì không có chi phí. Chi phí và chi tiêu khác nhau về lượng, về thời giá, chẳng
hạn có những khoản mục chi tiêu kỳ này nhưng được tính chi phí cho nhiều kỳ
sau (xuất dụng cụ, công cụ dụng cụ nhưng phân bổ vào chi phí nhiều kỳ
TK1421 “chi phí trả trước”), hay có những khoản được tính vào chi phí kỳ này
nhưng thực tế lại chưa chi tiêu (TK335 “chi phí phải trả”)
Như vậy, việc phân biệt chi phí và chi tiêu không chỉ có ý nghĩa trong
việc hiểu rõ bản chất của chi phí mà còn để xác định đúng nội dung, phạm vi và
phương pháp hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp.
Độ lớn của chi phí sản xuất xây lắp là một đại lượng xác định và phụ
thuộc vào 2 nhân tố chủ yếu:
- Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao vào sản xuất trong
một thời kỳ nhất định.

- Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và tiền công (tiền lương) của
một đơn vị lao động đã hao phí.
Chi phí sản xuất bao gồm nhiều khoản chi có nội dung, công dụng và
mục đích sử dụng không giống nhau. Vì vậy, để phục vụ cho công tác quản lý
nói chung và kế toán nói riêng, cần phân loại chi phí sản xuất theo tiêu thức
thích hợp .
1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp.
Chi phí sản xuất có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ
thuộc vào yêu cầu và mục đích của công tác quản lý. Việc hạch toán chi phí sản
xuất theo từng tiêu thức sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin, là cơ sở cho việc
phấn đấu giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng và tăng cường hạch toán kinh
tế trong các đơn vị xây lắp. Thông thường chi phí sản xuất trong các doanh
nghiệp xây lắp được phân loại theo các tiêu thức sau: Biểu 01
1.2.1.2.1 Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh xây lắp theo quan hệ đầu
vào của quá trình sản xuất kinh doanh xây lắp.
Theo tiêu thức này thì chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được chia thành chi phí ban đầu và chi phí luân chuyển nội bộ,
Căn cứ vào tính chất kinh tế và hình thái nguyên thuỷ, chi phí ban đầy
được chia thành các yếu tố chi phí, không kể chi phí đó dùng để làm gì, phát
sinh ở đâu, đối tượng nào chịu chi phí. Các yếu tố chi phí ban đầu gồm:
+ Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm các chi phí nguyên vật liệu chính, vật
liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu và thiết bị xây dựng...
+ Chi phí nhân công: là toàn bộ tiền công và các khoản phải trả khác cho
người lao động trong doanh nghiệp xây lắp.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ chi phí khấu hao của tất cả
tài sản cố định trong doanh nghiệp.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: là số tiền phải trả cho các dịch vụ mua
ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
+ Chi phí khác bằng tiền: là các chi phí khác bằng tiền phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh ngoài các yếu tố chi phí nói trên.

Chi phí ban đầu gồm các yếu tố chi phí có nội dung kinh tế khác biệt
không thể phân chia được nữa về nội dung kinh tế. Vì vậy, mỗi yếu tố chi phí là
các yếu tố đơn nhất.
- Chi phí luân chuyển nội bộ là các chi phí phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh do quá trình phân công hợp tác giữa các bộ phận, các đơn vị
trong nội bộ doanh nghiệp.
Chi phí luân chuyển nội bộ phát sinh do có sự kết hợp các yếu tố đầu vào
của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, chi phí luân chuyển nội bộ là chi phí
tổng hợp được cấu thành bởi nhiều yếu tố chi phí đơn nhất ban đầu.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo tiêu thức quan hệ đầu vào của
quá trình sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với quản lý vĩ mô và
quản trị doanh nghiệp.
+ Chi phí ban đầu theo yếu tố là cơ sở lập dự toán và kiểm tra việc thực
hiện các dự toán chi phí với kế hoạch cung cấp vật tư, lao động... trong doanh
nghiệp
+ Là cơ sở để xác định mức tiêu hao vật chất và tính thu nhập quốc dân
của doanh nghiệp, ngành và toàn bộ nền kinh tế quôc dân.
1.2.1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ của chi
phí với các khoản mục trên báo cáo tài chính.
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi
phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Cách phân loại này giúp các nhà quản lý doanh nghiệp xác định nguồn bù
đắp chi phí . Chi phí thời kỳ phát sinh ở thời kỳ nào được tính ngay vào kỳ đó
và ảnh hưởng đến lợi tức của kỳ mà chúng phát sinh. Còn chi phí sản phẩm chỉ
phải tính để xác định kết quả ở kỳ mà sản phẩm đó được tiêu thụ, không phải ở
kỳ mà chúng phát sinh.
1.2.1.2.3. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh xây lắp theo mối quan hệ
chi phí với quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và quá trình kinh doanh
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi
phí cơ bản và chi phí chung.

Phân loại chi phí sản xuất theo phương thức này giúp các nhà quản lý
doanh nghiẹp xác định được phương hướng và các biện pháp tiết kiệm chi phí,
hạ giá thành sản phẩm. Đối với chi phí cơ bản là các chi phí liên quan trực tiếp
đến quá trình công nghệ, thiếu chúng không thể sản xuất được sản phẩm, vì thế
không thể tiết kiệm bằng cách cắt bỏ mà phải phấn đấu hạ thấp định mức tiêu
hao, cải tiến công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, tìm kiếm vật liệu thay thế. Còn đối
với chi phí chung phải tiết kiệm, hạn chế thậm chí loại trừ các chi phí không cần
thiết.
1.2.1.2.4. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ giữa chi
phí với đối tượng chịu chi phí
Theo mối quan hệ giữa chi phí và đối tượng gánh chịu chi phí, chi phí sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí
gián tiếp.
- Chi phí trực tiếp: đối với doanh nghiệp xây lắp thì chi phí trực tiếp là
những chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến việc sản xuất một công trình,
hạng mục công trình, một hoạt động sản xuất xây lắp hoặc một địa điểm nhất
định và hoàn toàn có thể hạch toán, quy nạp trực tiếp cho công trình, hạng mục
công trình, hoạt động hay địa điểm đó.
- Chi phí gián tiếp: là chi phí phát sinh đến nhiều công trình, hạng mục
công trình, hoạt động hoặc địa điểm nhất định. Vì thế mà không thể hạch toán,
quy nạp trực tiếp được mà được tính cho các đối tượng liên quan bằng các
phương pháp phân bổ gián tiếp.
Ta cần phân biệt cặp chi phí cơ bản và chi phí chung với cặp chi phí trực
tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí cơ bản thường là chi phí trực tiếp nhưng chi
phí cơ bản cũng có thể là chi phí gián tiếp trong trường hợp có liên quan đến
nhiều công trình, hạng mục công trình, hoạt động xây lắp, địa điểm sản xuất
...Hay chi phí chung là chi phí gián tiếp nhưng cũng có thể là chi phí trực tiếp
nếu chi phí đó chỉ phát sinh liên quan đến một công trình, một hạng mục công
trình..
Cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh này có ý nghĩa thuần tuý với

kỹ thuật hạch toán. Đối với chi phí trực tiếp có thể căn cứ vào chứng từ gốc để
tập hợp cho từng đối tượng chịu chi phí. Đối với chi phí gián tiếp nếu có liên
quan nhiều đối tượng chịu chi phí thì bắt buộc phải áp dụng phương pháp phân
bổ. Mức độ chính xác của chi phí gián tiếp tập hợp cho từng đối tượng phụ
thuộc vào tính hợp lý và khoa học của tiêu chuẩn phân bổ chi phí. Vì vậy, các
nhà quản lý doanh nghiệp phải hết sức quan tâm đến việc lựa chọn tiêu thức
phân bổ chi phí.
1.2.1.2.5. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh xây lắp theo mối quan hệ
của chi phí với khối lượng hoạt động.
Theo cách phân loại này chi phí được phân thành biến phí, định phí, chi
phí hỗn hợp.
Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng hoạt động có ý
nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý của doanh nghiệp. Nó giúp các nhà
quản lý trong việc thiết kế, xây dựng các mô hình chi phí trong mối quan hệ
giữa chi phí, sản lượng và lợi nhuận, xác định điểm hoà vốn và các quyết định
quan trọng khác trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn thế nữa, cách phân
loại này giúp các nhà quản lý xác định đúng đắn phương hướng và biện pháp
nâng cao hiệu quả chi phí sản xuất kinh doanh. Đối với biến phí cần tiết kiệm
tổng chi phí và chi phí cho mỗi đơn vị khối lượng hoạt động.Còn đối với định
phí cần phấn đấu để nâng cao hiệu lực của chi phí trong sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra các nhà quản lý còn có thể sử dụng một số thuật ngữ như: chi
phí cơ hội, chi phí chìm, chi phí chênh lệch...
1.2.2.Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
1.2.2.1. Khái niệm, bản chất của giá thành sản phẩm xây lắp.
Trong doanh nghiệp xây lắp ta có thể hiểu bản chất của giá thành sản
phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố vật chất vào giá trị sản phẩm
( công trình, hạng mục công trình) được hoàn thành. Nếu chưa có sự chuyển
dịch này thì không thể nói đến chi phí và giá thành sản phẩm. Để đánh giá chất
lượng của việc tổ chức kinh tế sản xuất kinh doanh, chi phí sản xuất phải được
xem trong mối quan hệ với kết quả mà nó tạo ra. Đó chính là sự chuyển dịch

của các yếu tố chi phí tạo nên giá thành sản phẩm xây lắp.
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí về lao động sống, lao động
vật hoá và các chi phí cần thiết khác biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp xây
lắp phải bỏ ra để hoàn thành công trình, hạng mục công trình theo quy định.
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp có ý nghĩa rất quan
trọng đối với công tác quản lý của các doanh nghiệp. Vì thế mà giá thành có
những chức năng đặc thù riêng có:chức năng bù đắp chi phí, chức năng lập giá
và chức năng đòn bẩy kinh tế.
1.2.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm.
Trong sản xuất xây lắp, để công tác kế toán tính giá thành sản phẩm phù
hợp với đặc thù riêng của ngành. Đồng thời tạo điều kiện cho việc nghiên cứu,
quản lý giá thành sản phẩm chặt chẽ hơn tránh thất thoát lãng phí chi phí dẫn
đến tính sai giá trị công trình, hạng mục công trình, cần phải phân loại giá thành
sản phẩm xây lắp.
* Phân loại theo thời điểm và cơ sở số liệu tính giá thành sản phẩm.
- Giá thành dự toán: là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây
lắp công trình.
Sản phẩm xây lắp có giá trị lớn, thời gian thi công dài mang tính chất
đơn chiếc, do đó công trình, hạng mục công trình đều có giá trị dự toán riêng.
Giá thành dự toán đều được xác định trên cơ sở các định mức và đơn giá
quy định của Nhà nước. Giá thành dự toán được lập trước khi tiến hành xây lắp,
đó chính là giá nhận thầu của đơn vị xây lắp . Như vậy, giá thành dự toán là
tổng các chi phí dự toán, được xác định như sau:
Giá thành
dự toán
Giá trị dự toán xây lắp sau thuế
Thuế GTGT
Thu nhập chịu thuế tính trước
_
=

_
Giá trị dự toán xây lắp: là chi phí cho công tác xây dựng, lắp ráp các kết
cấu kiến trúc, lắp đặt máy móc thiết bị sản xuất.
Giá trị dự toán xây lắp sau thuế bao gồm: chi phí trực tiếp, chi phí chung
và thu nhập chịu thuế tính trước và thuế GTGT.
Thu nhập chịu thuế tính trước: là khoản thu nhập mà doanh nghiệp xây
lắp được hưởng tính vào chi phí xây lắp ngay trên bảng dự toán công trình từ
khi đấu thầu. Theo quy định, do giá trị của sản phẩm xây lắp được tính ngay từ
khi tham gia đấu thầu nên doanh nghiệp có thể xác định ngay khoản lợi nhuận
định mức mà doanh nghiệp có được khi thi công công trình.
- Giá thành kế hoạch:giá thành kế hoạch được xác định xuất phát từ
những điều kiện cụ thể ở một xí nghiệp xây lắp nhất định, trên cơ sở biện pháp
thi công, các định mức và đơn giá áp dụng trong doanh nghiệp xây lắp
Giá thành kế hoạch
Giá thành dự toán
Mức hạ giá thành dự toán
Khoản bù chênh lệch vượt dự toán
+
=
_
Giá thành kế hoạch nhỏ hơn giá thành dự toán một lượng bằng mức hạ
giá thành dự toán và lớn hơn giá thành dự toán khoản bù chênh lệch dự toán để
trang trải các chi phí không tính đến trong dự toán. Với các doanh nghiệp không
có giá thành dự toán thì giá thành kế hoạch được xác định trên cơ sở giá thành
thực tế năm trước và các định mức kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp.
Giá thành kế hoạch của sản phẩm xây lắp là mục tiêu phấn đấu của
doanh nghiệp xây lắp, là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá thành. Tuy nhiên, khi tính giá thành
kế hoạch, việc quan trọng nhất là xác định đúng số tiết kiệm do hạ giá thành dự
toán nhờ các biện pháp kỹ thuật.

- Giá thành thực tế: Phản ánh toàn bộ chi phí thực tế để hoàn thành bàn
giao khối lượng xây lắp mà doanh nghiệp nhận thầu. Giá thành thực tế bao gồm:
chi phí định mức, vượt định mức, và các chi phí khác (gồm những chi phí thực
tế phát sinh như mất mát, bội chi vật tư... do nguyên nhân chủ quan của bản
thân doanh nghiệp).
Giá thành thực tế của sản phẩm xây lắp chỉ có thể tính toán được sau khi
hoàn thành khối lượng xây lắp nhất định. Giá thành thực tế của sản phẩm xây
lắp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp
trong việc tổ chức và sử dụng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật để tiến hành quá
trình sản xuất và là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp xây lắp.
* Mối quan hệ giữa giá thành kế hoạch và giá thành thực tế:
Xuất phát từ đặc điểm xây dựng và để đáp ứng được công tác quản lý về
chi phí sản xuất và giá thành trong doanh nghiệp xây dựng, giá thành công tác
xây lắp còn được theo dõi thành: giá thành của khối lượng hoàn chỉnh và giá
thành của khối lượng hoàn thành quy ước.
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn chỉnh là giá thành của những công
trình, hạng mục công trình đã hoàn thành đảm bảo kỹ thuật, đúng thiết kế, đúng
hợp đồng, bàn giao và đã được bên A (chủ đầu tư) nghiệm thu và chấp nhận
thanh toán.
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước: là giá thành của một
khối lượng công tác xây lắp đạt đến một điểm dừng kỹ thuật nhất định. Sau đó
tiến hành kiểm kê những chi phí thực tế phát sinh và điều chỉnh kịp thời ở
những giai đoạn sau khi phát hiện được nguyên nhân gây tăng giảm chi phí.
*Phân loại giá thành theo phạm vi các chi phí cấu thành.
Theo các phân loại này, chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp được chia
thành giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ.
Giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp chỉ bao gồm những chi phí phát
sinh liên quan đến việc xây dựng hay lắp đặt sản phẩm xây lắp như; chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi

công, chi phí sản xuất chung.
Giá thành toàn bộ sản phẩm xây lắp bao gồm giá thành sản xuất sản phẩm
xây lắp cộng với các chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho sản phẩm xây
lắp.
Theo các phân loại này giúp nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh
của từng công trình, hạng mục công trình mà doanh nghiệp đã thực hiện. Tuy
nhiên do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí quản
lý doanh nghiệp cho từng công trình, hạng mục công trình chỉ mang ý nghĩa
nghiên cứu vì việc phân bổ rất phức tạp do không có một tiêu thức cụ thể để tiến
hành phân bổ.
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây
lắp.
Do đặc điểm của ngành xây dựng, sản phẩm của ngành là những công
trình, hạng mục công trình mang tính đơn chiếc. Mỗi một sản phẩm có dự toán
thiết kế, dự toán thi công riêng nên mức hao phí về vật liệu, nhân công, máy thi
công cũng không giống nhau (về mức chi phí và kết cấu chi phí). Các yếu tố lao

×