LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
VÀ KIỂM TOÁN VỐN BẰNG TIỀN
I. LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1. Khái niệm, mục tiêu và các nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo
cáo tài chính.
1.1. Khái niệm về kiểm toán báo cáo tài chính.
Khi phân loại kiểm toán theo chức năng thì kiểm toán được phân biệt
thành kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán Báo cáo tài chính (Audit of Financial Statements) là sự kiểm
tra và trình bày ý kiến nhận xét của Kiểm toán viên về tính trung thực, hợp lý,
hợp thức và hợp pháp của các báo cáo tài chính.
Các khái niệm trung thực, hợp lý, hợp thức và hợp pháp được hiểu như
sau:
+ Trung thực: Là các thông tin tài chính phản ảnh đúng nội dung, bản
chất và thực trạng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
+ Hợp lý: Là các thông tin tài chính trên báo cáo tài chính phải đảm bảo
độ tin cậy cần thiết, không có các sai phạm xét trên các khía cạnh trọng yếu.
Do tính chủ quan của kế toán, không thể có các thông tin tài chính phản
ánh tuyệt đối chính xác tình hình tài chính của đơn vị. Vì vậy, khi nhận xét về
độ tin cậy của các thông tin tài chính, kiểm toán viên không sử dụng thuật ngữ “
Chính xác” mà sử dụng thuật ngữ “ hợp lý”.
+ Tính hợp thức: Một báo cáo tài chính được gọi là hợp thể thức khi được
lập phù hợp và tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được
chấp nhận).
+ Tính hợp pháp: Các báo cáo tài chính đảm bảo tính hợp lệ theo các quy
định hiện hành và các thông tin tài chính đảm bảo tuân thủ các quy định pháp
luật có liên quan.
1.2. Mục tiêu kiểm toán báo cáo tài chính.
Trong nền kinh tế thị trường, kiểm toán báo cáo tài chính là một nhu cầu
tất yếu, khách quan. Kiểm toán là một trong các biện pháp kinh tế nhất và hiệu
lực nhất để khắc phục các rủi ro thông tin trong các Báo cáo tài chính do kế toán
cung cấp.
Đoạn 11, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 quy định : “ Mục tiêu
của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho Kiểm toán viên và công ty kiểm
toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng Báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn
mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật
liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay
không? ”.
1.3. Các nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính.
Các Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải luôn nắm vững mục tiêu
kiểm toán là đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính. các
nguyên tắc cơ bản đó là:
Tuân thủ pháp luật của nhà nước.
Kiểm toán viên phải luôn luôn coi trọng và chấp hành đúng pháp luật của
nhà nước trong quá trình hành nghề kiểm toán và trong các giai đoạn thực hiện
một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động
nghề nghiệp của mình và những nhận xét, đánh giá của mình trong báo cáo
kiểm toán. Các trách nhiệm của Kiểm toán viên bao gồm:
+ Trách nhiệm của Kiểm toán viên đối với khách hàng
Phần lớn các vụ kiện liên quan đến khách hàng là do các hành vi sai lầm
của Kiểm toán viên hơn là các hành vi vi phạm hợp đồng kiểm toán. Các sai
lầm của Kiểm toán viên chủ yếu là do họ không đảm bảo tính thận trọng, sự cẩn
trọng và siêng năng cần thiết trong quá trình kiểm toán. Trách nhiệm của Kiểm
toán viên trong trườn hợp này, theo pháp luật nước ta là phải bồi thường cho
khách hàng.
+ Trách nhiệm của Kiểm toán viên đối với bên thứ ba.
Một công ty kiểm toán có thể phải chịu trách nhiệm đối với bên thứ ba
nếu họ bị thiệt hại và đòi bồi thường vì đã dựa vào các báo cáo tài chính không
trung thực nhưng đã được kiểm toán viên xác nhận. Sai lầm của Kiểm toán viên
trong trường hợp này có thể là không đủ phẩm chất và năng lực chuyên môn
cần thiết, hoặc tiến hành công việc thiếu sự cẩn thận, siêng năng, hoặc đã dính
líu vào những hành vi nghề nghiệp mất đạo đức…
+ Trách nhiệm hình sự của Kiểm toán viên .
Ngoài trách nhiệm dân sự, Kiểm toán viên còn có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự do các hành vi phạm tội theo pháp luật của các nước.
Luật pháp ở các nước đều quy định các trách nhiệm của Kiểm toán viên
đối với khách hàng, đối với bên thứ ba cũng như trách nhiệm hình sự của Kiểm
toán viên. Ở nước ta, điều 15, quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc
dân cũng quy định “ Kiểm toán viên vi phạm quy chế kiểm toán, vi phạm pháp
luật có thể bị thu hồi chứng chỉ kiểm toán chứng chỉ kiểm toán viên và bị xử lý
theo pháp luật. Nếu gây thiệt hại vật chất cho khách hàng thì phải bồi thường.
Tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.
Trong quá trình kiểm toán, Kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc
đạo đức nghề nghiệp kiểm toán, bao gồm:
+ Độc lập:
Độc lập là nguyên tắc cơ bản trong nghề nghiệp của Kiểm toán
viên.Trong quá trình kiểm toán, Kiểm toán viên không được để cho các ảnh
hưởng chủ quan hoặc khách quan, sự chi phối bởi lợi ích vật chất hoặc tinh thần
làm mất đi tính độc lập của mình đối với khách hàng kiểm toán.
Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình
có quan hệ hoặc quyền lợi kinh tế như góp cổ phần, cho vay hoặc vay vốn từ
khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp đồng
kinh tế với khách hàng và đơn vị mà họ kiểm toán .
Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán ở những đơn vị mà bản
thân họ có quan hệ họ hàng thân thuộc (như bố, mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị
em ruột) với những người trong bộ máy quản lý (Hội đồng quản trị, Ban giám
đốc, các chức vụ trưởng, phó phòng tương đương) trong đơn vị được kiểm toán.
Để đảm bảo tính độc lập, Kiểm toán viên cũng không được vừa làm dịch
vụ kế toán, vừa làm dịch vụ kiểm toán cho cùng một đơn vị khách hàng ở cùng
một đơn vị.
+ Chính trực: Kiểm toán viên phải là người thẳng thắn, trung thực và phải
có chính kiến rõ ràng.
+ Khách quan: Kiểm toán viên phải vô tư, công bằng, tôn trọng sự thật,
không được thành kiến và thiên vị.
+ Năng lực chuyên môn và tính cẩn trọng: Kiểm toán viên phải thực hiện
công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận
trọng cao nhất và tinh thần siêng năng về nghề nghiệp. Các tổ chức nghề nghiệp
về kế toán, kiểm toán, các công ty kiểm toán và các cơ sở đào tạo Kiểm toán
viên phải thường xuyên đào tạo cho Kiểm toán viên tính thận trọng, cẩn thận và
siêng năng về nghề nghiệp cao hơn mức tối thiểu cần thiết để có thể có hạn chế
được rủi ro kiểm toán và thoát được sự trừng phạt về mặt pháp luật. Kiểm toán
viên cũng có nhiệm vụ duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động
thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu
công việc.
+ Tính bí mật: Kiểm toán viên phải bảo mật các thông tin có được trong
quá trình kiểm toán, không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được
phép của người có thầm quyền, trừ khi phải có nghĩa vụ công khai theo yêu cầu
của pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình.
+ Tư cách nghề nghiệp:
Kiểm toán viên phải trau dồi và bảo vệ uy tín nghề nghiệp, không được gây
ra những hành vi có thể làm giảm uy tín nghề nghiệp của mình.
+ Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn.
Trong quá trình kiểm toán, Kiểm toán viên và các tổ chức kiểm toán phải
tuân thủ các chuẩn mực chuyên môn đã được quy định trong chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam hoặc các chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Việt Nam chấp nhận.
2. Nội dung và chủ thể kiểm toán Báo cáo tài chính.
2.1. Nội dung của kiểm toán báo cáo tài chính.
Để có thể đưa ra ý kiến nhận xét về toàn bộ các báo tài chính, Kiểm toán
viên phải tiến hành kiểm toán từng bộ phận cấu thành – tức là các chỉ tiêu trong
báo cáo tài chính của đơn vị. Do các chỉ tiêu trong Báo cáo tài chính có mối liên
hệ mật thiết với nhau nên trong thực tế, công việc kiểm toán báo cáo kiểm toán
được phân chia thành các chu kỳ bao gồm:
+ Kiểm toán chu kỳ doanh thu và thu tiền.
+ Kiểm toán chu kỳ tiền lương và nhân sự.
+ Kiểm toán chu kỳ mua vào và thanh toán.
+ Kiểm toán chu kỳ tồn kho, nhập kho, chi phí và giá thành.
+ Kiểm toán chu kỳ huy động vốn (Nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu và
hoàn trả).
+ Kiểm toán vốn bằng tiền.
+ Kiểm toán tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn.
+ Kiểm toán tài sản cố định và đầu tư dài hạn.
+ Kiểm toán nguồn vốn.
+ Kiểm toán doanh thu.
+ Kiểm toán chi phí.
+ Kiểm toán kết quả và phân phối kết quả.
2.2. Chủ thể kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên nhà nước.
Các Kiểm toán viên nhà nước thực hiện kiểm toán hoạt động như một
phần của kiểm toán báo cáo tài chính. Quá trình kiểm toán báo cáo tài chính
cùng gắn liền với cả kiểm toán tính tuân thủ các luật lệ, các nguyên tắc, các chế
độ và các quy định có liên quan đến tình hình tài chính đơn vị.
Kiểm toán viên nội bộ.
Chức năng quan trọng và chủ yếu nhất của kiểm toán viên nội bộ là thực
hiện các cuộc kiểm toán hoạt động trong đơn vị. Tuy vậy, kiểm toán hoạt động
cũng có thể được tiến hành cùng với kiểm toán báo cáo tài chính và thường gắn
liền với kiểm toán báo cáo tài chính.
Khác với kiểm toán bên ngoài, trong khi kiểm toán báo cáo tài chính,
Kiểm toán viên nội bộ còn kiểm toán cả các báo cáo kế toán quản trị và báo cáo
kế toán của các đơn vị thành viên trực thuộc. Mục đích của kiểm toán báo cáo
tài chính của kiểm toán viên nội bộ là giúp chủ doanh nghiệp (hoặc thủ trưởng
đơn vị) ký duyệt báo cáo tài chính. Do tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ bị
hạn chế nên về nguyên tắc kiểm toán viên nội bộ các báo cáo tài chính không
thể thay thế cho kiểm toán viên ở bên ngoài (kiểm toán Nhà nước và kiểm toán
độc lập).
Kiểm toán viên độc lập
Nhu cầu kiểm tra, xác nhận báo cáo tài chính đã làm nảy sinh kiểm toán
độc, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, kiểm toán báo cáo tài chính
do các kiểm toán viên độc lập của các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp là hoạt
Giai đoạn IIThực hiện kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn ILập kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn IIIHoàn thành kiểm toán
động mang tính thông lệ phổ biến. Doanh thu từ dịch vụ kiểm toán báo cáo tài
chính thường chiếm trên 50% tổng doanh thu của các công ty kiểm toán hàng
đầu thế giới.
3. Quy trình kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán bảng khai tài chính không phải có trình tự như nhau cho mỗi
lần kiểm toán ở một cương vị cụ thể với điều kiện và lực lượng kiểm toán cụ
thể. Mặc dù đối tượng trực tiếp của kiểm toán tài chính chỉ là các bảng khai tài
chính song khách thể của kiểm toán tài chính lại rất đa dạng. Khách thể này có
thể là các bộ, tỉnh, huyện, xã, là các cấp ngân sách nhà nước, có thể là các
doanh nghiệp có ngân sách riêng và các khách thể tự nguyện khác. Đặc biệt là
các đối tượng và khách thể phức tạp hoặc có thế lực cản trở hay cố tình dấu
diếm vi phạm…trình tự công tác kiểm toán cũng phải hết sức linh hoạt, sáng tạo
như một nghệ thuật thực thụ. Tuy nhiên dù bản thân công tác kiểm toán khác
nhau song trong mọi trường hợp, tổ chức kiểm toán đều phải được thực hiện
theo một quy trình chung với ba giai đoạn cơ bản sau:
Các giai đoạn trong trong một quy trình kiểm toán
3.1. Lập kế hoạch kiểm toán .
Kế hoạch chiến lược
Kế hoạch kiểm toán tổng thể
Chương trình kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các Kiểm toán viên cần
thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như
các điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 300 quy định “ Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải lập kế hoạch
kiểm toán để đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả”.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung cũng như
hoạt đông kiểm toán độc lập nói riêng là những hoạt động hết sức mới mẻ.
Trong khi đó hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán chưa đầy đủ, nội dung,
quy trình cũng như phương pháp được vận dụng trong các cuộc kiểm toán ở
Việt Nam mới ở giai đoạn ban đầu, nguồn tài liệu thiếu cả về số lượng. Do vậy,
kế hoạch kiểm toán cần được coi trọng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả công
việc kiểm toán. Thực tiễn hoạt động kiểm toán ở nước ta trong những năm vừa
qua cho thấy kế hoạch kiểm toán được lập đấy đủ và chu đáo là một trong
những nhân tố hàng đầu đưa đến sự thành công của một cuộc kiểm toán cũng
như dẫn đến sự thành công của các doanh nghiệp.
Kế hoạch kiểm toán gồm ba bộ phận có thể khái quát theo sơ đồ dưới đây
Lập kế hoạch chiến lược.
Kế hoạch chiến lược là định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và
phương pháp tiếp cận chung của cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo vạch ra dựa trên
hiểu biết về tình hình hoạt động, môi trường kinh doanh của đơn vị được kiểm
toán.
Kế hoạch chiến lược phải được lập cho các cuộc kiểm toán lớn về quy
mô, tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán Báo cáo tài chính của nhiều
năm.
Kế hoạch chiến lược vạch ra mục tiêu, định hướng cơ bản, nội dung,
trọng tâm, phương pháp tiếp cận và tiến trình của cuộc kiểm toán.
Kế hoạch chiến lược do người phụ trách cuộc kiểm toán lập và được
giám đốc (hay người đứng đầu) công ty kiểm toán phê duyệt. Kế hoạch chiến
lược là cơ sở lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, là cơ sở chỉ đạo thực hiện và soát
xét kết quả cuộc kiểm toán. Kế hoạch chiến lược được lập thành một văn bản
hoặc lập thành một phần riêng trong kế hoạch kiểm toán tổng thể.(Mẫu kế
hoạch chiến lược xem ở phụ lục số 01).
Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể.
Kế hoạch kiểm toán tổng thể là cụ thể hoá kế hoạch chiến lược và
phương pháp tiếp cận chi tiết về nội dung và lịch trình và phạm vi dụ kiến của
các thủ tục kiểm toán. Mục tiêu của việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể là để
có thể thực hiện công việc kiểm toán một cách có hiệu quả và theo đúng thời
gian dự kiến.
Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán trong
đó mô tả phạm vi dự kiến và cách thức tiến hành công việc kiểm toán. Kế hoạch
kiểm toán phải đầy đủ, chi tiết làm cơ sở để lập chương trình kiểm toán. Hình
thức và nội dung của kế hoạch kiểm toán tổng thể thay đổi tuỳ theo quy mô của
khách hàng, tính chất phức tạp của công việc kiểm toán, phương pháp kỹ thuật
kiểm toán đặc thù do Kiểm toán viên sử dụng.
Những vấn đề chủ yếu Kiểm toán viên phải xem xét và trình bày trong kế
hoạch kiểm toán tổng thể gồm:
a. Hiểu biết về hoạt động của đơn vị được kiểm toán.
Hiểu biết chung về kinh tế và đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh có tác động đến
đơn vị được kiểm toán.
Các đặc điểm cơ bản của khách hàng như: lĩnh vực hoạt động kinh doanh, kết
quả tài chính và nghĩa vụ cung cấp thông tin kể cả những thay đổi từ lần kiểm
toán trước.
Năng lực quản lý của ban giám đốc.
b. Hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Các chính sách kế toán mà đơn vị được kiểm toán áp dụng và những thay đổi
trong chính sách đó.
Ảnh hưởng của các chính sách mới về kế toán và kiểm toán
Hiểu biết của Kiểm toán viên về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
và những điểm quan trọng mà Kiểm toán viên dự kiến thực hiện trong kiểm soát
và thử nghiệm cơ bản.
c. Đánh giá rủi ro kiểm toán và mức độ trọng yếu.
Rủi ro kiểm toán.
Rủi ro kiểm toán là rủi ro do Kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra
ý kiến nhận xét không thích hợp khi Báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có
những sai xót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán gồm ba bộ phận chính: Rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện.
+ Rủi ro tiềm tàng: Là rủi ro tiềm ẩn vốn có do khả năng từng nghiệp vụ,
từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai xót trọng yếu khi tính
riêng rẽ hoặc tính gộp mặc dù có hay không hệ thống kiểm soát nội bộ.
+ Rủi ro kiểm soát: Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp
vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không
phát hiện và sửa chữa kịp thời.
+ Rủi ro phát hiện: Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu từng nghiệp vụ, từng
khoản mục trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá
trình kiểm toán, Kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được.
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của Kiểm toán viên
về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau đây:
Đánh giá của Kiểm toán viên về rủi ro
kiểm soát
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá
của Kiểm
toán viên
về rủi ro
tiềm tàng
Cao Thấp nhất Thấp
Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
Trong đó mỗi loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia
thành ba mức: Cao, trung bình, thấp
Loại rủi ro phát hiện được chia thành năm mức: Cao nhất, cao, trung
bình, thấp, thấp nhất.
Mức độ rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát. Ví dụ trường hợp mức độ rủi ro tiêm tàng được Kiểm toán viên đánh
giá là cao và mức độ rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì mức độ rủi ro
phát hiện được đánh giá là trung bình nhằm giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp
đến mức có thể chấp nhận được. Ngược lại nếu mức độ rủi ro tiềm tàng là thấp
và mức độ rủi ro kiểm soát được đánh giá là trung bình thì có thể xác định mức
độ rủi ro phát hiện là cao nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán là thấp có thể
chấp nhận được.
Trọng yếu: Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông
tin hoặc một số liệu trong Báo cáo tài chính.
Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 “ Tính trọng yếu trong kiểm
toán”, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ ngược chiều nhau
nghĩa là nếu mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược
lại. Kiểm toán viên phải quan tâm mối quan hệ này khi xác định bản chất, thời
gian và phạm vi của thủ tục kiểm toán cần thực hiện.
d. Nội dung, lịch trình và phạm vi thủ tục kiểm toán.
Những thay đổi quan trọng của các vùng kiểm toán
Ảnh hưởng của công nghệ thông tin tới các công việc kiểm toán
Công việc kiểm toán nội bộ và ảnh hưởng của nó đối với các thủ tục kiểm toán
độc lập
e. Phối hợp chỉ đạo giám sát và kiểm tra
Sự tham gia của các Kiểm toán viên khác trong công việc kiểm toán những đơn
vị cấp dưới như các công ty con, các chi nhánh, các đơn vị trực thuộc
Sự tham gia của các chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác.
Số lượng đơn vị trực thuộc phải kiểm toán.
Yêu cầu về nhân sự.
f. Các vấn đề khác cần quan tâm
Khả năng liên tục hoạt động kinh doanh của đơn vị
Những vấn đề đặc biệt quan tâm như sự hiện hữu của các bên liên quan.
Điều khoản của hợp đồng kiểm toán và những trách nhiệm pháp lý khác.
Nội dung và thời hạn lập Báo cáo kiểm toán hoặc những thông báo khác dự
định gửi cho khách hàng.
Chương trình kiểm toán.
Chương trình kiểm toán là toàn bộ những chỉ dẫn cho Kiểm toán viên và
trợ lý kiểm toán tham gia vào công việc kiểm toán và là phương tiện ghi chép,
theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện kiểm toán. Chương trình kiểm toán chỉ
dẫn mục tiêu kiểm toán từng phần hành, nội dung lịch trình và phạm vi của các
thủ tục kiểm toán cụ thể và thời gian ước tính cần thiết cho từng phần hành.
Chương trình kiểm toán phải được lập và thực hiện cho mọi cuộc kiểm
toán. Khi xây dựng chương trình kiểm toán, Kiểm toán viên phải xem xét các
đánh giá về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, cũng như mức độ đảm bảo phải
được thông qua thử nghiệm cơ bản. Kiểm toán viên cần phải xem xét:
+ Thời gian để thực hiện thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản.
+ Sự phối hợp từ phía khách hàng, từ trợ lý kiểm toán trong nhóm và sự
tham gia của Kiểm toán viên khác hoặc các chuyên gia khác.
3.2. Thực hiện kiểm toán.