Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.74 KB, 27 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
I. Khái niệm chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1. Sự cần thiết phải tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra trên các lĩnh vực sản
xuất, thương mại dịch vụ… Là để sản xuất và cung cấp các sản phẩm hàng hoá
cho người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu kinh doanh
đó thì nhất thiết phải bỏ ra các chi phí nhất định.
Chi phí và giá thành sảnt phẩm là các chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống
các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp và có mối quan
hệ mật thiết với doanh thu, kết quả của hoạt động kinh doanh, do vậy luôn được
chủ doanh nghiệp rất quan tâm.
Để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp sử dụng
nhiều công cụ quản lý kinh tế khác nhau, trong đó kế toán luôn được coi là công
cụ quan trọng và hiệu quả nhất. Trong điều kiện hiện nay khi mà chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm đang là vấn đề then chốt thì kế toán càng có ý nghĩa
thiết thực đối với công tác quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1.1. Khái niệm chi phí sản xuất và các cách phân loại CPSX chủ yếu.
1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất.
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loại người gắn liền với quá trình sản
xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền
với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói
cách khác, quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của 3 yếu tố như: Tư
liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất
hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân của 3 yếu tố trên.
Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ ra chi phí về
thù lao lao động, về tư liệu lao động vào đối tượng lao động. Vì thế, sự hình
thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là yếu tố
khách quan, không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của người sản xuất.
Có thể nói chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí


về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong một kỳ kinh doanh nhất định mà có
thể là ( tháng, quý, năm), còn chi phí sản xuất thì kiên quan trực tiếp đến quá
trình sản xuất của một doanh nghiệp nhất định.
Cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu, chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch
toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm
sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi chi phí đã chi ra trong kỳ hạch toán.
Ngược lại, chỉ tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của
doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. tổng số chi tiêu trong kỳ
của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp như: chi mua vật tư,
hàng hoá…;chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh như: chi cho sản xuất,
chế tạo sản phẩm, thiết kế, công tác quản lý…; và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ
như: chi phí vận chuyển bốc dỡ, quảng cáo,khuyến mại…
Chi phí và chỉ tiêu là 2 khái niệm khác nhau những có quan hệ mật thiết
với nhau. Chỉ tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chỉ tiêu thì không có
chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài
sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ
này. Chi phí và chỉ tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về
thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ nay nhưng tính vào chi phí của kỳ sau
như: (chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng ) và có nhưng
khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu như(chi phí phải trả).
Sỡ dĩ có sự khác nhau giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc
điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài
sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng.
1.1.2. Các cách Phân loại chi phí sản xuất chủ yếu:
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại,
từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Chi phí sản xuất có thể
được chia thành theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích và yêu
cầu của công tác quản lý.Tuy nhiên, về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường
được chia theo các tiêu thức sau:

1.1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục gía thành.
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu
đồng nhất với nó mà không xết đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi
phí được phân theo yếu tố chi phí. Cách phân loại này giúp cho việc sản xuất và
phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, thiết kế và phân tích các
mức chi phí. Theo quy định hiên nay ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm
3 loại sau:
a. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Phản ánh toàn bộ chi phí về giá trị nguyên vật liệu chính,vật liệu phụ, nhiên
liệu, phụ tùng thay thế…sử dụng trực tiếp vào việc sản xuất kinh doanh, chế tạo
sản phẩm, hay thực hiên lao vụ dịch vụ(loại trừ giá trị không dùng hết, nhập lại
kho và phế liệu thu hồi)
b. Chi phí nhân công trực tiếp:
Gồm chi phí về tiền lương, các khoản phụ cấp mang tính chất lương phải
trả cho công nhân sản xuất chính. Và các khoản trích cho các quỹ như: BHXH,
BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải
trả cho công nhân viên.
c. Chi phí sản xuất chung:
Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất ( trừ chi phí
nguuyên vật liệu trực tiếp, và chi phí nhân công trực tiếp). Ví dụ như: chi phí
sữa chữa máy móc, lương nhân viên quản lý phân xưởng, nguuyên vật liệu dùng
trong sản xuất sản phẩm và các khoản chi phí khác phát sinh trong quá trình sản
xuất.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong gía thành sản phẩm và để thuận tiện
cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục chi phí. Cách
phân loại này dựa vào công dụng của chi phí mà mức phân bổ chi phí cho từng
đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm bao gồm khoản mục
chi phí sau: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sản xuất chung, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Việc phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục giá thành giúp cho doanh

nghiệp tính được giá thành các loại sản phẩm, đồng thời căn cứ vào công dụng
kinh tế và đặc điểm phát sinh của chi phí để xác định ảnh hưởng của sự biến
động của từng khoản mục đối với toàn bộ giá thành sản phẩm nhằm phân biệt
và khai thác lượng tiềm tàng trong nội bộ doanh nghiệp để hạ thấp giá thành.
1.1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất theo tính chất biến đổi của chi phí.
● Chi phí cố định: Là những khoản chi phí không biến đổi khi mực độ
hoạt động thay đổi, nhưng khi tính cho một dơn vị hoạt động thì định phí thay
đổi. Khi mức độ hoạt động tăng thì định phí tính cho một đơn vị hoạt động giảm
và ngược lại.
- Định phí cố định bao gồm các khoản sau:
+ Chi phí khấu hao TSCĐ.
+ Chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị.
+ Chi phí về tiền thuê đất, nhà…
+ Chi phí quản lý, chi phí bán hàng.
-Định phí cố định còn có thể được chia lam 2 loại:
+ Định phí tuỳ ý: Là định phí có thể thay đổi một cách nhanh chóng
bằng hạnh động quản trị. Các nhf quản trị có thể quyết định mức độ và số lượng
định phí này trong các quyết định hàng năm.
+ Định phí bắt buộc: Là định phí không thể thay đổi một cách nhanh
chóng vì chúng thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc cơ bản của doanh
nghiệp. định phí bắt buộc có tính chất lâu dài và ảnh hưởng đến mục tiêu của
doanh nghiệp nên không thể cắt giảm một cách tuỳ tiện, dù chỉ trong một thời
gian ngắn. Do đó, mức hoạt động có thể giảm hay đình đốn ở một kỳ nao đó,
định phí bắt buộc vẫn giữ nguyên không đổi.
● Chi phí biến đổi: Là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận
với biến động về mức độ hoạt động. Biến phí khi không có hoạt động thì bằng
“không”. Biến phí thường gồm các khoản chi phí như:
+ Chi phí nguyên vật liệu chính
+ Chi phí nguyên vật liệu phụ
+ Chi phí nguyên liệu và năng lượng dùng trong sản xuất

+ Tiền lương của công nhân sản xuất.
- Nếu xét về tính tác động, biến phí biến đổi chia làm 2 loại:
+ Biến phí tỷ lệ: Là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận trực tiếp
với biến động của mức độ hoạt động( VD: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công tực tiếp…)
+ Biến phí cấp bậc: Là những khoản chi phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt
động thay đổi nhiều và rõ ràng. Biến phí loại này không đổi khi mức độ hoạt
động thay đổi ít ( VD: chi phí lao động gián tiếp, chi phí bảo trì sữa chữa
máy…)
Chiến lược của các nhà quản trị doanh nghiệp trong việc ứng phó với biến
phí cấp bậc là phải nắm được toàn bộ khả năng cung ứng của từng bậc để tránh
khuynh hướng huy động quá nhiều so với nhu cầu, vì điều này sẽ gây khó khăn
khi nhu cầu sau đó sẽ giảm đi.
1.1.2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí sản xuất.
Theo yếu tố này, toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp có thể được
chia thành các yếu tố sau:
* Nguyên kiệu và vật liệu chính mua ngoài: là giá trị tất cả các nguyên
liệu và vật liệu chính dùng dùng vào sản xuất mà doanh nghiệp phải mua từ bên
ngoài bao gồm: giá mua nguyên vật liệu + chi phí vận chuuyển về kho của
doanh nghiệp + hao hụt định mức của nguyên vật liệu.
* Vật liệu phụ mua ngoài: Bao gồm giá trị của tất cả các vật liệu mua
ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ như: Bao bì
đóng gói, phụ tùng sữa chữa máy móc thiết bị…
* Nhiên liệu mua ngoài : Bao gồm giá rị năng lượng động lực mua ngoài
dùng phục vụ sản xuất của doanh nghiệp.
* Tiền lương: Bao gồm tiền lương chính và lương phụ của công nhân
trong doanh nghiệp, các khoản trích theo lương theo tỷ lệ quy đinh như:
BHXH,BHYT,KPCĐ.
* Khấu hao TSCĐ : Là số tiền trích khấu hao theo tỷ lệ quuy định về
những TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

* Các chi phí khác bằng tiền : Bao gồm những chi phí bằng tiền mặt mà
theo tính chất kinh tế thì không theo sắp xếp vào các yếu tố kể trên như: tiền
công tác phí, chi phí về bưu điện…
Vận dụng các phân loại này giúp cho doanh nghệp rõ mức chi phí về lao
động vật hoá và tiền lương trong toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát
sinh trong kỳ. Điều đó có tác dụng xác định trong việc quản lý chi phí sản xuất
và kiểm tra lại sự cân đối giữa các kế hoạch khác nhau mhư: kế hoạch khấu hao
TSCĐ, kế hoạch hạ giá thành, kế hoạch vốn lưu động của mỗi doanh nghiệp.
1.1.2.4. Phân loại CPSX theo khả năng quy nạp chi phí vào đối tượng
kế toán chi phí.
Theo tiêu thức này, chi phí sản xuất bao gồm:
* Chi phi trực tiếp: Là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng
kế toán tập hợp chi phí.
* Chi phí gáin tiếp: Là những chi phí sản xuất có liên quan đến nhiều đối
tượng kế toán tập hợp chi phí khác nhau nên không thể quy nạp trực tiếp được,
mà phải tập hợp cho từng doanh thu theo phương pháp phân bổ gián tiếp.
=> trên đây là những cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh cơ bản,
liên quan nhiều đến kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Mặt khác, ngoài các cách phân loại trên còn có một số cách phân loại khác
.
1.2. Nguyên tắc hạch toán chi phí.
Công việc đầu tiên và quan trọng của hạch toán chi phí là xác đinh đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất. Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm
2 giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch
toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn
đặt hàng… và giai đoạn tính giá thành sản phẩm. Xác định đối tượng hạch toán
chi phí sản xuất là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác
định nơ3i phát sinh chi phí và chịu chi phí.
Chi phí cần được hạch toán chi tiết theo từng loại, từng nhóm, theo cả hiện
vật và giá trị. Phải phân được chi phí một cách rõ ràng.

1.3. Khái niệm Z sản phẩm và các cách phân loại giá thành sản phẩm.
1.3.1. khái niệm giá thành sản phẩm.
Quá trình sản xuất là quá trình gồm 2 mặt thống nhất. một mặt doanh
nghiệp phải bỏ ra những chi phí sản xuất, mặt khác doanh nghiệp thu được
những chi phí sản xuất, mặt khác doanh nghiệp thu được những lao vụ dịch vụ
đã hoàn thành. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất còn giá thành
sản xuất phản ánh mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản phát sinh trong kỳ
hoặc kỳ trước chuyển sang và các khoản phí trích trước có liên quan tới việc sản
xuất chế tạo sản phảm, lao vụ dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu
giá thành sản phẩm, dịch vụ.
Giá thành sản xuất sản phẩm được biểu hiện bằng tiền, toàn bộ hao phí về
lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến
khối lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh
lượng giá trị của những giá trị lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi
ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong giá thành sản phẩm. nó chỉ bao gồm
những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ
phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gôm những
chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào
giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu
dùng cho sản xuất, tiêu thụ vào những khoản chi tiêu khác có liên quan đến việc
bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan không
phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ
các quan hệ hàng hoá tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và
không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mỡ rộng.
1.3.2. Các cách phân loại giá thành sản phẩm.
1.3.2.1. Phân loại giá thành theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính
Z.
Căn cứ vào thời điểm tính giá thành và cơ sở nguồn số liệu để tính gía
thành, giá thành được chia làm 3 loại:

* Giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch được tính trước khi bước vào
quá tình sản xuất kế hoạch, sản lượng sản phẩm kế hoạch.
* Giá thành thực tế: Được xác định sau khi kết khi kết thúc quá trình sản
xuất, trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh và tập hợp trong quá trình sản xuất
sản phẩ
* Giá thành định mức: Khác với giá thành kế hoạch được xây dựng dựa
trên cơ sở các định mức bình quân và không biến đổi suốt cả kỳ kế hoạch, giá
thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành
trên từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch( thường là ngày đầu tháng). Giá
thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí
đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
=> Cách phân loại này giúp cho việc quản lý và giám sát chi phí, xác định
được các nguyên nhân vượt( hụt) định mức chi phí trong kỳ kế hoạch, từ đó
điều chỉnh kế hoạch và định mức chi phí trong kỳ kế hoạch, từ đó điều chỉnh
kkế hoạch và định mức cho phù hợp.
1.3.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm theo phạm vi phát sinh chi phí.
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá thành
sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp:
* Giá thành sản xuất sản phẩm: Bao gồm toàn bộ chi phí của doanh nghiệp
bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm như( chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung ).
* Giá thành tiêu thụ sản phẩm hang hoá hay còn gọi là giá thành toàn bộ
của sản phẩm, hàng hoá: Bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành việc sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm ( tức là bao gồm cả chi phí lưu thông của sản phẩm).
Công thức tính:
Giá thành toàn bộ = Z sản xuất + CPBH + CPQLDN
=> Cách phân loại này có tác dụng giúp cho người quản lý biết được kết
quả kinh doanh của từng mặt hàng mà doanh nghiệp kinh doanh. Nhưng do
những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ về: chi phí bán hàng,
chi phí quản lý cho từng mặt hàng nên cách phân loại này chỉ mang ý nghĩa học

thuật, không phổ biến trên thực tế
1.3.3. Nguyên tắc tính giá thành sản phẩm.
Để thực hiện tốt các yêu cầu tính giá, ngoài việc đòi hỏi người làm công
việc kế toán phải có tinh thần trách nhiệm cao, chấp hành tốt các quy định tính
giá, kế toán còn phải quán triệt các nguyên tắc chủ yếu sau:
● Xác định đối tượng tính giá phù hợp: Thực chất xác định đối tượng
tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao
vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị.
● Phân loại chi phí hợp lý: Từ nội dung của tính giá có thể thấy chi phí là
bộ phận quan trọng cấu thành nên giá của các loại tài sản, vật tư, hàng hoá, dịch
vụ, sản phẩm. Do chi phí sử dụng để tính giá thành có nhiều loại, có loại liên
quan trực tiếp đến từng đối tượng tính giá, có loại thì liên quan gián tiếp. Bởi
vậy,cần phân loại một cách hợp lý, khoa học để tạo điều kiện cho việc tính giá.
Chi phí thường được chia làm 4 loại: chi phí thu mua, chi phí sản xuất, chi phí
bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
● Lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí thích hợp nhất định: Có một số
khoản chi phí liên quan trực tiếp đến nhiều đối tượng tính giá những không thể
tách ra được.Vì thế, cần lựa chọn tiêu thức phân bổ hợp lý sao cho gần sát với
mức tiêu hao thực tế nhất .
1.4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Về thực chất chi phí và gía thành là 2 mặt khác của quá trình sản xuất. Chi
phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất còn giá thành sản phẩm phản ánh
mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh( phát sinh trong kỳ,
PS ở kỳ trước chuyển sang) và các chi phí tính trước có liên quan đến quá trình
sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chi tiêu giá thành
sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có lliên quan
đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ.
Tuy nhiên, giữa hai khai niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có
mối quan hệ rất mật thiết với nhau vì nội dung cơ bản của chúng đều là biểu

hiện bằng tiền của những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản
xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ, là cơ sở để tính giá thành của sản
phẩm, công việc,lao vụ đã hoàn thành. Sự tiết kiểm hoặc lẵng phí của doanh
nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến gía thành sản phẩm, làm
cho giá thành sản phẩm có thể hạ xuống hoặc tăng lên.Vì vậy, quản lý giá thành
phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất.
Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm.
A B C D
CFSX dở dang đầu kỳ CPSX phát sinh trong kỳ

×