LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.1.SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.1.1.Hoạt động tài chính doanh nghiệp
Theo luật doanh nghiệp số 13/1999/QH ngày 12 tháng 6 năm 1999 thì
doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, thực hiện
các hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích làm tăng
giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong
những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt dộng tài
chính doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp đó là: tăng
giá trị tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp, tối đa hoá lợi nhuận,…
Tài chính doanh nghiệp là tổng thể những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp
chủ yếu bao gồm:
1.Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước.
2.Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính.
3.Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác.
4.Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.
Các quan hệ tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong cả quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, nhà doanh
nghiệp phải giải quyết một số vấn đề quan trọng sau đây:
Thứ nhất: nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với
loại hình sản xuất kinh doanh lựa chọn? Đây là chiến lược đầu tư dài hạn của
doanh nghiệp và là cơ sở dự toán vốn đầu tư.
Thứ hai: nguồn vốn đầu tư mà doanh nghiệp có thể khai thác và sử
dụng là nguồn nào?
Thứ ba: nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính như thế nào?
Chẳng hạn như: sử dụng lợi nhuận; phân tích, đánh giá, kiểm kê các hoạt động
tài chính; đảm bảo cân bằng qua sự thu chi phù hợp. Đây là các quyết định
ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý tài sản lưu động của doanh
nghiệp.
Mặc dù ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh của tài chính
doanh nghiệp song đây là những vấn đề quan trọng nhất. Hoạt động tài chính
doanh nghiệp chính là giải quyết tốt ba vấn đề trên.
Để đạt được những mục tiêu đề ra doanh nghiệp cần phải có những
quyết định đúng đắn về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn luôn phải chủ động
trước mọi diễn biến phức tạp của môi trường xung quanh để từ đó đưa ra
được quyết định phù hợp. Có như vậy thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và
phát triển. Để có được những quyết định phù hợp đó thì một trong những công
việc quan trọng mà doanh nghiệp phải tiến hành đó là phân tích tài chính
doanh nghiệp. Như vậy phân tích tài chính doanh nghiệp là một bộ phận của
hoạt động tài chính doanh nghiệp. Và ngược lại, hoạt động tài chính doanh
nghiệp lại là cơ sở cho quá trình phân tích tài chính. Thông qua phân tích tài
chính nhà doanh nghiệp sẽ đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp để từ
đó đưa ra những quyết định phù hợp và đúng đắn.
1.1.2.Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm,phương pháp
và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về
quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi
ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
Mối quan tâm hàng đầu của phân tích tài chính doanh nghiệp là phân
tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính từ đó đưa ra các
thông tin về khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động
và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Chính các thông tin đưa ra sẽ giúp cho
người sử dụng thông tin xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh
nghiệp trong quá khứ và hiện tại, để từ đó nhận biết, phán đoán, dự báo và
đưa ra các quyết định tài chính, quyết định đầu tư và tài trợ phù hợp. Từ đó
góp phần giúp doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong thời buổi nền
kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
1.1.3.Mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp
Thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính
đặc trưng, các thông tin về mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với ngân
sách nhà nước, với thị trường và với nội bộ doanh nghiệp, phân tích tài chính
sẽ cho thấy những điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Nhờ đó những người quan tâm đến hoạt động của Công ty
sẽ có các biện pháp và quyết định phù hợp. Những quyết định của nhà quản lý
đều liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới khả năng phát triển, khả năng tối đa
hoá tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp. Đồng thời việc phân tích tài chính
cũng sẽ cho thấy được khả năng tiếp ứng đầu tư, tài trợ, thanh toán nợ. Qua đó
nhà doanh nghiệp biết nên đầu tư cho doanh nghiệp như thế nào, sử dụng và
khai thác những nguồn nào là hợp lý.
Phân tích tài chính cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết
giúp kiểm tra phân tích tổng hợp toàn diện, có hệ thống tình hình sản xuất kinh
doanh, tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp. Nhà quản lý
tài chính khi phân tích tài chính cần phải cân nhắc tính toán tới mức độ rủi ro,
khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Giữa hai yếu tố rủi ro và doanh lợi có mối
tương quan nhất định: rủi ro càng lớn thì doanh lợi càng cao và ngược lại. Mối
quan tâm hàng đầu của những nhà quản lý tài chính là đánh giá rủi ro, phá
sản tác động tới doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán,
khả năng hoạt động, khả năng cân đối vốn và khả năng sinh lời của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các dự
đoán về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương
lai. Ngoài ra phân tích tài chính còn cung cấp những thông tin, số liệu để kiểm
tra, giám sát tình hình hạch toán kinh doanh, tình hình chấp hành các chính
sách chế độ kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Nền kinh tế ngày càng phát
triển thì việc phân tích tài chính ngày càng trở nên quan trọng vì nó là một
trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Phân
tích tài chính cho thấy khả năng và tiềm năng kinh tế của doanh nghiệp, do đó
sẽ gúp cho công tác dự báo, lập kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn.
Hiện nay việc phân tích tài chính được rất nhiều đối tượng quan tâm.
Tuy nhiên những người phát triển tài chính ở những cương vị khác nhau sẽ
nhằm các mục tiêu khác nhau.
1.1.3.1.Phân tích tài chính đối với các nhà quản trị
Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là
phân tích tài chính nội bộ, khác với phân tích tài chính bên ngoài do các nhà
phân tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Do có thông tin đầy đủ và hiểu rõ về
doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế
để có thể phân tích tốt nhất. Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm những mục
tiêu sau đây:
- Tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh
quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán,
trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
- Định hướng các quyết định của Ban Tổng giám đốc cũng như của giám
đốc tài chính: quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần,…
- Là cơ sở cho dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, ...
- Cuối cùng, phân tích tài chính là công cụ để kiểm soát các hoạt động
quản lý.
Phân tích tài chính làm nổi bật tầm quan trọng của dự báo tài chính và
là cơ sở cho các nhà quản trị, làm sáng tỏ không chỉ chính sách tài chính mà
còn làm rõ các chính sách chung.
1.1.3.2.Phân tích tài chính đối với nhà đầu tư
Các nhà đầu tư là cá nhân hoặc doanh nghiệp quan tâm trực tiếp đến
tính toán các giá trị của doanh nghiệp vì họ đã giao vốn cho doanh nghiệp và
có thể phải chịu rủi ro. Thu nhập của họ là tiền chia lợi tức cổ phần và giá trị
tăng thêm của vốn đầu tư. Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ
vọng của doanh nghiệp. Trong thực tế, các nhà đầu tư thường tiến hành đánh
giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Câu hỏi trọng tâm là: lợi nhuận bình
quân cổ phiếu của Công ty là bao nhiêu? Chúng ta cũng sẽ thấy rằng họ không
hài lòng trước lợi nhuận tính toán theo sổ sách kế toán và cho rằng phần lợi
nhuận này có quan hệ rất xa so với lợi nhuận thực tế. Dự kiến trước lợi nhuận
sẽ được nghiên cứu đầy đủ trong chính sách phân chia lợi tức cổ phần và trong
nghiên cứu rủi ro hướng các lựa chọn vào những cổ phiếu phù hợp nhất.
Các cổ đông cá nhân của các Công ty lớn nói chung phải dựa vào các nhà
chuyên môn. Họ là những người chuyên nghiên cứu các thông tin kinh tế tài
chính, có những cuộc tiếp xúc trực tiếp với ban giám đốc tài chính của Công ty
làm rõ triển vọng phát triển doanh nghiệp và đánh giá các cổ phiếu trên thị
trường tài chính.
1.1.3.3.Phân tích tài chính đối với người cho vay
Nếu phân tích tài chính được phát triển trong các ngân hàng khi ngân
hàng muốn đảm bảo về khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, thì phân tích tài
chính cũng được các doanh nghiệp cho vay, ứng trước, bán chịu sử dụng.
Phân tích tài chính đối với các khoản nợ dài hạn khác với những khoản
cho vay ngắn hạn.
- Nếu là những khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan
tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng
phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi đến hạn trả.
- Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả
năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và
lãi sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời này.
Chi phí cho vay thay đổi theo số tiền cho vay và theo thời hạn của khoản
vay, nhưng dù cho nó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều
quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp
đi vay.
1.1.3.4.Phân tích tài chính đối với những người hưởng lương trong
doanh nghiệp
Khoản tiền lương nhận được từ doanh nghiệp luôn là nguồn thu nhập
lớn của người hưởng lương. Như vậy lợi ích của họ gắn liền với tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Sự quan tâm của người hưởng lương trong doanh
nghiệp đến tình hình tài chính của công ty cũng là một cách phân tích tài chính.
Họ cũng quan tâm đến những thông tin và số liệu đánh giá, xem xét tình hình
tài chính, thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.NỘI DUNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.2.1.Tổ chức và quy trình thực hiện công tác phân tích tài chính
doanh nghiệp
1.2.1.1.Tổ chức công tác phân tích tài chính
Quá trình tổ chức công tác phân tích tài chính được tiến hành tuỳ theo
loại hình tổ chức kinh doanh ở các doanh nghiệp nhằn mục đích cung cấp, đáp
ứng nhu cầu thông tin cho quá trình lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết định.
Công tác tổ chức phân tích phải làm sao thoả mãn cao nhất nhu cầu thông tin
của từng loại hình quản trị khác nhau. Thông thường công tác phân tích tài
chính được tổ chức dưới một số hình thức sau:
- Công tác phân tích tài chính có thể được bố trí nằm ở trong một bộ
phận riêng biệt đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của ban giám đốc và làm
tham mưu cho giám đốc. Theo hình thức này quá trình phân tích thể hiện được
toàn bộ nội dung của hoạt động kinh doanh. Nó được tiến hành một cách
thường xuyên, liên tục. Kết quả phân tích sẽ cung cấp thông tin thường xuyên
cho lãnh đạo trong doanh nghiệp. Trên cơ sở này các thông tin qua phân tích
được truyền từ trên xuống theo hình chức năng quản lý và quá trình giám sát,
kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh, chấn chỉnh đối với từng bộ phận của doanh
nghiệp theo cơ cấu từ ban giám đốc đến các phòng ban trong công ty.
- Công tác phân tích tài chính cũng có thể được thực hiện ở nhiều bộ
phận riêng biệt theo các chức năng quản lý nhằm cung cấp thông tin và thoả
mãn thông tin cho các bộ phận của quản lý được phân quyền:
+Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về chi phí,
bộ phận này sẽ tổ chức thực hiện thu thập thông tin và tiến hành phân tích tình
hình biến động chi phí, giữa thực tế so với định mức nhằm phát hiện chênh
lệch chi phí để từ đó tìm ra nguyên nhân và đề ra giải pháp. Đối với bộ phận
này khi tiến hành tổ chức công tác phân tích tài chính phải chú ý thu thập
nguồn thông tin sát thực tế để phục vụ cho công tác phân tích đạt hiệu quả tối
ưu. Bên cạnh những nguồn thông tin từ các báo cáo tài chính của doanh
nghiệp cần chú ý đến những thông tin bên ngoài như thông tin về giá cả thị
trường, tình hình biến động của những mặt hàng mà công ty đang sử dụng
làm yếu tố đầu vào,…
+Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về doanh
thu, là bộ phận kinh doanh riêng biệt theo địa điểm hoặc một số sản phẩm
nhóm hàng riêng biệt, do đó họ có quyền với bộ phận cấp dưới là bộ phận chi
phí. Ứng với với bộ phận này thường là trưởng phòng kinh doanh hoặc giám
đốc kinh doanh tuỳ theo doanh nghiệp. Bộ phận này sẽ tiến hành thu thập
thông tin, tiến hành phân tích báo cáo thu nhập, đánh giá mối quan hệ chi phí-
lợi nhuận, lập và tính toán các chỉ tiêu tài chính. Như vậy phân tích tài chính
tại bộ phận này là hết sức quan trọng. Việc tổ chức công tác phân tích tài chính
tại bộ phận này đòi hỏi phải công phu tỉ mỉ và có quy trình khoa học rõ ràng
bởi đây là công việc làm cơ sở để đánh giá khả năng hoàn vốn trong kinh
doanh, kết quả mà doanh nghiệp thu được trong quá trình sản xuất kinh
doanh, tình hình thực hiện kế hoạch và giúp nhà quản trị đưa ra được chiến
lược phát triển, định hướng kinh doanh trong thời gian tới.
Cho dù công tác phân tích tài chính được tổ chức dưới hình thức nào đi
chăng nữa thì công việc này phải được thực hiện theo một quy trình nhất định
và hợp lý. Quy trình đó sẽ được trình bày ở mục dưới đây.
1.2.1.2.Quy trình thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp
Trong công tác phân tích tài chính thì quy trình thực hiện phân tích là
một yếu tố rất quan trọng. Nó quyết định tính chính xác của các chỉ tiêu tài
chính và cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết cho việc lập chiến lược, kế
hoạch phát triển sản xuất kinh doanh cho thời gian tới. Quy trình của công tác
phân tích tài chính bao gồm các bước sau:
- Bước 1: Thu thập thông tin
Phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng mọi nguồn thông tin có khả
năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính, hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán, đánh giá, lập kế
hoạch và chiến lược phát triển công ty trong tương lai. Các thông tin sử dụng
trong phân tích tài chính bao gồm những thông tin bên trong và bên ngoài
doanh nghiệp. Thông tin bên trong doanh nghiệp chủ yếu là các báo cáo tài
chính, còn các thông tin bên ngoài bao gồm các thông tin về thị trường, chính
sách tài chính, …Vì vậy khi tiến hành thu thập thông tin phải quan tâm tới cả
thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
- Bước 2: Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình xử
lý thông tin đã thu thập được. Trong giai đoạn này, người ta sử dụng thông tin
ở góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt
ra. Xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất
định nhằm so sánh, đánh giá, giải thích, xác định nguyên nhân của các kết quả
đã đạt được nhằm phục vụ cho quá trình phân tích và ra quyết định sau này.
Có xử lý thông tin tốt thì quá trình phân tích mới đạt được hiệu quả.
- Bước 3: Phân tích và ra quyết định
Hai giai đoạn thu thập và xử lý thông tin chính là cơ sở vô cùng quan
trọng để tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Sau khi xử
lý các thông tin thu thập được, nhận thấy sự biến động khác biệt của nó người
phân tích sẽ tiến hành tìm hiểu để biết nguyên nhân của vấn đề và những nhân
tố làm ảnh hưởng tới sự biến động này. Từ đó họ tìm cách khắc phục những
hạn chế còn tồn tại và phát huy hơn nữa những mặt tốt đã đạt được. Đây là
một bước hết sức quan trọng trong công tác phân tích tài chính, nó đòi hỏi
phải có trình độ chuyên môn cao, sự nhạy cảm trong công việc cũng như ý thức
trách nhiệm của cán bộ phân tích.
Sau khi tiến hành phân tích, mỗi đối tượng khác nhau sẽ có các quyết
định khác nhau. Đối vơi các chủ doanh nghiệp, họ sẽ căn cứ vào các kết quả
phân tích để đưa ra các quyết định tài chính cần thiết và phù hợp nhằm đạt
được các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp. Còn đối với chủ đầu tư thì kết
quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp sẽ giúp họ đưa ra quyết định có nên
đầu tư vào công ty nữa hay không? Nếu có thì đầu tư bao nhiêu là hợp lý?
1.2.2.Thu thập thông tin trong công tác phân tích tài chính doanh
nghiệp
1.2.2.1.Nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Đây là những thông tin có liên quan đến cơ hội kinh doanh, nghĩa là tình
hình chung về kinh tế tại một thời điểm trước đó. Sự suy thoái hoặc tăng
trưởng có tác động mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh. Khi có cơ hội thuận lợi
các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận của công ty cũng
tăng lên. Hiện nay những thông tin về tình hình kinh tế thế giới và nền kinh tế
Việt Nam được các tổ chức chuyên môn cập nhật từng ngày và thường xuyên
công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là nguồn thông tin rất
cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào bởi vì khi phân tích tài chính
doanh nghiệp, điều quan trọng là phải nhận thấy sự xuất hiện của cơ hội mang
tính chu kỳ: qua thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến giai đoạn suy thoái và ngược
lại.
Đồng thời, cần phải đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên
hệ với các hoạt động chung của ngành kinh tế bởi vì trong cùng ngành sẽ có
những tính chất và đực điểm giống nhau. Những nghiên cứu theo ngành sẽ chỉ
rõ:
- Tầm quan trọng của ngành nghiên cứu trong nền kinh tế
- Các sản phẩm và hoạt động khác nhau của ngành
- Quy trình công nghệ
- Cơ cấu ngành (mức độ tập trung hoá, các tập đoàn chủ yếu,…) và độ nhạy của
ngành trước những biến động của cơ hội.
- Độ lớn của thị trường và triển vọng phát triển.
- Vị trí công tác nghiên cứu và phát triển luôn đặt điều kiện cho tawng trưởng
của ngành.
Ngoài ra trong phân tích tài chính còn phải lưu ý thu thập những thông
tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp (các thông tin mà doanh nghiệp
phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế
hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp,…)
1.2.2.2.Nguồn thông tin nội bộ doanh nghiệp
Để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp thì nguồn thông tin
quan trọng nhất đó là thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp. Thông tin
kế toán được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính
được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông qua
việc sử lý các báo cáo kế toán đó là: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính.
1.2.2.2.1.Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính
của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo
tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu,
quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp.
Thông thường bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân
đối số dư các tài khoản: một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn
vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài
sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp:
đó là tài sản cố định và tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh nguồn hình
thành các loại tài sản mà doanh nghiệp có đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn
chủ sở hữu (vốn tự có) và các khoản nợ.
Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà
phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính hoặc khả năng thanh
toán và cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Mặt khác, nhìn vào bảng cân đối kế toán
ta còn có thể thấy được những quyết định về đầu tư và quyết định về lựa chọn
nguồn tài trợ: quyết định về đầu tư thể hiện ở bên phần tài sản, quyết định tài
trợ thể hiện bên phần nguồn vốn.
Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng
chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Nhìn vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại
hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng
cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho nhà phân tích
đánh giá được khả năng thanh toán và khả năng cân đối của doanh nghiệp.
Bảng 1: Mẫu bảng cân đối kế toán
TÀI SẢN Mã số Số đầu Số cuối
năm kỳ
A.Tài sản lưu động & đầu tư ngắn hạn
B.Tài sản cố định & đầu tư dài hạn
TỔNG TÀI SẢN
NGUỒN VỐN
A.Nợ phải trả
B.Nguồn vốn chủ sở hữu
TỔNG NGUỒN VỐN
1.2.2.2.2.Báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tổng hợp phản ánh kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp
trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình
hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ
quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Báo cáo này cho biết kết quả kinh doanh của tiền trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó cho phép dự tính khả năng hoạt động
của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh đồng thời cũng
giúp nhà phân tích nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ
khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để
vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí có thể xác định được
kết quả sản xuất kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm.
Báo cáo kết quả kinh doanh gồm ba phần:
Phần 1: Báo cáo lỗ lãi
Phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau một kỳ
hoạt động sản xuất kinh doanh, phần này có các chỉ tiêu liên quan đến doanh
thu, chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường, hoạt động tài
chính và hoạt động bất thường của doanh nghiệp.
Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
Phản ánh trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước ở
các thời điểm đầu kỳ, trong kỳ, số luỹ kế từ đầu kỳ và số còn phải nộp cuối kỳ
đối với nhà nước. Các khoản mà doanh nghiệp phải nộp Nhà nước bao gồm:
thuế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, …
Phần 3: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn thuế, được
miễn giảm
Phản ánh số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, đã khấu trừ, còn được
khấu trừ, số thuế giá trị gia tăng được hoàn lại, đã hoàn lại và còn được hoàn
lại vào cuối kỳ.
Bảng 2: Mẫu bảng báo cáo kết quả kinh doanh
Phần 1: Lỗ, lãi
Chỉ tiêu Mã số
Quý
trước
Quý
này
LK từ
đầu
năm
_Tổng doanh thu
1.Doanh thu thuần
2.Giá vốn hàng bán
3.Lợi nhuận gộp
4.Chi phí quản lý doanh nghiệp
5.Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh
doanh
6.Thu nhập hoạt động tài chính
7.Chi phí hoạt động tài chính
8.Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính
9.Các khoản thu nhập bất thường
10.Chi phí bất thường
11.Lợi nhuận bất thường
12.Tổng lợi nhuận trước thuế
13.Thuế thu nhập doanh nghiệp
14.Lợi nhuận sau thuế
Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
Chỉ tiêu Số còn phải
nộp kỳ
Số phải
nộp kỳ này
Số đã nộp
trong kỳ
Số còn phải
nộp đến